Tài liệu Thao tác lập luận và thực trạng kĩ năng kết hợp các thao tác lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh Trung học Phổ thông: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 195-198; 204
195
Email: kduong.van@gmail.com
THAO TÁC LẬP LUẬN VÀ THỰC TRẠNG KĨ NĂNG
KẾT HỢP CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Phạm Khánh Dương - Nghiên cứu sinh K36, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ngày nhận bài: 18/6/2019; ngày chỉnh sửa: 22/7/2019; ngày duyệt đăng: 28/7/2019.
Abstract: With the spirit of innovation as it is now, teaching about argumentative text is
increasingly focused on practice. In fact, the application of argument manipulation as well as the
skill of combining argument manipulations in writing argumentative text of high school students
is still limited. With this aspect, the article aims to recognize the problem from the current situation
to find effective measures to train students to apply skills and combine argument manipulations in
writing argumentative text. This also contributes in part to improving the quality of teaching t...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 391 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thao tác lập luận và thực trạng kĩ năng kết hợp các thao tác lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh Trung học Phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 195-198; 204
195
Email: kduong.van@gmail.com
THAO TÁC LẬP LUẬN VÀ THỰC TRẠNG KĨ NĂNG
KẾT HỢP CÁC THAO TÁC LẬP LUẬN TRONG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Phạm Khánh Dương - Nghiên cứu sinh K36, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ngày nhận bài: 18/6/2019; ngày chỉnh sửa: 22/7/2019; ngày duyệt đăng: 28/7/2019.
Abstract: With the spirit of innovation as it is now, teaching about argumentative text is
increasingly focused on practice. In fact, the application of argument manipulation as well as the
skill of combining argument manipulations in writing argumentative text of high school students
is still limited. With this aspect, the article aims to recognize the problem from the current situation
to find effective measures to train students to apply skills and combine argument manipulations in
writing argumentative text. This also contributes in part to improving the quality of teaching the
argumentative writing in high school.
Keywords: Argument manipulation, combining argument manipulations, the argumentative text.
1. Mở đầu
Trong chương trình Làm văn ở cấp trung học phổ
thông (THPT) hiện nay, tri thức về văn nghị luận đóng
vai trò then chốt. Có thể khẳng định, trong văn nghị luận,
lập luận là một trong những yếu tố cơ bản. Có năng lực
này, người viết mới thuận lợi trong việc bày tỏ quan
điểm, thuyết phục người đọc, người nghe. Muốn tiến
hành lập luận, người nghị luận phải tiến hành tổ chức các
yếu tố của lập luận, sắp xếp chúng theo dụng ý của bản
thân. Khi đó, người nói, người viết sử dụng các thao tác
lập luận (TTLL). Sự hấp dẫn, chính xác của nội dung
nghị luận được thể hiện rõ trong từng TTLL. Không chỉ
có vậy, tính logic, chặt chẽ, mạch lạc của bài văn nghị
luận được bộc lộ qua việc kết hợp các TTLL khi lập luận.
TTLL chính là hạt nhân cốt lõi giúp người nghị luận thực
hiện lập luận, đồng thời cũng là yếu tố tạo nên hiệu quả
cho bài văn nghị luận.
Để giúp học sinh (HS) tạo ra những văn bản nghị luận
có giá trị, việc dạy học Làm văn nghị luận không thể
không chú trọng lập luận nói chung, năng lực sử dụng
các TTLL và kết hợp các TTLL nói riêng cho HS. Tuy
nhiên, hiện nay, qua khảo sát của chúng tôi, năng lực sử
dụng kết hợp các TTLL trong bài văn nghị luận của HS
còn một số hạn chế. Trong bài viết này, tác giả tập trung
đề cập thực trạng kĩ năng kết hợp các TTLL trong bài
văn nghị luận của HS THPT.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thao tác lập luận và yêu cầu kết hợp các thao tác
lập luận trong làm văn nghị luận của học sinh trung
học phổ thông
Theo các nhà nghiên cứu, “văn nghị luận là loại văn
trong đó người viết đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một
vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận mà làm
cho người đọc hiểu, tin, tán đồng những ý kiến của mình
và hành động theo những điều mà mình đề xuất” [1; tr
37]. Văn nghị luận không chỉ cần có ý mà phải cần có lí.
