Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí Luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới)

Tài liệu Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí Luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới): TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 3 Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới) The introducers of aesthetics and foreign literature theory (after the reform period) PGS.TS. Đinh Thị Minh Hằng, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Dinh Thi Minh Hang, Assoc.Prof., Ph.D., Institute of Literature, Vietnam Academy of Social Sciences Tóm tắt Từ năm 1986 trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội, nhưng thiết chế chính trị - xã hội vẫn ổn định. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, các lý thuyết mĩ học và lí luận văn học đã được dịch và giới thiệu nhiều vào Việt Nam, cả lí luận văn học và mĩ học Mác xít cũng như lí luận văn học và mĩ học phi Mác xít. Chúng ta đã có một đội ngũ rất đông đảo những dịch giả, những nhà nghiên cứu các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học thực sự có uy tín và có ảnh hưởng đối với nề...

pdf12 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 440 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí Luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017 3 Thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí luận văn học nước ngoài (từ sau thời kỳ đổi mới) The introducers of aesthetics and foreign literature theory (after the reform period) PGS.TS. Đinh Thị Minh Hằng, Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam Dinh Thi Minh Hang, Assoc.Prof., Ph.D., Institute of Literature, Vietnam Academy of Social Sciences Tóm tắt Từ năm 1986 trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội, nhưng thiết chế chính trị - xã hội vẫn ổn định. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, các lý thuyết mĩ học và lí luận văn học đã được dịch và giới thiệu nhiều vào Việt Nam, cả lí luận văn học và mĩ học Mác xít cũng như lí luận văn học và mĩ học phi Mác xít. Chúng ta đã có một đội ngũ rất đông đảo những dịch giả, những nhà nghiên cứu các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học thực sự có uy tín và có ảnh hưởng đối với nền tư tưởng học thuật nói chung. Ở trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu những nét cơ bản về các công trình của các nhà nghiên cứu - dịch giả, đã có công lao giới thiệu các công trình mĩ học và lí luận văn học nước ngoài vào Việt Nam từ sau năm 1986. Từ khóa: thế hệ những người giới thiệu, lí thuyết Mỹ học, Lí luận văn học nước ngoài, từ sau thời kì đổi mới. Abstract In the process of reform and integration since 1986, Vietnam has experienced many changes in its social structure, but the social institution has remained stable. From the 1990s to the present, aesthetic theories and literary theories have been translated and introduced to Vietnam, including Marxist literary and aesthetic theories as well as non-Marxist ones. Vietnam possesses a great number of translators, researchers of aesthetic theories and literary theories that are truly reputable and influential in academic thought. This article will introduce the basic features of the works of researchers - translators, who have contributed to introducing the aesthetics and foreign literature theory into Vietnam since 1986. Keywords: the introducers, Aesthetic Theories, Foreign Literature Theory, after the reform period. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, việc tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam thường nổi lên một số xu hướng chủ đạo. Các xu hướng chủ đạo này được hình thành dưới sự chi phối của những tình thế chính trị, văn hóa, xã hội. Khi tìm hiểu về các thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết mỹ học và lí luận văn học nước ngoài, chúng tôi quan tâm đến những tình thế chính trị, văn hóa, xã hội đã tác động đến quá trình tiếp thu tư tưởng lí luận văn nghệ vào Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Từ năm 1986 trong quá trình đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cơ cấu xã hội, nhưng thiết chế chính trị - xã hội vẫn ổn định. Đại hội VI của Đảng THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 4 cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối “đổi mới “toàn diện cho đất nước. Xóa bỏ hệ thống tập trung bao cấp, xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trong bối cảnh toàn cầu hóa trở thành xu thế không thể đảo ngược, Việt Nam sẽ tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa... Khi công cuộc đổi mới văn nghệ được khởi động, trên các diễn đàn học thuật, các nhà nghiên cứu đã thảo luận sôi nổi về hàng loạt nguyên lí quen thuộc của mỹ học Mác xít truyền thống. Nhưng cũng từ khi đó, trong các công trình nghiên cứu của giới khoa học, hệ thống lí luận văn học và mĩ học Mác xít truyền thống đã không còn là ưu tiên lựa chọn hàng đầu để tiếp cận đề tài nữa. Từ những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, các xu hướng sáng tác hiện đại và hậu hiện đại chủ nghĩa, nghệ thuật đa phương tiện ngày càng chiếm ưu thế trong đời sống