Tài liệu Thể chế hay địa lý là yếu tố quyết định phát triển kinh tế?: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
118
THỂ CHẾ HAY ĐỊA LÝ LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ?
INSTITUTIONS OR GEOGRAPHY: WHAT MATTERS FOR ECONOMIC
DEVELOPMENT?
Ngày nhận bài: 16/04/2019
Ngày chấp nhận đăng: 11/06/2019
Hoàng Xuân Trung
TÓM TẮT
Sử dụng số liệu về chỉ số cạnh tranh năng lực cấp tỉnh như là biến đại diện cho thể chể và tính
toán chỉ số độ ghồ ghề ở các tỉnh của Việt nam, nghiên cứu này chỉ ra rằng những tỉnh có thể chế
tốt, kinh tế phát triển lại là những tỉnh có điều kiện địa lý thuận lợi. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng, một số tỉnh luôn xếp hạng rất thấp về chất lượng thể chế trong nhiều năm lại là những tỉnh
có điều kiện địa lý không thuận lợi. Do đó, việc phát triển kinh tế ở những tỉnh khó khăn này cần
phải sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ trong việc hỗ trợ các tỉnh này xây dựng cơ sở hạ tầng
tốt, thúc đẩy trình độ giáo dục và mạng lưới y tế toàn diện, chứ không phải chỉ tập trung quá nhiều
vào việc thay đổi chất lượng t...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thể chế hay địa lý là yếu tố quyết định phát triển kinh tế?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
118
THỂ CHẾ HAY ĐỊA LÝ LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ?
INSTITUTIONS OR GEOGRAPHY: WHAT MATTERS FOR ECONOMIC
DEVELOPMENT?
Ngày nhận bài: 16/04/2019
Ngày chấp nhận đăng: 11/06/2019
Hoàng Xuân Trung
TÓM TẮT
Sử dụng số liệu về chỉ số cạnh tranh năng lực cấp tỉnh như là biến đại diện cho thể chể và tính
toán chỉ số độ ghồ ghề ở các tỉnh của Việt nam, nghiên cứu này chỉ ra rằng những tỉnh có thể chế
tốt, kinh tế phát triển lại là những tỉnh có điều kiện địa lý thuận lợi. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng, một số tỉnh luôn xếp hạng rất thấp về chất lượng thể chế trong nhiều năm lại là những tỉnh
có điều kiện địa lý không thuận lợi. Do đó, việc phát triển kinh tế ở những tỉnh khó khăn này cần
phải sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ trong việc hỗ trợ các tỉnh này xây dựng cơ sở hạ tầng
tốt, thúc đẩy trình độ giáo dục và mạng lưới y tế toàn diện, chứ không phải chỉ tập trung quá nhiều
vào việc thay đổi chất lượng thể chế ở những tỉnh này.
Từ khóa: Thể chế, địa lý, PCI và Việt Nam.
ABSTRACT
Using Vietnam’s Provincial Competitiveness Index as a proxy for the institution and province-level
topographic ruggedness index, this study shows that provinces with better institution and economic
development are ones with more favorable topographic conditions. This study also finds that some
provinces which ranked at the low level of institution for many years are ones with unfavorable
topographic conditions. Therefore, the government need to intervene strongly to promote the
economic development by building good infrastructure, improving level of education and healthcare
networks, rather than to focus too much on changing institution in these provinces.
Keywords: Institution, topography, PCI and Vietnam.
1. Giới thiệu
Gần đây, sự phát triển của các quốc gia
thường được gắn cho vai trò của thể chế.
Những quốc gia nào xây dựng được thể chế
tốt, sẽ giúp quốc gia đó phân bổ nguồn lực
hiệu quả hơn, giảm được nghèo đói nhanh
hơn. Điều đó cũng có nghĩa rằng khi một nền
kinh tế kém phát triển thì lý do được đưa ra
là nền kinh tế đó có thể chế kém. Ngược lại,
quan điểm địa lý lại cho rằng địa lý là yếu tố
quyết định sự giàu có của các quốc gia trên
thế giới. Những nước nghèo thường là những
nước có khí hậu khắc nhiệt, điều kiện địa lý
khó khăn, những yếu tố này tác động tiêu cực
đến sản xuất, dẫn đến năng suất giảm, tăng
trưởng kinh tế thấp. Rõ ràng rằng, giả thuyết
về thế chế và giả thuyết về địa lý vẫn là vấn
đề gây tranh cãi trong kinh tế học.
Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
của Việt nam được xây dựng nhằm làm thay
đổi chất lượng quản lý công của các tỉnh,
thành phố ở Việt Nam. PCI được sử dụng
dựa trên các lập luận của trường phái thể chế
và cho rằng việc thay đổi chất lượng quản trị
công sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Đồng thời
PCI được coi như là một công cụ trong việc
đánh giá việc cải cách thủ tục hành chính ở
các địa phương. Tuy nhiên, việc coi PCI như
một công cụ hữu ích duy nhất nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế ở địa phương sẽ là điều
không hợp lý. Rõ ràng rằng, những tỉnh có
Hoàng Xuân Trung, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
119
điều kiện về mặt địa lý kinh tế tốt hơn sẽ phát
triển kinh tế nhanh hơn qua đó chỉ số PCI sẽ
cao hơn. Ví dụ, Đà Nẵng hay Quảng Ninh –
là những tỉnh có lợi thế về cảng biển - thường
được dẫn chứng là những tỉnh dẫn đầu về xếp
hạng của chỉ số PCI trong khi đó các tỉnh
miền núi như Cao Bằng, Lai Châu và Bắc
Cạn lại luôn là nhưng tỉnh xếp hàng thấp nhất
về chỉ số PCI.
Sử dụng số liệu mảng PCI qua các năm và
số liệu về độ cao ở cấp tỉnh nhằm đánh giá
liệu có mối tương quan giữa yếu tố địa lý
kinh tế, được đo lường bằng độ ghồ ghề, và
chất lượng thể chế ở Việt nam không? Theo
hiểu biết của chúng tôi, đây là nghiên cứu
đầu tiên nhằm trả lời câu hỏi đó. Kết cấu của
bài viết như sau: Phần 2 đưa ra các tranh cãi
về các quan điểm và các nghiên cứu ủng hộ
giả thuyết địa lý và thế chế, từ đó đưa ra giả
thuyết nghiên cứu; Phần 3 tiếp theo sẽ mô tả
số liệu được sử dụng; Việc chỉ định mô hình
thực nghiệm sẽ được phân tích trong phần 4;
Phần 5 sẽ trình bày kết quả ước lượng của
mô hình thực nghiệm và phân tích kết quả
hồi quy; Phần 6 sẽ đưa ra kết luận và gợi ý
chính sách cho Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
Giả thuyết về thế chế ban đầu được North
(1981) đi tiên phong chỉ ra. North cho rằng
việc tổ chức xã hội là yếu tố căn bản cho sự
phát triển của nền kinh tế. Giả thuyết này
cũng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các
nghiên cứu thực nghiệm của Mauro (1995),
Laporta và cộng sự (1997, 1998, 1999), Hall
and Jones (1999), Acemoglu và cộng sự
(2001, 2002) và Feyre and Sacerdote (2009).
Những tác giả này lập luận rằng thể chế giải
thích gần như tất cả mức độ phát triển kinh tế
của một quốc gia và giới hạn về nguồn lực,
địa lý kinh tế, chính sách kinh tế, địa chính
trị và các yếu tố khác như cơ cấu xã hội, vai
trò của giới và bất bình đẳng giữa các nhóm
dân tộc, đều không có tác động hoặc có tác
động rất ít đến sự phát triển kinh tế.
Giả thuyết về địa lý được phát triển bởi
Diamond (1997), Bloom and Sachs (1998),
Gallup và cộng sự (1998), và Frankel and
Romer (1999). Các tác giả lập luận rằng khí
hậu, địa hình, vị trí và các đặc điểm địa lý
khác ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh tật, năng
suất lao động và sự thịnh vượng của các quốc
gia. Cụ thể Sachs (2003A) cho rằng sự kém
phát triển của các nước nghèo nhất trên thế
giới hiện nay là vấn đề phức tạp hơn nhiều,
chứ không hẳn là do thiếu thể chế.