Người làm văn nghị luận phải đưa ra các lí lẽ, dẫn chứng
và vận dụng cách thức luận chứng phù hợp để dẫn dắt
người đọc đi đến kết luận, tức tán đồng với quan điểm,
sự đánh giá của người viết. Nói cách khác, người làm văn
nghị luận phải biết sử dụng kết hợp các TTLL nhằm trình
bày vấn đề nghị luận một cách chặt chẽ, rành mạch, hợp
lí, có sức thuyết phục trong quá trình lập luận.
Trong bài văn nghị luận, lập luận là yếu tố không thể
thiếu được. “Lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng
một cách đầy đủ, chặt chẽ, nhất quán và đáng tin cậy
nhằm dẫn dắt người đọc, người nghe đến với một kết
luận hoặc chấp nhận một kết luận nào đấy mà người viết,
người nói muốn đạt tới” [2; tr 10-11]. Lập luận trong văn
nghị luận là hành động ngôn ngữ giúp cho người tạo lập
biểu đạt nội dung nghị luận sâu sắc, đầy đủ, chính xác.
Nó không chỉ là một câu, một đoạn mà là hành động
được người nghị luận thực hiện trong toàn bộ văn bản.
Vì thế, lập luận được xem như “xương sống” của toàn bộ
nội dung văn bản, là một trong những căn cứ để đánh giá
giá trị của bài văn nghị luận.
Để lập luận, người nghị luận phải sử dụng các TTLL.
TTLL là động tác tiến hành hành động lập luận nhằm
trình bày hệ thống lí lẽ và luận chứng của mình một cách
chặt chẽ, rành mạch theo một trình tự hợp lí, đúng với
quy luật logic. Đặc điểm của các thao tác này là người
viết sử dụng ngôn ngữ để nêu sự thực, trình bày lí lẽ và
đánh giá sự đúng - sai, đưa ra các phán đoán, nêu ra các
kiến giải, phát biểu ý kiến, biểu hiện rõ lập trường quan
điểm của bản thân. Việc trình bày lí lẽ được người viết
thể hiện thông qua các phương thức tư duy logic như khái
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 195-198; 204
196
niệm, phán đoán, suy lí và hệ thống dẫn chứng nhằm đạt
mục đích nghị luận. Vậy, TTLL chính là thao tác được
sử dụng để thực hiện một hành động lập luận. Nói cách
khác, TTLL là những hành động được thực hiện theo
trình tự và yêu cầu kĩ thuật được quy định trong hoạt
động lập luận.
Nói về mối quan hệ giữa nghị luận, lập luận và TTLL
trong văn nghị luận, tác giả Trương Dĩnh đã hệ thống
bằng các vòng tròn logic như dưới đây:
Theo tác giả, nghị luận là khái niệm bao trùm, tiếp
đến, hẹp hơn là khái niệm lập luận (suy luận, suy ý, luận
chứng) và cụ thể hơn là TTLL (phân tích, so sánh, bác
bỏ, bình luận) [3].
Trong nội dung Chương trình và sách giáo khoa Ngữ
văn THPT về dạy học Làm văn nghị luận, HS được học
các TTLL: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận. Có thể
hệ thống tri thức về những TTLL đơn lẻ nói trên như sau
(xem bảng 1).
Có thể thấy, mỗi một TTLL có vai trò, vị trí, đặc điểm
và ưu thế riêng. Tuy nhiên, một bài văn nghị luận nói
chung luôn là sự kết hợp một cách linh hoạt, nhuần
nhuyễn các TTLL. Trong đó, tuỳ theo yêu cầu của đề bài,
căn cứ vào vấn đề nghị luận được nêu ra trong bài mà có
sự lựa chọn và sử dụng các thao tác. Để triển khai được
rõ nét, trọn vẹn một cách lí tưởng ý tưởng của mình trong
mỗi bài văn, người viết thường sử dụng một tổ hợp các
TTLL khác nhau. Bởi nếu chỉ sử dụng một thao tác đơn
lẻ sẽ khiến người viết lúng túng, thụ động, giới hạn phạm
vi diễn đạt của mình; thậm chí bố cục bài viết trở lên lỏng
lẻo, diễn đạt ý nghèo nàn, sơ sài và đơn điệu.