văn hóa trên phạm vi toàn thế giới. Cùng với đó là sự phát triển của kỹ thuật số trong thời đại giao lưu và hội nhập quốc tế. Và ở Việt Nam từ khi đổi mới và hội nhập với thế giới, lí luận văn học và mĩ học Mác xít tuy vẫn được xác định là cơ sở lý luận nền tảng, nhưng đã không còn giữ vị trí độc tôn như trước nữa. Điều đó đã quyết định toàn bộ hướng tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học nước ngoài đã bắt đầu được dịch và giới thiệu vào Việt Nam, cả lí luận văn học và mĩ học Mác xít cũng như lí luận văn học và mĩ học phi mác xít. Lí luận văn học và mĩ học Mác xít và những biến thể của nó thời kỳ hậu Xô viết vẫn giữ một vị trí quan trọng. Các trường phái phi Mác xít tới những năm gần đây đã được quan tâm dịch và giới thiệu nhiều hơn. Ở Việt Nam hiện nay đã có một đội ngũ rất đông đảo những dịch giả, nhà nghiên cứu các lí thuyết mỹ học và lí luận văn học thực sự có uy tín và có ảnh hưởng đối với nền tư tưởng học thuật chung. Căn cứ vào nội dung các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học nước ngoài, chúng tôi gộp các tư tưởng văn nghệ được giới thiệu từ 1986 đến nay thành một số cụm vấn đề và theo các cụm vấn đề đó, chúng tôi sẽ nêu lên các thế hệ những người giới thiệu các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học nước ngoài vào Việt Nam. A. Giới thiệu tư tưởng Mỹ học cổ điển phương Đông và phương Tây ở Việt Nam từ năm 1986 1. Giới thiệu Mỹ học cổ điển phương Đông Sau năm 1986 mỹ học cổ điển Trung Hoa được giới nghiên cứu quan tâm sưu tầm và dịch thuật. Điều này được thể hiện qua hàng loạt các công trình dịch thuật, giới thiệu, khảo cứu của Nguyễn Đức Vân, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Lê Tẩm, Hoàng Mộng Khánh, Nguyễn Duy Hinh, Tạ Phú Chinh, Nguyễn Khắc Phi, Phương Lựu, Mai Xuân Hải a/ Trong những trước tác kinh điển, có hai kiệt tác của mĩ học và thi học cổ điển Trung Hoa được dịch ra tiếng Việt. Đó là Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, do Phan Ngọc dịch, Nhà xuất bản Văn học, xuất bản năm 1997 và Tùy viên thi thoại của Viên Mai, do Nguyễn Đức Vân dịch, Nxb Văn học xuất bản năm 1999. Về cuốn Văn tâm điêu long, Tuyển tập Đinh Gia Khánh – tập II (Văn học trung đại), do Đinh Thị Minh Hằng tuyển chọn, nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007, đã cho in bổ sung thêm 4 thiên: thiên VII – Nhạc phủ; thiên XVIII – Luận thuyết; thiên XX – Hịch di; thiên XXV – Thư kí. Năm 1966, ĐINH THỊ MINH HẰNG 5 giáo sư Đinh Gia Khánh và giáo sư Phan Ngọc đã dịch cuốn Văn tâm điêu long và lưu ở thư viện khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Phần dịch của giáo sư Phan Ngọc đã xuất bản thành sách năm 1997. Phần dịch của giáo sư Đinh gia Khánh lần đầu tiên được in ở trong Tuyển tập Đinh Gia Khánh, gồm 4 thiên được chú giải tường tận. Giáo sư Đinh Gia Khánh chỉ dịch 4 thiên: Nhạc phủ, Luận thuyết, Hịch di, Thư kí, mà ông đã chú giải đến 178 lần, có lời chú giải dài đến nửa trang. Một tác phẩm quan trọng khác được giới thiệu đó là cuốn: Lí luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc của Khâu Chấn Thanh do Mai Xuân Hải dịch, Nxb Giáo dục xuất bản năm 1994. b/ Có một số công trình nghiên cứu về mĩ học và triết học cổ điển Trung Hoa, của các tác giả Trung Quốc hoặc người nước ngoài đã được các dịch giả người Việt Nam dịch ra tiếng Việt. Đó là các cuốn Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường của Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân đã được Trần Đình Sử và Lê Tẩm dịch, Nhà xuất bản Văn học, xuất bản năm 2000. Có thể kể thêm các cuốn Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa của I.S.Lísevich do Trần Đình Sử dịch, Nhà xuất bản ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1993 và cuốn Triết học phương Đông do Trương Văn Lập chủ biên, gồm 4 tập, được các dịch giả Hồ Châu, Tạ Phú Chinh, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Duy Hinh, Hoàng Mộng Khánh dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1998, năm 2000, năm 2001. c/ Về các công trình khảo cứu chuyên sâu hoặc giới thiệu về mĩ học cổ điển Trung Hoa có hai loại + Loại thứ nhất là các chuyên luận, tiểu luận bàn về văn thơ cổ điển Trung Hoa như: - Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc của Lương Duy Thứ, Nhà xuất bản KHXH và Nxb Cà Mau xuất bản năm 1990. - Về thi pháp thơ Đường của Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử, Nxb Đà Nẵng xuất bản năm 1997. - Thơ văn cổ Trung Hoa – Mảnh đất quen mà lạ của Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giaó dục xuất bản 1999. - Thi pháp thơ đường của Nguyễn Thi Bích Hải, Nxb Thanh Hóa xuất bản năm 1995. + Loại thứ hai là các chuyên luận, tiểu luận trực tiếp nghiên cứu di sản mĩ học cổ điển Trung Hoa như: - Tinh hoa lí luận văn học cổ điển Trung Quốc của Phương Lựu, Nxb Giáo dục xuất bản năm 1989 - Luận giải nhan đề tác phẩm “Văn tâm điêu long “của Lưu Hiệp của Nguyễn Phúc, Tạp chí Hán Nôm, số 6(85), 2007, tr.65-71. 