Có sự tranh cãi giữa địa lý và thế chế là
do kết quả nghiên cứu thực nghiệm vẫn
không đưa ra được bằng chứng trực tiếp về
mối quan hệ địa lý ảnh hưởng trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế hay thế chế ảnh hưởng
trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Rodrik và
cộng sự (2002) và Easterly và Levine (2002)
kiểm định kết quả thực nghiệm và thấy rằng
các biến địa lý mất đi sức mạnh giải thích khi
các biến thể chế được đưa vào mô hình ước
lượng. Do đó, họ kết luận rằng các đặc điểm
địa lý có tác động gián tiếp đến tăng trưởng
kinh tế. Những người ủng hộ giả thuyết địa
lý lại chỉ trích khía cạnh về kinh tế lượng và
khái niệm về lý thuyết do những người ủng
hộ thế chế sử dụng trong phân tích. Cụ thể
việc sử dụng biến công cụ trong việc ước
lượng tác động của thế chế lên tăng trưởng
kinh tế sẽ dẫn đến việc đánh giá quá mức ảnh
hưởng của thế chế lên tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, Sachs (2003) cũng chỉ ra rằng
những người ủng hộ quan điểm thể chế
thường sử dụng vĩ độ như là biến địa lý. Tuy
nhiên, vĩ độ chỉ là một thước đo thô sơ về
đặc điểm địa lý, nên không có gì phải ngạc
nhiên khi chúng ta không thấy mối quan hệ
trực tiếp giữa thế chế và tăng trưởng. Thực
tế, khi sử dụng chỉ số về bệnh sốt rét như
biến địa lý, cả McArthur và Sachs (2001) và
Sachs (2003) đều thấy mối quan hệ trực tiếp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
120
giữa địa lý và tăng trưởng, thậm chí ngay cả
sau khi kiểm soát các biến về thế chế.
Như vậy, giả thuyết về thế chế hay giả
thuyết về địa lý là đúng, vẫn là câu hỏi gây
tranh cãi. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
đưa ra giả thuyết rằng yếu tố thế chế và địa lý
là hai nhân tố không hoàn toàn loại trừ nhau
mà bổ sung cho nhau. Nghĩa rằng, biến địa lý
và thế chế có mối tương quan với nhau. Bài
nghiên cứu này sẽ kiểm định giả thuyết đưa
ra.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng số liệu PCI cấp
tỉnh do Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt nam xây dựng với sự hỗ trợ của Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ. Nghiên cứu
cũng sử dụng các chỉ số thành phần của PCI,
gồm 10 chỉ số: i) chi phí gia nhập thị trường;
ii) tiếp cận đất đai; iii) môi trường kinh
doanh; iv) chi phí không chính thức; v) thời
gian thanh tra, kiểm tra và thực hiện các quy
định, thủ tục hành chính; vi) môi trường cạnh
tranh; vii) lãnh đạo tỉnh năng động, sáng tạo;
viii) dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển,
chất lượng cao; ix) chính sách đào tạo lao
động; và x) thủ tục giải quyết tranh chấp. Do
các chỉ số thành phần của PCI không được
thống nhất trong các năm nên nghiên cứu này
sẽ chạy hồi quy trên hai bộ số liệu mảng ở
các thời kỳ khác nhau, cụ thể số liệu mảng
cho năm 2010-2012 và 2013-2016. Ngoài ra,
nghiên cứu sử dụng số liệu về độ cao được
xây dựng bởi sự hợp tác quốc tế do Trung
tâm Điều tra Địa chất Mỹ về Khoa học và
Quan sát Nguồn lực Trái đất (EROS) công
bố.
Nunn và Puga (2012) sử dụng độ ghồ ghề
để xem xét tác động của nó đến sự phát triển
kinh tế ở Châu Phi. Tương tự như vậy,
nghiên cứu này cũng sử dụng độ ghồ ghề
nhưng xem xét tác động của độ ghồ ghề đến
chất lượng thể chế của các tỉnh ở Việt nam,
mô hình ước lượng thực nghiệm sau sẽ được
sử dụng như sau:
Yit = α1 + α2Pi + Tt + εit (1)
Trong đó Yit là chỉ số PCI tổng hợp và các
chỉ số PCI thành phần ở cấp tỉnh trong năm t.
Tt kiểm soát các yếu tố theo thời gian (year
fixed-effects). Pi là đồ ghồ ghề của một tỉnh.