Kết hợp các TTLL là vấn đề tất yếu trong quá trình
làm văn nghị luận. Tuy nhiên, người tạo lập văn bản phải
xuất phát từ tính chất phức tạp hay đơn giản và tác động
lớn hay nhỏ của vấn đề cần nghị luận để xác định cần
phải kết hợp các TTLL nào trong bài văn. Muốn thực
hiện được sự kết hợp các TTLL, người tạo lập văn bản
cần nắm vững từng TTLL; mục đích và cách sử dụng
từng thao tác. Tiếp đó, cần xác định rõ vấn đề nghiên cứu
và có quan điểm rõ ràng đối với vấn đề đó trước khi kết
hợp. Khi lựa chọn các thao tác kết hợp, trong đó cần có
một TTLL chủ đạo, các TTLL còn lại đóng vai trò hỗ trợ
trong quá trình lập luận.
2.2. Thực trạng kĩ năng kết hợp các thao tác lập
luận trong bài văn nghị luận của học sinh trung
học phổ thông
Đối với HS THPT, tri thức về các TTLL (phân tích, so
sánh, bác bỏ, bình luận) được học ở phần Làm văn lớp 11
và bước đầu luyện tập kết hợp các TTLL. Ở lớp 12, HS
được rèn luyện các kĩ năng làm văn nghị luận, thực hành
luyện tập các TTLL, chủ yếu là luyện kết hợp các TTLL
trong văn nghị luận và tạo lập văn bản hoàn chỉnh.
Để nắm được thực trạng học Làm văn nghị luận, đặc
biệt là để đánh giá được khả năng kết hợp các TTLL
trong bài văn nghị luận của HS THPT, chúng tôi đã tiến
hành thăm dò ý kiến và khảo sát bài làm văn nghị luận
của 557 HS lớp 11, 12 trên địa bàn các tỉnh Quảng Bình,
Bảng 1. Các thao tác lập luận
Thao tác Khái niệm Cách thức
Phân tích
Là làm rõ đặc điểm về nội dung, hình
thức, cấu trúc và các mối quan hệ bên
trong, bên ngoài của đối tượng
Cần chia đối tượng ra thành các yếu tố theo tiêu chí và
đi sâu vào từng yếu tố trong mối quan hệ thống nhất
với các yếu tố khác
So sánh
Là làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu
trong tương quan với đối tượng khác
làm cho văn nghị luận sáng tỏ hơn
Cần đặt các đối tượng so sánh trên cùng bình diện,
theo cùng một tiêu chí và thể hiện rõ quan điểm so
sánh
Bác bỏ
Là dùng lí lẽ và dẫn chứng để gạt bỏ
quan điểm, ý kiến sai lệch hay thiếu
chính xác, nêu ý kiến đúng của mình
Cần nêu ra tác hại, nguyên nhân, các khía cạnh sai
lệch, thiếu chính xác của đối tượng, có thể là luận
điểm, luận cứ hay lập luận
Bình luận
Là nhằm đề xuất và thuyết phục người
đọc (người nghe) tán đồng với nhận
xét, đánh giá, bàn luận của mình về
một vấn đề
Cần trình bày rõ đối tượng cần bình luận, đề xuất được
sự đánh giá đúng, sai của mình với đối tượng và có sự
bàn luận sâu rộng về đối tượng
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 195-198; 204
197
Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam năm học 2018 - 2019.
Kết quả thu được thể hiện trong bảng 2.
Mặt khác, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 256 bài làm
văn nghị luận của HS lớp 11, 12 ở một số trường THPT
trên địa bàn các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng
Nam, năm học 2018 - 2019. Kết quả thu được thể hiện
trong bảng 3 (trang bên).