2. Giới thiệu mĩ học cổ điển phương Tây Từ năm 1986, có 4 tác gia kinh điển lỗi lạc nhất của mĩ học cổ điển phương Tây được dịch ra tiếng Việt. Cụ thể như sau: - Nghệ thuật thi ca của Aristoteles (384 - 322 tr. CN). Tác phẩm này được Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà dịch. Tác phẩm này được in lần đầu vào năm 1964, trải qua một thời gian dài trên 30 năm đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, nó được liên tiếp tái bản 3 lần vào năm 1997 in ở Tạp chí văn học nước ngoài và năm 1998, năm 1999, do Nxb Văn học xuất bản. - Những tùy bút về hội họa của D.Diderot (1713 – 1784), được Phùng Văn Tửu dịch và giới thiệu, Nxb Văn hóa xuất bản năm 1988. Tiểu luận Nhìn lại một số THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 6 quan niệm của Đi-đơ-rô về nghệ thuật dài gần 50 trang ở phần đầu cuốn sách đã giúp độc giả thâm nhập được vào thế giới tư tưởng của D.Diderot, một nhà mĩ học Khai sáng vĩ đại. - Phê phán lí tính thuần tuý của I.Kant (1724 – 1804), được Bửu Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Văn học xuất bản năm 2004 - Phê phán lí tính thực hành của I.Kant, được Bửu Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Tri thức xuất bản năm 2006. - Phê phán năng lực phán đoán của I.Kant, được Bửu Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Tri thức xuất bản năm 2007. - Hiện tượng học tinh thần của V.F.Hegel (1770 – 1831), được Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Nxb Văn học xuất bản năm 2006. - Mĩ học (2 tập) của V.F.Hegel, được Phan Ngọc dịch và giới thiệu, Nxb Văn học xuất bản năm 1999. I.Kant là người mở đầu cho mĩ học cổ điển Đức, ông được xem là triết gia lớn nhất thời cận đại. Có thể nói I.Kant đã nâng triết học Đức lên một giai đoạn mới. Và nếu I.Kant là người mở đầu, thì V.F.Hegel là người tổng kết và đưa mĩ học cổ điển Đức lên đỉnh cao nhất của nó. Bởi vậy sau năm 1986, việc dịch thuật và giới thiệu các tác phẩm mĩ học kiệt xuất của I.Kant và V.F.Hegel là sự kiện quan trọng trong việc giới thiệu và tiếp thu tư tưởng văn nghệ của nước ngoài vào Việt Nam. Có thể thấy việc dịch thuật và giới thiệu di sản mĩ học cổ điển phương Đông cũng như di sản mĩ học cổ điển phương Tây đã có khuynh hướng đi vào chiều sâu. Cụ thể là mĩ học cổ điển phương Tây đã giới thiệu cho độc giả Việt Nam ba nội dung quan trọng: - Thuyết “bắt chước” hay “mô phỏng”, một triết thuyết lớn ở thời cổ đại Hy Lạp được phân tích và giới thiệu trong cuốn Nghệ thuật thi ca của Aristoteles - Thuyết năng lực phán đoán. Đó là thuyết của I.Kant - Học thuyết về cái đẹp và ba hình thái phát triển của nghệ thuật là nội dung quan trọng nhất mà chúng ta có thể tiếp nhận từ mĩ học của V.F.Hegel. Việc giới thiệu hệ thống mĩ học cổ điển của nhân loại ở cả phương Đông và phương Tây, sẽ giúp cho nền lí luận văn nghệ Việt Nam kiến tạo được kho tri thức một cách có hệ thống, từ đó có thể gắn kết với nguồn cội văn hóa lịch sử của dân tộc. B. Giới thiệu tư tưởng mĩ học Mác xít phương Tây ở Việt Nam từ năm 1986 Ở Việt Nam việc dịch thuật và giới thiệu hệ thống mĩ học Mác xít phương Tây chưa có bề dầy lịch sử. Sau năm 1986, chuyên luận duy nhất của Mác xít phương Tây được dịch ra tiếng Việt là cuốn Văn học là gì của J.P.Sartre, được Nguyên Ngọc dịch và chú giải, Nxb Hội nhà văn xuất bản năm 1999. Còn hầu hết các bản dịch khác đều là trích đoạn từ một chuyên luận của tác giả khác hoặc chỉ là tiểu luận. Có thể liệt kê cụ thể như sau: năm 2005 Trương Đăng Dung cho đăng bản dịch tiểu luận Nghệ thuật và chân lí khách quan của G.Lukacs và chương XIII rút từ cuốn Đặc trưng mĩ học cũng của G.Lukacs, in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 10 năm 2005. Năm 2007, bộ Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (2 tập)(1) do Lộc Phương Thuỷ chủ biên được Nxb Giáo dục cho ra mắt bạn đọc. Bộ sách đã cho đăng một loạt những tiểu luận hoặc những trích đoạn rút từ chuyên luận của các nhà Mác xít phương Tây như: Kafka của Roger Garaudy, Kafka của Ernst Fischer, Ảo ảnh ĐINH THỊ MINH HẰNG 7 và hiện thực của Christopher Caudwell, Qui tắc của nghệ thuật của Pierre Bourdieu Năm 2014, cuốn Xã hội học văn học do Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên dịch và giới thiệu được Nxb ĐHQG Hà Nội xuất bản. Trong cuốn sách này hai công trình của Lucien Goldmann là Quan niệm về thế giới và các giai cấp xã hội và Tiểu thuyết Mới và hiện thực đã được Lộc Phương Thuỷ dịch. Và một công trình khác của Pierre Bourdieu là Qui tắc của nghệ thuật – Ba trạng thái của trường. Việc diễn giải mĩ học Mác xít phương Tây đã được các dịch giả Lộc Phương Thủy, Trương Đăng Dung, Nguyễn Phương Ngọc viết nhiều bài báo, tiểu luận trình bày có hệ thống và phân tích sâu sắc. Các tiểu luận Phê bình Mác xít Pháp trong thế kỷ XX (2) , Xã hội học văn học trong các công trình nghiên cứu của Lucien Goldmann(3) của Lộc Phuơng Thuỷ, Xã hội học văn học của Pierre Bourdieu(4) của Nguyễn Phương Ngọc, Những đặc điểm của hệ thống lí luận văn học Mác xít thế kỷ XX(5) của Trương Đăng Dung là những ví dụ cụ thể. Cuốn Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây(6) của Phương Lựu là một chuyên luận diễn giải mĩ học Mác xít phương Tây một cách có hệ thống. Công trình dày 343 trang gồm 14 chương. Chương đầu mô tả tổng quan lịch sử và cấu trúc của chủ nghĩa Mác phương Tây. Mười ba chương còn lại giới thiệu tư tưởng triết học và mĩ học