Độ ghồ ghề là một yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập nơi người dân sinh sống. Cụ thể nếu địa
hình không bằng phẳng sẽ khó cho việc canh
tác. Độ dốc lớn sẽ càng làm sói mòn đất đai,
khó khăn cho việc tưới tiêu. Hình 1 minh họa
sơ đồ tính toán độ ghồ ghề. Độ cao của điểm
chấm đen ở giữa sẽ được so sánh với độ cao
của 8 điểm ở lân cận bên cạnh, theo các
hướng khác nhau. Khi đó, chỉ số độ ghồ ghề
của Riley và cộng sự (1999), được tính toán
như sau:
Pi .
Trong đó là độ cao tại một điểm ở vị trí
của dòng r và cột c của một lưới các điểm độ
cao. Sau đó, chúng tôi sẽ tính trung bình của
tất cả các ô lưới đó cho mỗi tỉnh để có được
chỉ số độ ghồ ghề của mỗi tỉnh.
Hình 1: Sơ đồ về cách tính độ ghồ ghề
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
121
4. Kết quả và thảo luận
Bảng 1 báo cáo kết quả phân tích hồi quy
của phương trình (1). Kết quả phân tích được
chạy trên mảng dữ liệu của các năm 2010,
2011 và 2012. Ước lượng hồi quy cho thấy
tỉnh có địa hình ghồ ghề nhiều thì chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh lại càng giảm (cột 1),
kết quả có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.
Tương tự như vậy địa hình của tỉnh có độ
ghồ ghề càng nhiều thì việc tiếp cận đất đai
lại càng khó, thời gian thanh tra, kiểm tra và
thực hiện các quy định thủ tục hành chính lại
càng lâu, các chi phí không chính thức cao và
thủ tục giải quyết tranh chấp yếu kém.
Sử dụng bộ số liệu chỉ số cạnh tranh cấp
tỉnh cho thời kỳ 2013-2016 để kiểm tra độ
vững cũng như độ mạnh của kết quả đã được
chỉ ra. Bảng 2 trình bày kết quả của phương
trình (1) cho thời kỳ 2013-2016. Ước lượng
hồi quy cũng cho kết quả tương tự, cụ thể độ
ghồ ghề có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với chất
lượng của chỉ số cạnh tranh năng lực cấp tỉnh
và làm tăng độ khó trong việc tiếp cận đất
đai, thời gian thanh tra doanh nghiệp lâu hơn,
chi phí không chính thức cao, sự năng động
của lãnh đạo tỉnh giảm và thế chế pháp luật
yếu kém.
Như vậy sử dụng thước đo độ ghồ ghề,
như đã được sử dụng bởi Nunn và Puga
(2012), để làm biến đại diện cho địa lý khó
khăn ở từng tỉnh của Việt nam. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tỉnh nào càng có địa lý
khó khăn thì chất lượng thế chế lại càng kém.
Điều này cho thấy tỉnh có địa lý khó khăn
hơn sẽ ít có khả năng thu hút được doanh
nghiệp đầu tư vào, từ đó dẫn đến nhu cầu cải
cách thể chế cũng ít hơn, do đó thể chế cũng
kém hơn so với các tỉnh có địa lý thuận lợi.
Bảng 1: Tác động của độ ghồ ghề đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cho thời kỳ 2000-2012
Ghi chú: độ lệch chuẩn trong ngoặc kép. * p < 0.10, ** p < 0.05, *** p < 0.01
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
122
Bảng 2: Tác động của độ ghồ ghề đến năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cho thời kỳ 2013-2016
Ghi chú: độ lệch chuẩn trong ngoặc kép. * p < 0.10, ** p < 0.05, *** p < 0.01
Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra
rằng yếu tố địa lý cũng có thể tác động đến
sự phát triển kinh tế. Cụ thể, Gallup và cộng
sự (1999) chỉ ra rằng chi phí vận chuyển
cáo, khó khăn về địa hình đồi núi, sự xa
cách thị trường hoặc nằm trong vùng không
tiếp giáp với biển sẽ làm giảm mạnh tiềm
năng tăng trưởng của các quốc gia đó. Sự
khác nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia,
giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn,
có thể được giải thích không chỉ bởi các yếu
tố địa lý tự nhiên mà còn bởi quá trình tích
tụ nhân lực ở những vùng có điều kiện địa
lý thuận lợi ban đầu (Krugman, 1991, 1999;
Puga and Venables, 1999; Henderson et al.,
2001). Chính vì vậy, yếu tố địa lý tạo ra sự
khác biệt ban đầu, và từ đó tạo ra sự khác
biệt lớn theo thời gian, điều này giải thích vì
sao có sự khác biệt về mặt kinh tế giữa các
nơi trên thế giới.