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết các em đều nhận
thức được vai trò quan trọng của việc rèn luyện kết hợp
các TTLL trong bài văn nghị luận. Có gần 82% số HS
được hỏi khẳng định vấn đề này và có ý thức sử dụng kết
hợp các TTLL trong bài văn nghị luận của mình. Những
TTLL như phân tích, bình luận, so sánh thường được các
em sử dụng kết hợp trong bài làm văn nghị luận. Sự nỗ
lực của các em còn thể hiện ở việc làm được khá nhiều
dạng bài tập về kết hợp các TTLL như bài tập nhận diện,
bài tập xây dựng. Ngoài những tri thức tiếp thu được trên
lớp, có nhiều em tìm hiểu, tham khảo tư liệu từ sách các
bài văn mẫu, sách tham khảo (chiếm hơn 70%) để thực
hiện hiệu quả các bài tập và viết đoạn, bài văn có sử dụng
kết hợp các TTLL.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, qua thăm dò ý kiến và khảo
sát bài viết cụ thể của HS, chúng tôi cũng nhận thấy nhiều
hạn chế trong bài văn nghị luận của HS nói chung và kĩ
năng vận dụng kết hợp các TTLL trong bài làm văn nghị
luận nói riêng. Hơn 60% HS được hỏi cho rằng khả năng
sử dụng kết hợp các TTLL trong bài văn nghị luận của
mình chỉ ở mức trung bình. Thậm chí, nhiều em không
có khả năng phát hiện các TTLL đã được sử dụng kết
hợp trong bài văn nghị luận của mình. Việc kết hợp các
TTLL trong bài văn nghị luận theo các em là khó
(52,24%), cá biệt có gần 4% cho rằng mình không thể
Bảng 2. Kết quả thăm dò ý kiến của HS
STT Nội dung khảo sát
Phương án lựa chọn
A B C D
1
Về vai trò của việc rèn luyện kết
hợp các TTLL trong bài văn nghị
luận
Rất cần thiết Cần thiết Bình thường
Không cần
thiết
123 (22,08%) 332 (59,61%) 91 (16,34%) 11 (1,97%)
2
Khả năng sử dụng kết hợp các
TTLL trong bài văn nghị luận
Tốt Khá Trung bình Yếu
31 (5,57%) 132 (23,70%) 335 (60,14%) 59 (10,59%)
3
Kiến thức sử dụng kết hợp các
TTLL trong bài văn nghị luận
Đầy đủ Bình thường Sơ sài Không có
26 (4,67%) 311 (55,83%) 218 (39,14%) 2 (0,36%)
4
Khả năng phát hiện các TTLL đã
được sử dụng kết hợp trong bài văn
nghị luận của mình
Có thể Không thể Ý kiến khác
197 (35,37%) 354 (63,55%) 6 (1,08%)
5
Việc kết hợp các TTLL trong bài
văn nghị luận của mình
Dễ Bình thường Khó
Không thể
làm được
29 (5,21%) 216 (38,78%) 291 (52,24%) 21 (3,77%)
6
Các TTLL được sử dụng kết hợp
nhiều nhất trong bài văn nghị luận
Phân tích Bình luận So sánh Bác bỏ
245 (43,98%) 157 (28,19%) 109 (19,57%) 46 (8,26%)
7
Giai đoạn tiến hành xác định các
TTLL trong làm văn nghị luận
Tìm hiểu đề Lập dàn ý Dựng đoạn văn
117 (21,01%) 129 (23,16%) 311 (55,83%)
8
Loại bài tập mình làm tốt nhất
trong các bài Luyện tập vận dụng
kết hợp các TTLL
Nhận biết Xây dựng Cả A và B Chữa lỗi
264 (47,40%) 152 (27,29%) 64 (11,49%) 77 (13,82%)
9
Khả năng vận dụng kiến thức sau
khi học xong các bài về Luyện tập
vận dụng kết hợp các TTLL
Tốt Khá Trung bình Yếu
29 (5,21%) 217 (38,96%) 236 (42,37%) 75 (13,46%)
10
Biện pháp để sử dụng kết hợp các
TTLL
Vận dụng
tri thức
Tham khảo
bài văn mẫu
Biện pháp
khác
142 (25,49%) 393 (70,56%) 22 (3,95%)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 195-198; 204
198
làm được. Thực tế là đã có gần 50% số bài làm của HS chỉ
đạt ở mức trung bình và yếu - kém. Trong đó, nếu khả năng
sử dụng các TTLL riêng lẻ khi tổ chức lập luận được đánh
giá ở mức tốt, khá là trên 60%, thì khả năng sử dụng kết hợp
các TTLL trong bài văn nghị luận ở mức tốt, khá chỉ có
khoảng 40%. Số HS mắc lỗi khi kết hợp các TTLL trong
bài văn nghị luận ở mức khá cao (gần 74%). Cụ thể, HS
thường mắc các lỗi về lập luận như: lỗi liên quan đến việc
nêu luận điểm (20,70%) (nêu luận điểm trùng lặp hoặc
không rõ ràng, không phù hợp với bản chất của vấn đề cần
giải quyết); lỗi liên quan đến việc nêu luận cứ (22,27%) (nêu
luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực, không đầy đủ,
không liên quan mật thiết đến luận điểm cần trình bày, trùng
lặp hoặc quá rườm rà); lỗi về cách thức lập luận (31,64%)
(lập luận mâu thuẫn, luận cứ không phù hợp với luận điểm).