và lí luận văn học của mười ba học giả và những môn phái lớn như: G.Lukacs, R.Gruady, E.Fischer, H.Lefebvre, T.W.Adorno, E.Fromm, J.P.Sartre, L.Goldmann, A.Gramsci, R.Williams, T.Eagleton, F.Jameson... Các công trình nêu trên của Trương Đăng Dung, Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phương Lựu là những nỗ lực đầu tiên trong việc tiếp cận hệ thống mĩ học Mác xít phương Tây, góp phần làm phong phú kho tri thức và vốn kinh nghiệm cho nền lí luận văn nghệ Việt Nam truyền thống. Mĩ học Mác xít phương Tây khác với mĩ học Mác – Lênin ở chỗ, nó coi văn hóa là động lực phát triển của nhà nước và xã hội, chứ không phải là đấu tranh giai cấp. Như vậy, từ nền tảng của một bộ phận khác trong di sản của kinh điển chủ nghĩa Mác, so với mĩ học Mác – Lênin truyền thống, mĩ học Mác xít phương Tây là một hệ thống lí thuyết hoàn toàn khác. Để tiếp cận một cách tốt nhất hệ thống lí thuyết mĩ học Mác xít phương Tây, cần có thêm các công trình dịch thuật giới thiệu về nó và các chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu mang tính đối thoại. C. Giới thiệu các lí thuyết văn nghệ Nga – Xô viết ở Việt Nam từ năm 1986 Từ giữa thế kỷ XX, mĩ học và lí luận văn nghệ Nga – Xô viết đã luôn là nguồn tiếp nhận chính của mĩ học và lí luận văn nghệ Việt Nam. Nhưng từ khi có công cuộc đổi mới, mọi phương hướng đã có phần khác trước. Đặc biệt là từ sau khi Liên Xô tan rã, các hệ thống lí thuyết phi chính thống của nước Nga – Xô viết lại trở thành đối tượng tiếp nhận chủ yếu của tư duy lí luận, phê bình văn nghệ Việt Nam. 1. Từ năm 1986 nhiều dịch giả Việt Nam đã bắt đầu chuyển tải tư tưởng khoa học của trường phái hình thức Nga đến độc giả. Trên tạp chí Văn học nước ngoài, số 2 năm 1998, số chuyên đề dành cho văn học Nga, Đỗ Lai Thuý đã dịch một số bài tiểu luận của V.Shklovski, B.Eikhenbaum, R.Jakobson. Sau đó cuốn sách Nghệ thuật như là thủ pháp (Lí thuyết chủ nghĩa hình thức Nga) của tập thể dịch giả Đỗ Lai THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 8 Thúy, Trương Đăng Dung, Huyền Giang, Nguyễn Văn Quảng, Phạm Nguyên Phẩm, Ngân Xuyên, đã được Nxb Hội nhà văn xuất bản năm 2002. Cuốn Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (7) do Lộc Phương Thủy chủ biên cũng dịch nhiều tiểu luận của trường phái hình thức Nga: Đào Tuấn Ảnh dịch các tiểu luận Về tính thống nhất của nghệ thuật, Nghệ thuật như là thủ pháp, Một lần nữa về bắt đầu và kết thúc của tác phẩm văn học (của V.Sklovski), Hiện tượng văn học, Về sự tiến triển của văn học (của Iu.N.Tynhianov), Song Hà dịch tiểu luận Lí thuyết về phương pháp hình thức (của B.M.Eikhembaum). Năm 2012, Lã Nguyên cũng dịch một phần quan trọng trong chuyên luận nổi tiếng của B.M.Eikhenbaum: Giai điệu câu thơ trữ tình Nga - Những vấn đề phương pháp luận(8). Tuyển tập V.Ya.Propp (2 tập) giới thiệu với độc giả những công trình quan trọng nhất của V.Ya.Propp (1895 – 1970) như: Hình thái học truyện cổ tích, Những gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ, Những lễ hội nông nghiệp Nga và Folklore và thực tại. Tuyển tập đã được một tập thể dịch giả có uy tín gồm: Phan Ngọc, Chu Xuân Diên, Đỗ Lai Thúy, Trần Phương Phương, Nguyễn Kim Loan biên dịch. Trường phái hình thức Nga không chỉ là đối tượng dịch thuật mà còn là đối tương để các nhà khoa học khảo sát, nghiên cứu, ứng dụng như: Chuyên khảo Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học(9) của Chu Xuân Diên hoặc tiểu luận Thi pháp học hiện đại của Trần Đình Sử đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số tháng 2 năm 1995. Tiểu luận của Trần Đình Sử đã trình bày về trường phái hình thức Nga trong quá trình vận động và phát triển. Phương Lựu trong chuyên khảo Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX(10) cũng đã dành một chương để trình bày về quan điểm của trường phái hình thức Nga, của các tác giả tiêu biểu như V.Shklovski, Iu.Tynhianov, R.Jakobson, V.Propp. Về người có công truyền bá trường phái hình thức Nga phải kể đến Huỳnh Như Phương, ông là người đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu trường phái hình thức Nga một cách có hệ thống. Công trình trường phái hình thức Nga của ông là một công trình nghiên cứu chuyên sâu tập trung phân tích kỹ lưỡng trường phái học thuật này từ nhiều góc độ và bình diện khác nhau. Trường phái hình thức Nga được các nhà khoa học Việt Nam vận dụng khảo sát các vấn đề khoa học như Vũ Tuyết Loan với tiểu luận Lí thuyết hình thái học của V.Propp và truyện cổ tích thần kỳ của dân tộc Campuchia(11), Tăng Kim Ngân với chuyên luận Cổ tích thần kỳ người Việt – Đặc điểm cấu tạo cốt truyện(12), Đỗ Bình Trị với chuyên luận Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái của truyện cổ tích của V.Ja.Propp(13). 