5. Kết luận
Việc đưa ra chính sách cũng như tư duy
về mặt phát triển kinh tế cần phải dựa trên
nền tảng cơ bản là cả thể chế và địa lý kinh tế
đều quan trọng như nhau, không thể quá
nhấn mạnh vào yếu tố thế chế mà bỏ qua yếu
tố địa lý, và ngược lại cũng vậy. Rõ ràng
rằng, các tỉnh miền núi như Cao Bằng, Điện
Biên, Lai Châu và Kontum luôn là những
tỉnh có thứ hạng thấp nhất trong bảng xếp
hạng CPI trong nhiều năm. Và chắc chắn
rằng thứ hạng của những tỉnh này tiếp tục sẽ
rất thấp trong các năm tiếp theo. Việc kết nối
các tỉnh này với thị trường thế giới cũng như
thị trường trong nước trở nên khó khăn hơn
khi điều kiện về tự nhiên lại không thuận lợi,
chi phí vận chuyển cao do đường xá ghồ ghề,
khó đi lại. Ngoài ra, cơ cấu dân số lại gồm
nhiều thành phần dân tộc, không đồng nhất,
trình độ học vấn lại thấp là các yếu tố cản trở
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(02) - 2019
123
cho sự phát triển kinh tế cũng như đầu tư của
tư nhân. Trong khi đó Lào Cai cũng là tỉnh
miền núi nhưng lại có cửa khẩu quốc tế lớn,
có vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế,
thương mại qua biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Chính vì yếu tố địa lý quan
trọng này mà kinh tế Lào Cai rất phát triển,
điều đó cũng được phản ánh cho thấy xếp
hạng PCI của Lào Cai luôn đứng vị trí rất cao
trong nhiều năm. Các tỉnh Quảng Ninh và Đà
Nẵng cũng vậy, nhờ có điều kiện thuận lợi là
cửa ngõ của giao lưu buôn bán kinh tế với
thế giới nên kinh tế của tỉnh này luôn phải
triển, và điều tất yếu chất lượng thể chể của
những tỉnh này luôn đứng đầu các tỉnh trong
nước.
Nghiên cứu này chỉ ra rằng có sự tương
quan rất mạnh giữa độ ghồ ghề hay vị trí địa
lý đến thể chế hay chỉ số năng lực cạnh tranh
ở các tỉnh của Việt nam. Việc các nhà chính
sách quá coi trọng chất lượng thế chế và đòi
hỏi các tỉnh dựa vào chỉ số năng lực cạnh
tranh để thay đổi chất lượng quản trị công
của tỉnh, sẽ không giúp ích được gì cho sự
phát triển của các tỉnh nghèo và không thuận
lợi về vị trí địa lý. Tất nhiên, thay đổi thể chế
là quan trọng nhưng không phải là tất cả.
Việc lập luận thay đổi thể chế là duy nhất sẽ
dẫn đến sự phát triển của các tỉnh nghèo, sẽ
dẫn đến thất bại. Rào cản lớn nhất đến với
các tỉnh nghèo là cơ sở hạ tầng, trình độ giáo
dục, khả năng tiếp cận và kết nối với thị
trường. Do đó, những tỉnh nghèo này cần sự
viện trợ nhiều hơn nữa của chính phủ trong
việc giảm chi phí vận chuyển bằng cách xây
dựng thêm các tuyến đường để kết nối các
khu vực dân cư xa xôi đến với các khu kinh
tế, các thị trường hàng hóa trong nước cũng
như nước ngoài. Các tỉnh này cũng cần phải
được nhà nước đầu tư nhiều hơn nữa cho
giáo dục, nhằm nâng cao được dân trí ở
những vùng kém phát triển. Việc hỗ trợ học
phí cũng như bữa ăn để giúp trẻ em miền núi
được đến trường là hết sức cần thiết nhằm
giảm tình trạng bỏ học ở những trẻ em này.