Như vậy, ngoài những lỗi về bố cục, nội dung, xác lập ý, lỗi
diễn đạt, lỗi chính tả..., có thể nhận thấy HS chưa chú ý tới
việc vận dụng các TTLL vào để tổ chức lập luận. Hơn nữa,
vì HS chưa hiểu đúng mục đích nghị luận nên khi tạo lập
văn bản, nhiều em đã không vận dụng những yêu cầu về
cách sử dụng các TTLL để tổ chức các ý của nội dung cần
nghị luận. Mặt khác, HS chưa thực sự biết cách vận dụng
kết hợp các TTLL để tạo ra sự mạch lạc và lôi cuốn người
tiếp nhận nên sản phẩm của các em chưa tạo ra sự thuyết
phục đối với người tiếp nhận. Chính vì vậy, điểm kiểm tra
môn Làm văn nhìn chung còn thấp. Những lời phê của giáo
viên như “ý tứ nghèo nàn”, “trình bày rối rắm”, “lộn xộn”,
“hệ thống ý không mạch lạc” xuất hiện trong rất nhiều
bài văn của HS. Chất lượng làm văn của HS không cao. Số
HS phụ thuộc vào sách tham khảo, bài văn mẫu còn nhiều.
Như vậy, một trong những vấn đề đặt ra qua khảo sát
của chúng tôi là năng lực thực hành các TTLL và kết hợp
các TTLL trong văn nghị luận của HS lớp 11, 12 chưa tốt.
Các em chủ yếu nắm lí thuyết các TTLL và nhận diện một
số TTLL đơn giản, chưa có kĩ năng phối hợp các TTLL
một cách linh hoạt, chặt chẽ, còn mắc khá nhiều lỗi về lập
luận. Có thể thấy sự hạn chế về năng lực sử dụng kết hợp
các TTLL trong bài văn nghị luận của HS có nhiều nguyên
nhân. Trong đó có nguyên nhân từ hệ thống kiến thức về
văn nghị luận, lập luận trong văn nghị luận và việc kết hợp
các TTLL trong văn nghị luận là rất phức tạp; hàm lượng
tri thức được trình bày trong sách giáo khoa chưa đủ để
chuyển hóa thành kĩ năng, năng lực thực sự của HS. Bên
cạnh đó, mặc dù sách giáo khoa Ngữ văn 11, 12 đã có
những tiết dạy thực hành luyện tập kết hợp các TTLL
trong văn nghị luận và chữa lỗi lập luận (lớp 11: 2 bài, lớp
12: 3 bài); bài tập đưa ra trong mỗi bài học có chất lượng,
song chưa thật phong phú, chưa mang tính hệ thống. Giáo
viên còn băn khoăn khi chưa tìm ra một cách giải hợp lí,
thuyết phục; việc thực hành, hình thành các kĩ năng cho
HS trong làm văn chưa thực sự được coi trọng. Điều này
ảnh hưởng tới hứng thú học tập của các em; chưa phát huy
được vai trò chủ động, tích cực, chủ thể của người học.