2. M.M.Bakhtin (1895 – 1975) là một trong những nhà mĩ học, triết học, văn hóa học và nghiên cứu văn học lỗi lạc nhất thế kỷ XX. Việc giới thiệu và quảng bá tư tưởng học thuật của M.M.Bakhtin bắt đầu từ năm 1985, với bài tiểu luận của Trần Đình Sử với nhan đề M.Bakhtin và thi pháp của Dostoieski được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội, số 10. Nhưng phải đến năm 1992 các tác phẩm của M.M.Bakhtin mới được dịch ra tiếng Việt. Cuốn Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (14) do Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu có các tiểu luận: Tiếng cười Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian, Tiểu thuyết như một thể loại văn học, Ngôn ngữ tiểu thuyết, Tiểu thuyết phức điệu của ĐINH THỊ MINH HẰNG 9 Dostoievski. Phạm Vĩnh Cư còn dịch 2 bài tiểu luận: Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ và Sử thi và tiểu thuyết in trong cuốn Lí luận, phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (15) . Trong cuốn Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại(16) Lã Nguyên cũng đã dịch tiểu luận Vấn đề thể loại lời nói của M.M.bakhtin Tiếp đến phải kể đến việc giới thiệu các chuyên luận như: Những vấn đề thi pháp Dostoievski (17) do tập thể dịch giả Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và phục hưng(18) do Từ Thi Loan dịch, Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ(19) do Ngô Tự Lập dịch và giới thiệu. Những bài tiểu luận và những cuốn chuyên luận đó giúp người đọc Việt Nam hình thành được những ý niệm đầu tiên về tư tưởng học thuật của M.M.Bakhtin. Có thể nói sau năm 1986, tư tưởng khoa học và hệ thống lí thuyết của M.M.Bakhtin đã được tiếp thu mạnh mẽ vào Việt Nam. 3. Yuri Mikhailovich Lotman (1922 – 1993) là nhà nghiên cứu văn học, nhà văn hóa và kí hiệu học nổi tiếng thế giới. Ông là người sáng lập và đứng đầu trường phái Tartu – Moskva. Ở Việt Nam, năm 2005 chuyên luận Cấu trúc văn bản nghệ thuật (20) của Yu.M.Lotman lần đầu tiên được nhóm Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch ra tiếng Việt. Hai năm sau cuốn sách này đã được tái bản. Mười năm sau cuốn Yu.M.Lotman - Ký hiệu học văn hóa(21) do nhóm Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử biên dịch, chú thích và giới thiệu được ra mắt bạn đọc. Yu Mikhailovich Lotman định nghĩa văn bản là thông tin chí ít được hai lần mã hóa. Theo quan niệm của ông, từ trong bản chất, văn bản là hiện tượng đa ngữ. D. Giới thiệu các lí thuyết Mỹ học và Lí luận văn học hiện đại phương Tây ở Việt Nam từ năm 1986 Từ sau năm 1986, các dịch giả và các nhà nghiên cứu Việt Nam đã dịch và giới thiệu với công chúng Việt Nam gần như tất cả những hệ thống mĩ học và lí luận văn học hiện đại nhất của phương Tây ở thế kỷ XX. 1. Các công trình dịch thuật, khảo luận, nghiên cứu, giới thiệu mĩ học và lí luận văn học hiện đại phương Tây ở Việt Nam sau năm 1986 a/ Bộ Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (22) (2 tập). Đây là loại sách tuyển chọn. Bộ sách đã phác thảo về bức tranh toàn cảnh của lí luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX. Bộ sách đã tuyển dịch và trích dịch văn bản của 44 tác giả thuộc các trường phái lí thuyết lớn: Trường phái hình thức Nga, Phê bình mới, Chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học, Chủ nghĩa hậu cấu trúc, Chủ nghĩa hậu hiện đại, Phê bình phân tâm học, Phê bình hiện tượng luận Bộ sách do Lộc Phương Thủy chủ biên với sự tham gia của đông đảo đội ngũ các dịch giả, các nhà nghiên cứu như Trương Đăng Dung, Đào Tuấn Ảnh, Phạm Vĩnh Cư, Trịnh Bá Đĩnh, Ngân Xuyên, Đỗ Lai Thuý, Lê Phong Tuyết, Trần Hồng Vân, Lê Huy Bắc, Nguyễn Văn Nguyên, Trần Hải Yến, Nguyễn Phương Ngọc, Khương Việt Hà, Hoàng Tố Mai, Huyền Giang b/ Phương Lựu giới thiệu lí luận văn học hiện đại phương Tây dưới dạng tổng quan tư tưởng triết học, mĩ học và nghệ thuật của một loạt các khuynh hướng, trường phái lí luận, phê bình văn học. Năm 1995 ông cho xuất bản cuốn Tìm hiểu lí THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 10 luận phương Tây hiện đại(23), năm 1999 ông cho xuất bản cuốn Mười trường phái lí luận phê bình văn học đương đại phương Tây (24) và đến năm 2001 ông cho xuất bản cuốn sách Lí luận phê bình văn học phương Tây hiện đại(25). Cuốn sách của ông giới thiệu hai mươi hai trường phái của lí luận văn học phương Tây hiện đại. Dưới dạng giới thiệu tổng quan như thế này còn có các công trình của Nguyễn Văn Dân như cuốn Lí luận văn học so sánh (26) và cuốn Phương pháp luận nghiên cứu văn học(27). c/ Về loại sách vừa lược khảo, vừa biên dịch để giới thiệu lí luận phê bình văn học phương Tây, đã được một số nhà nghiên cứu, dịch giả thực hiện. Như cuốn Phân tâm học và văn học nghệ thuật(28) do Đỗ Lai Thúy (chủ biên) cùng các dịch giả Huyền Giang, Ngô Bình Lâm, Ngân Xuyên, Đỗ Đức Thịnh, Bích Hường dịch các tiểu luận của S.Freud, C.G.Jung, G.Tucci, V.Dundes. Năm 2011, Trịnh Bá Đĩnh giới thiệu cuốn Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học(29) gồm phần đầu là một công trình nghiên cứu 84 trang, phần còn lại là dịch một số tiểu luận của R.Jakobson, Claude Le1vi-Strauss, Iu.Lotman, Tz.Todorov. Những cuốn Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết (30) do Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến thực hiện và cuốn Xã hội học văn học(31) do Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên thực hiện cũng đều là các công trình lược khảo và biên dịch. d/ Với những chuyên luận chuyên sâu, tính học thuật cao cần có những bản dịch công phu, cũng được các dịch giả đầu tư nhiều công sức để giới thiệu với độc giả. Có thể kể đến các công trình