Việc hỗ trợ y tế miễn phí cho người dân ở
vùng khó khăn cũng là yếu tố quan trọng để
giúp họ thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của
nghèo đói và bệnh tật, đồng thời nâng cao
năng suất lao động khi người dân có sức
khỏe hơn. Và tất nhiên, khi đó thế chế và
quản trị công tốt sẽ giúp những can thiệp trên
của chính phủ hiệu quả hơn nhiều trong việc
phát triển kinh tế ở các vùng có điều kiện địa
lý khó khăn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Acemoglu, D., Johnson, S., & Robinson, J. A. (2001), ‘The colonial origins of comparative
development: An empirical investigation’, American Economic Review, 91(5), 1369–
1401.
Acemoglu, D., Johnson, S., & Robinson, J. A. (2002), ‘Reversal of fortune: Geography and
institutions in the making of the modern world income distribution’, Quarterly Journal
of Economics,117 (4), 1231–1294.
Bloom, D. E., & Sachs, J. D. (1998), ‘Geography, demography, and economic growth in
Africa’, Brookings Papers on Economic Activity, 1998(2), 207–73
Diamond, J. M. (1997), ‘Guns, germs and steel: The fate of human societies’, NewYork: W.
W. Norton & Co.
Easterly, W. ; Levine, R. (2003), ‘Tropics, Germs, and Crops: How Endowments Influence
Economic Development’, In: Journal of Monetary Economics, Vol. 50, 3-39
Feyrer, J. D., & Sacerdote, B. (2009) ‘Colonialism and modern income–islands as natural
experiments’, Review of Economics and Statistics, 91(2).
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
124
Frankel, J. A., & Romer, D. (1999) ‘Does trade cause growth?’, American Economic
Review, 89(3), 379–399
Gallup, J. L., Mellinger, A. D., & Sachs, J. D. (1998) ‘Geography and economic
development’, Working Paper No: 6849, National Bureau of Economic Research.
Gallup, J., Sachs, J. and Mellinger, D. (1999), ‘Geography and economic development’,
International Regional Science Review, 22(2), 179-232.
Hall, R. E., & Jones, C. I. (1999), ‘Why do some countries produce so much more output
per worker than others?’, Quarterly Journal of Economics, 114(1), 83–116.
Henderson, J. V., Shalizi, Z. and Venables, A. (2001), ‘Geography and development’,
Journal of Economic Geography, 1, 81-105.
Krugman, P. (1991), ‘Geography and Trade’, Cambridge MA: MIT Press.
Krugman, P. (1999), ‘The role of geography in development’, International Regional
Science Review, 22(2), 142-161.
La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1997), ‘Legal
determinants of external finance’, Journal of Finance, 52(3), 1131–1150.
La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1998), ‘Law and finance’,
Journal of Political Economy, 106(6), 1113–1155.
La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1999), ‘The quality of
government’, Journal of Law, Economics and Organization, 15(1), 222–279.
McArthur, J.W. ; Sachs, J.D. (2001), ‘Institutions and Geography: Comment on Acemoglu,
Johnson and Robinson (2000)’, National Bureau of Economic Research (NBER)
Working Paper, No. 8114.
Mauro, P. (1995), ‘Corruption and growth’, Quarterly Journal of Economics, 110(3), 681–
712.
North, D. C. (1981), ‘Structure and change in economic history’, NewYork: W. W. Norton
& Co.
Nunn, N and Puga, D., (2012), ‘Ruggedness: The Blessing of Bad Geography in Africa’,
Revew of Economics and Statistics, 94(1), 20-36.
Puga, D. and Venables, A. (1999), ‘Agglomeration and economic development: Import
substitution vs. trade liberalization’, Economic Journal, 109(455), 292-311.
Riley, Shawn J., Stephen D. DeGloria, and Robert Elliot. (1999), ‘A terrain ruggedness
index that quantifies topographic heterogeneity’, Intermountain Journal of Sciences,
5(1–4), 23–27.
Rodrik, D. Subramanian, A. Trebbi, F. (2002), ‘Institutions Rule: The Primacy of
Institutions over Geography and Integration in Economic Development’, National
Bureau of Economic Research (NBER) Working Paper, No. 9305.
Sachs, D, J., (2003A), ‘Institutions Matter, but not for everything, the role of geography and
resource endowments in development shouldn’t be underestimated’, Finance &
Development.
Sachs, J.D. (2003B), ‘Institutions Don’t Rule: Direct Effects of Geography on Per Capita
Income’, National Bureau of Economic Research (NBER) Working Paper, No. 9490.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43126_136200_1_pb_9606_2179644.pdf