Đặc biệt, chưa có các phương pháp thực sự hữu hiệu và hệ
thống bài tập phong phú nhằm rèn luyện kĩ năng sử dụng
kết hợp các TTLL trong Làm văn nghị luận cho HS THPT.
3. Kết luận
Nhằm nâng cao trình độ viết văn nghị luận cho HS
THPT, thiết nghĩ, một trong những điều quan trọng là hình
thành năng lực lập luận, kĩ năng kết hợp các TTLL trong
bài văn nghị luận. Vấn đề này đã được quan tâm đến, song
hiện nay kĩ năng kết hợp các TTLL trong bài văn nghị luận
của HS còn nhiều hạn chế. Để khắc phục thực trạng này,
thiết nghĩ cần phải có những giải pháp khoa học, phù hợp
với chủ thể HS THPT, giúp tạo ra hiệu quả nhất định, góp
phần nâng cao chất lượng bài văn nghị luận nói chung, kĩ
năng kết hợp các TTLL nói riêng cho HS THPT.
(Xem tiếp trang 204)
Bảng 3. Kết quả khảo sát bài viết của học sinh
STT Nội dung khảo sát
Mức độ đánh giá
A B C D
1
Đánh giá chung về chất lượng
bài văn
Tốt Khá Trung bình Yếu- Kém
42 (16,41%) 87 (33,98%) 108 (42,19%) 19 (7,42%)
2
Khả năng sử dụng các TTLL
riêng lẻ khi tổ chức lập luận
Tốt Khá Trung bình Yếu -Kém
79 (30,86%) 93 (36,33%) 70 (27,34%) 14 (5,47)
3
Khả năng sử dụng kết hợp các
TTLL trong bài văn nghị luận
Tốt Khá Trung bình Yếu - Kém
32 (12,50%) 71 (27,73%) 135 (52,74%) 18 (7,03%)
4
Lỗi khi kết hợp các TTLL
trong bài văn nghị luận
Không Có
Lỗi liên quan đến
việc nêu luận điểm
Lỗi liên quan đến
việc nêu luận cứ
Lỗi về cách thức
lập luận
65 (25,39%) 53 (20,70%) 57 (22,27%) 81 (31,64%)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 7/2019, tr 199-204
204
tộc và xây dựng đất nước; hay thái độ căm thù, lên án
những hành động xâm lược, đàn áp dã man của kẻ thù...
Từ đó, đánh giá được thái độ và hành vi của HS khi ứng
xử trong môi trường học tập ở nhà trường, gia đình và
ngoài xã hội.
Việc kiểm tra kết quả giáo dục LNA cho HS được thể
hiện cả ở hai khía cạnh: đánh giá định tính (qua thái độ,
hành vi) và đánh giá định lượng (kết quả học tập) bằng
nhiều cách thức khác nhau (thông qua kiểm tra định kì,
kiểm tra thường xuyên, quan sát). Đồng thời, phải kết
hợp đánh giá định kì với đánh giá quá trình; trong đó coi
trọng đánh giá quá trình (đánh giá sự tiến bộ của HS).
- Đánh giá kết quả giáo dục LNA cho HS qua các
hoạt động xã hội gắn kết nội dung học tập và thực tiễn
đời sống. Việc đánh giá kết quả giáo dục LNA cho HS
gắn liền với quá trình dạy học bộ môn Lịch sử ở trường
trung học phổ thông. Theo đó, cùng với giờ học nội khóa
ở trên lớp thì giờ học nội khóa cần được tiến hành ở ngoài
lớp học kết hợp với hoạt động ngoại khóa và hoạt động
trải nghiệm sẽ đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
HS. Với cách dạy học này, HS không những được khám
phá kiến thức một cách tích cực, chủ động, mà còn là cơ
hội để rèn luyện các kĩ năng cơ bản, tạo niềm vui, hứng
thú, hấp dẫn, đam mê khi học tập bộ môn; tạo điều kiện
cho HS phát triển những năng lực cốt lõi cũng như năng
lực chuyên biệt của bộ môn Lịch sử. Qua đó, các phẩm
chất, nhân cách tốt đẹp, trong đó có LNA tiếp tục được
bồi dưỡng, vun đắp và phát triển bền vững ở mỗi HS. Từ
nhận thức đã chuyển hóa, thẩm thấu thành hành động,
gắn kết chặt chẽ nội dung kiến thức lịch sử đã học trong
sách vở, bài giảng của GV thành hành động hữu ích trong
cộng đồng và xã hội. Việc đánh giá kết quả giáo dục
LNA cho HS đòi hỏi cả một quá trình lâu dài, thường
xuyên và liên tục.