như: Phương Đông và phương Tây(32) của N.Konrat do Trịnh Bá Đĩnh dịch, Độ không của lối viết(33) của R. Barthes Nguyên Ngọc dịch, Mimesis (34) của E.Auerbach do Phùng Ngọc Kiêndịch, Những huyền thoại(35) của R.Barthes do Phùng Văn Tửu dịch, Bản mệnh của lí thuyết(36) của A.Compagnon do Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch, Lí luận văn học(37) của R.Wellek và A.Warren do Nguyễn Mạnh Cường dịch, Văn chương lâm nguy(38) của Tz.Todorov do Trần Huyền Sâm dịch, Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại(39) của L.Petrescu do Lê Nguyên Cẩn dịch, Đông phương luận(40) của E.Said do Lưu Đoàn Huynh, Phạm Xuân Ri, Trần Văn Tuỵ dịch, Thi pháp văn xuôi (41) cuả Tz.Todorov do Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào dịch 2. Một số lí thuyết mĩ học và lí luận văn học phương Tây được giới nghiên cứu, dịch thuật quan tâm giới thiệu và nổi lên như những sự kiện học thuật từ sau năm 1986. a/ Sau năm 1986, các nhà nghiên cứu, các dịch giả đã dịch thuật và quảng bá nhiều tác phẩm của thuyết phân tâm học. Các tác phẩm quan trọng của các ông tổ phân tâm học như S.Freud, C. Jung, E. Fromm đã được dịch ra tiếng Việt, ví dụ như: Nguồn gốc của văn hóa và tôn giáo (Vật tổ và cấm kị)(42) của S.Freud do Lương Văn Kế dịch, Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt đời thường(43) của S.Freud do Bùi Lưu Phi Khanh dịch, Phân tâm học nhập môn(44) của S.Freud do Nguyễn Xuân Hiến dịch, Phân tâm học và tôn giáo(45) của E.Fromm do Lưu Văn Hy dịch, Ngôn ngữ bị lãng quên(46) của E.Fromm do Lê Tịnh dịch b/ Hệ thống lí thuyết mĩ học tiếp nhận và lí thuyết tiếp nhận văn học, từ những năm 90 của thế kỷ XX đã là điểm nóng lí thuyết ở Việt Nam. Hệ thống lí thuyết này đã liên tục được giới thiệu quảng, bá và ĐINH THỊ MINH HẰNG 11 nghiên cứu, phân tích trong nhiều tiểu luận và chuyên luận. Nguyễn Văn Dân có bài Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm liên ngành(47), Trần Đình Sử với tiểu luận Tiếp nhận – bình diện mới của lí luận văn học(48), Trần Đình Sử chủ biên cuốn Giáo trình lí luận văn học(49) trong đó cũng có chương Tiếp nhận, thưởng thức và phê bình văn học, Trương Đăng Dung với hai chuyên luận Từ văn bản đến tác phẩm văn học(50) và Tác phẩm văn học như là quá trình (51), Phương Lựu với giáo trình Tiếp nhận văn học(52), Huỳnh Như Phương với cuốn Lí luận văn học(53) đã dành hẳn chương VI viết về Tiếp nhận văn học c/ Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện vào giữa những năm 50 của thế kỷ XX ở Mĩ và đến những năm 80 thì nó được nghiên cứu như một trào lưu tư tưởng đặc biệt. Chủ nghĩa hậu hiện đại được tiếp nhận vào Việt Nam tương đối muộn. Tiểu luận Tìm hiểu chủ nghĩa hậu hiện đại của Phương Lựu đăng trên tạp chí Nhà văn, số 8 năm 2000 là một trong số những công trình đầu tiên có ý thức giới thiệu chủ nghĩa hậu hiện đại như một hiện tượng văn hóa. Năm 2003, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây biên soạn tuyển tập Văn học thế giới hậu hiện đại. Tuyển tập gồm 2 quyển. Quyển I có nhan đề Những vấn đề lí thuyết(54) do Đoàn Tử Huyến và Lại Nguyên Ân biên soạn, với sự công tác của các dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Phan Việt Thủy, Ngân Xuyên, Lộc Phương Thủy, Nguyễn Trung Đức, Đào Văn Lưu, Hoàng Hưng, Nguyễn Minh Quân. Quyển II có nhan đề Truyện ngắn hậu hiên đại thế giới(55) do Lê Huy Bắc tuyển chọn và giới thiệu với sự công tác của các dịch giả Đặng Anh Đào, Nguyễn Trung Đức, Đào Thu Hằng, Phan Thu Hiền, Bùi Việt Hoa, Phạm Viêm Phương, Đào Tuấn Ảnh, Phạm Bá Đạm, Nguyễn Văn Qua, Nguyễn Hồi Thủ, Bảo Trân, Lưu Đức Trung, Nguyễn Vinh, Ngân Xuyên dịch, đã đánh dấu cột mốc quan trọng trong việc tiếp nhận chủ nghĩa hậu hiện đại vào Việt Nam. Bộ Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX do Lộc Phương Thủy chủ biên cũng tập hợp nhiều bản dịch các tiểu luận về chủ nghĩa hậu hiện đại như: Tính bao hàm của chủ nghĩa hậu hiện đại: xây dựng lại tính hiện đại ở Trung Quốc hiện nay của Trần Hiếu Minh do Trần Quỳnh Hương dịch, Chủ nghĩa hậu hiện đại của D.Martin Fields do Pham Xuân Nguyên dịch, Hậu hiện đại: logic văn hóa của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ của F.Jameson do Khương Việt Hà dịch, Chủ nghĩa hậu hiện đại - những điều cần biết của W.Grassie do Phạm Phương dịch Năm 2011 Phương Lựu cho xuất bản cuốn chuyên luận Lí luận văn học hậu hiện đại(56). Năm 2012 Lê Huy Bắc cho xuất bản cuốn chuyên luận Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và tiếp nhận(57). Từ năm 2011 đến năm 2013 lại có hai cuộc hội thảo khoa học về văn học hậu hiện đại được tổ chức ở Hà Nội và Huế. Từ hai cuộc hổi thảo đó đã có hai cuốn kỷ yếu: Văn học hậu hiện đại - Diễn giải và tiếp nhận(58) và Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và thực tiễn(59). Tóm lại, chủ nghĩa hậu hiện đại rất có sức hấp dẫn và hệ thống các vấn đề được giới thiệu ở đây phong phú vô cùng. d/ Tự sự học và lí thuyết diễn ngôn là hai hệ thống lí thuyết mới được tiếp nhận vào Việt Nam. Từ năm 2000, tự sự học trở thành một trong số đối tượng của hoạt động tiếp nhận các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học của phương Tây. Năm 2001, hội thảo khoa