3. Kết luận
Việc giáo dục LNA cho HS thông qua dạy học bộ
môn Lịch sử vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu của môn
học. Để giáo dục LNA cho HS đạt hiệu quả tốt, trong quá
trình dạy học, GV cần căn cứ vào mục tiêu bài học, nội
dung kiến thức và sử dụng linh hoạt các hình thức,
phương pháp, phương tiện và cách thức tổ chức dạy học
khác nhau để khơi gợi tri thức và vốn sống về LNA của
HS liên quan đến nội dung bài học. Trên cơ sở định
hướng cho HS khám phá, chiếm lĩnh kiến thức mới, góp
phần thắp sáng LNA của HS, tiếp tục bồi đắp những
phẩm chất tốt đẹp trong con người các em. Đồng thời,
cần có sự phối hợp với các môn học khác trong nhà
trường, qua giáo dục của gia đình, môi trường xã hội và
trong cộng đồng. Việc giáo dục LNA cho HS là quá trình
lâu dài, liên tục; quan trọng là GV phải luôn ý thức đến
nhiệm vụ của mình trong việc “dạy chữ và dạy người”.
Tài liệu tham khảo
[1] Hoàng Phê (chủ biên, 2007). Từ điển Tiếng Việt.
NXB Đà Nẵng.
[2] Trương Thị Bích (2018). Vận dụng thuyết Tính thiện
của Mạnh Tử trong giáo dục lòng nhân ái cho học
sinh trung học phổ thông thông qua dạy các môn
Khoa học Xã hội. Đề tài khoa học cấp Trường,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[3] Bộ GD-ĐT (2009). Chương trình giáo dục phổ
thông môn Lịch sử. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[5] Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên, 2007). Lịch sử 10.
NXB Giáo dục.
[6] Phân Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội
(2011). Văn bia chùa Phật Tích thời Lý. NXB Khoa
học xã hội.
[7] Phan Ngọc Liên (tổng chủ biên, 2007). Lịch sử 12.
NXB Giáo dục.
[8] Ban Bí thư Trung ương Đảng (2000). Hồ Chí Minh
toàn tập, tập 4. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[9] Ngô Sĩ Liên (2004). Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1.
NXB Văn hóa - Thông tin.
THAO TÁC LẬP LUẬN VÀ THỰC TRẠNG KĨ NĂNG
(Tiếp theo trang 198)
Tài liệu tham khảo
[1] Lê A - Nguyễn Trí (2001). Giáo trình Làm văn.
NXB Giáo dục.
[2] Nguyễn Quang Ninh - Nguyễn Thị Ban - Trần Hữu
Phong (2000). Luyện cách lập luận trong đoạn văn
nghị luận cho học sinh phổ thông. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[3] Trương Dĩnh (2008). Thiết kế dạy học Ngữ văn 11
theo hướng tích hợp (tập 2). NXB Giáo dục.
[4] Lê A - Nguyễn Quang Ninh - Bùi Minh Toán
(1996). Phương pháp dạy học môn Làm văn. NXB
Giáo dục.
[5] Hà Thúc Hoan (2013). Làm văn nghị luận: Lí thuyết
và thực hành. NXB Thuận Hoá.
[6] Chu Huy - Chu Văn Sơn - Vũ Nho (2005). Nâng cao
kĩ năng làm văn nghị luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[7] Phạm Kiều Anh (2013). Một số dạng bài tập rèn
luyện thao tác lập luận trong làm văn nghị luận
(chương trình Ngữ văn 11). Tạp chí Giáo dục, số
284, tr 32-34.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 38pham_khanh_duong_4897_2187037.pdf