học cấp quốc gia về tự sự học đã được tổ chức tại khoa ngữ văn đại học Sư phạm Hà Nội. Dựa trên tham luận THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 12 của hội thảo và bổ sung thêm một số công trình nghiên cứu tự sự học, với sự chủ trì của GS. Trần Đình Sử cuốn Tự Sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử(60) (hai quyển) đã được xuất bản. Cuốn sách gồm 79 bài tiểu luận của các học giả: Phương Lựu, Trần Đinh Sử, La Khắc Hòa, Đỗ Hải Phong, Lê Lưu Oanh, Đặng Anh Đào, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Đăng Điệp, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Huỳnh Như Phương, Trần Huyền Sâm, Nguyễn Thái Hòa, Diệp Quang Ban, Lê Trà My, Nguyễn Hải Phương, Trần Văn Toàn, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Thị Ngọc Minh Các bài tiểu luận chủ yếu hướng tới các vấn đề như: Tổng thuật lịch sử hình thành và phát triển của tự sự học. Diễn giải một số phạm trù lí thuyết quan trọng của nó, diễn giải lí thuyết tự sự của các nhà kinh điển hoặc một trường phái lí thuyết. Vận dụng lí thuyết tự sự học để nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong sáng tác của một nhà văn, một trường phái hay một giai đoạn văn học cụ thể. Lí thuyết diễn ngôn xuất hiện vào thế kỷ XX. Thế kỷ XX được gọi là thế kỷ của bước ngoặt của diễn ngôn. Khái niệm diễn ngôn lần đầu tiên được nhà ngôn ngữ học người Mỹ Z.Harri sử dụng như một thuật ngữ khoa học vào năm 1952. Ở Việt nam, năm 2009, Diệp Quang Ban cho xuất bản cuốn chuyên luận Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản(61), công trình đã diễn giải lí thuyết diễn ngôn một cách hệ thống. Trần Đình Sử là người đầu tiên giới thiệu lí thuyết diễn ngôn văn học trong tiểu luận Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn văn học được in trong cuốn Trên đường biên văn học(62) và tiểu luận Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học(63) cũng được in trong cuốn sách trên. Trần Văn Toàn cũng có một số tiểu luận nghiên cứu diễn ngôn về giới và một số vấn đề khác như: Dẫn luận lí thuyết diễn ngôn của M.Foucault và nghiên cứu văn học(64), Lã Nguyên đã tiếp cận các hiện tượng văn học Việt Nam qua góc độ lí thuyết diễn ngôn như Nguyễn Tuân - nhà văn của hình dung từ(65), Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam: Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống(66) Lí thuyết diễn ngôn là khoa học liên ngành và lí thuyết diễn ngôn là một hệ hình bản thể luận. Tác phẩm văn học, lí luận và phê bình văn học đều là những hình thức diễn ngôn. Diễn ngôn văn học có đặc trưng riêng của nó, ở đó mã tư tưởng thường bộc lộ qua các mã văn hóa. Tuy mới được tiếp nhận trong vòng vài chục năm nay, nhưng lí thuyết diễn ngôn đã thâm nhập sâu sắc vào đời sống học thuật của khoa học văn học nước ta. Đó là nhờ công lao của các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, các dịch giả đã dịch thuật, nghiên cứu và quảng bá những lí thuyết mới vào Việt Nam Về phê bình nữ quyền, phê bình hậu thực dân, phê bình sinh thái đều đã xuất hiện ở Việt Nam và đều được tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Tham gia dịch thuật, giới thiệu, quảng bá trường phái ấy ngoài các nhà phê bình trẻ còn có cả các bậc lão thành như Trần Đình Sử, Phương Lựu. Ba trào lưu phê bình này nổi lên như những vấn đề thời sự, mang tính cập nhật trong đời sống học thuật hiện nay ở nước ta. Ngày 29/11/2012 Viện Văn học tổ chức tọa đàm “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương đại” thu hút sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu như Trần Thiện Khanh, Đoàn Ánh Dương, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Cung Mi, Trần Thục, Đỗ Thị Hường, Đặng Thị Thái Hà, Trần Lê Hoa Tranh(67) ĐINH THỊ MINH HẰNG 13 Các lí thuyết mĩ học và lí luận văn học hiện đại phương Tây đều ra đời vào thế kỷ XX, nó mở ra một hệ hình tư duy kiểu mới và nêu lên những vấn đề khoa học nhân văn mang tính toàn cầu. Trên đây chúng tôi đã giới thiệu những nét cơ bản về các công trình của các nhà nghiên cứu – dịch giả đã có công lao giới thiệu các công trình mĩ học và lí luận văn học nước ngoài vào Việt Nam từ sau năm 1986. Tuy nhiên vì dung lượng của vấn đề này rất rộng lớn, cho nên còn nhiều công trình về Chủ nghĩa cấu trúc, Phê bình mới, Mỹ học tiếp nhận vẫn chưa được giới thiệu đầy đủ. Công việc này sẽ được các nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật tiếp tục tiến hành trong tương lai. Chú thích: (1) Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (2 tập), Nxb Giáo dục, H.2007. (2) Phê bình Mác xít Pháp trong thế kỷ XX, Nghiên cứu văn học số 11/2013. (3) Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG H.2014, tr.59-82. (4) Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG, H.2014, tr.108-134. (5) Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, T1, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.207- 218. (6) Tư tưởng văn hóa văn nghệ của Chủ nghĩa Mác phương Tây, Nxb Thế giới, 2007. (7) Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX (2 tập), Nxb Giáo dục, 2007. (8) Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật số 4, tháng 12-2012, tr.57-70. (9) Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Trường ĐH Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1989. (10) Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học, H.2001. (11) Tạp chí văn hóa dân gian, số 4 năm 1993. (12) Cổ tích thần kỳ người Việt – Đặc điểm cấu tạo cốt truyện. Nxb Khao học xã hội, H.1994. (13) Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái của truyện cổ tích của V.Ja.Propp. Nxb ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. (14) Lí uận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu), Trường viết văn Nguyễn Du, H.1992. (15) Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.376 – 480. (16) Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Sư phạm, H.2012. (17) Những vấn đề thi pháp Đõtôiepxki, Nxb Giáo dục, H.1993. (18) Sáng tác của .Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và phục hưng, Nxb Khoa học xã hội, H.2006. (19) Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2015. (20) Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb ĐHQG Hà Nội 2005, in lần hai 2007. (21) Ký hiệu học văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội 2015. (22) Lí luận – phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, 2 tập, Nxb Giáo dục, 2007. (23) Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb Văn học, H.1995. (24) Mười trường phái lí luận, phê bình văn học phương Tâu hiện đại, Nxb Giáo dục, H.1999 (25) Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Văn học, 2001. (26) Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, H.2011 (in lần thứ 5). (27) Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, H.2004. (28) Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb Văn hóa thông tin, H.2004. (29) Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội nhà văn, H.2011. (30) Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết, Nxb Hội nhà văn, H.2003. (31) Xã hội học văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội, H.2014. (32) Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo dục, H.1997. (33) Độ không của lối viết, Nxb Hội nhà văn, H.1998. (34) Mimesis. Nxb Tri thức, H. 2014. (35) Những huyền thoại, Nxb Tri thức, H.2008. THẾ H NHỮNG NGƯỜI GIỚI THI U CÁC LÍ THUYẾT MỸ HỌC VÀ LÍ LUẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 14 (36) Bản mệnh của lí thuyết, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2006. (37) Lí luận văn học, Nxb Văn học, H.2009. (38) Văn chương lâm nguy, Nxb Văn học, H.2013. (39) Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2013. (40) Đông phương luận, Nxb Tri thức, H.2014. (41) Thi pháp văn xuôi, Nxb ĐHSP Hà Nội, 2004. (42) Nguồn gốc của Văn hóa và tôn giáo (Vật tổ và cấm kị), Nxb ĐHQG, H. 2001. (43) Bệnh lý học tinh thần về sinh hoạt đời thường, Nxb Văn hóa thông tin, H.2002. (44) Phân tâm học nhập môn, Nxb ĐHQG, H.2002. (45) Phân tâm học và tôn giáo, Nxb Từ điển bách khoa, H.2012. (46) Ngôn ngữ bị lãng quên, Nxb Văn hóa thông tin, H.2002. (47) Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm liên ngành, Tạp chí Văn học, số 4, tháng 7 & 8/1986, tr.23 – 29. (48) Tiếp nhận – bình diện mới của lí luận văn học, Trần Đình Sử - Tuyển tập, T.2, Nxb Giáo dục, H.2005, tr.300 – 315. (49) Giaó trình lí luận văn học (bản chất và đặc trưng của văn học) (Trần Đình Sử chủ biên), Nxb ĐHSP, H. 2004, tr. 159 – 187. (50) Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã hội, H.1998. (51) Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học xã hội, H.2004. (52) Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, H.1997 (53) Lí luận văn học, Nxb ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2010. (54) Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lí thuyết, Nxb Hội nhà văn và Trung tâm Văn hóa, Ngôn ngữ Đông Tây, 2003. (55) Văn học hậu hiện đại thế giới – Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới, Nxb Hội nha văn và Trung tâm Văn hóa, Ngôn ngữ Đông Tây, 2003. (56) Lí luận văn học hậu hiệnđại, Nxb ĐHSP, H.2011. (57) Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, Nxb ĐHSP, H.2012. (58) Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia năm 2011), Nxb Văn học, H.2013. (59) Văn học hậu hiện đại – Lý thuyết và thực tiễn (Hội thảo khoa học quốc gia năm 2013), Nxb ĐHSP, H.2013. (60) Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử. Nxb ĐHSP H. phần I - 2007, phần II - 2008. (61) Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giaó dục, H.2009. (62) Trên đường biên văn học, Nxb Văn học, H.2014, tr.166 – 179. (63) Trên đường biên văn học, Nxb Văn học, H.2014, tr.180 – 198. (64) Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M.Foucault và nghiên cứu văn học, Nghiên cứu văn học, số 5/ 2015, tr.45 – 57. (65) Nguyễn Tuân – Nhà văn của hình dung từ, Tạp chí Lí luận phê bình văn học nghệ thuật, số 30 tháng 2/2015, tr.57 – 63. (66) Văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam – Quốc tế và bản địa, cách tân và truyền thống, Nghệ thuật mới, số 12, tháng 1/2013. (67) Xem thông tin về hội thảo từ nguồn: trong-boi-canh-van-hoc-viet-nam-duong-dai/ Ngày nhận bài: 26/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf30_2817_2215082.pdf
Tài liệu liên quan