Thành tựu và giải pháp hướng tới giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

Tài liệu Thành tựu và giải pháp hướng tới giảm nghèo bền vững ở Việt Nam: 3 THÀNH TỰU VÀ GIẢI PHÁP HƯỚNG TỚI GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Phan Sỹ Hiếu1, Nguyễn Thị Thu Trang1, Nguyễn Thị Lan Anh1, Lê Thị Thùy Linh1, Nguyễn Thị Thanh Xuân2 TÓM TẮT Giảm nghèo luôn được xác định là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ của thế giới. Các tổ chức quốc tế xác định chuẩn nghèo, làm cơ sở để đo lường và đánh giá diễn biến hiện trạng nghèo đói của thế giới. Dựa trên chuẩn nghèo của thế giới và đặc điểm cụ thể, mỗi nước xác định chuẩn nghèo riêng, có thể cao hơn hoặc thấp hơn chuẩn nghèo của thế giới. Trong giai đoạn 1990 - 2015, thành tựu giảm nghèo của thế giới được đánh giá là tốt nhất trong lịch sử nhân loại. Tỷ lệ dân số thế giới sống dưới chuẩn nghèo tuyệt đối giảm rất mạnh, từ mức gần 36% năm 1990 xuống 10% năm 2015. Tốc độ giảm nghèo nhanh nhất ở các nước Đông Á - Thái Bình Dương và Nam Á. 1,Trung tâm Tin học và Thống kê 2,Trường Đại học Đại Nam 4 Việt Nam cũng là một trong những nước có thành tựu giảm nghèo nổi b...

pdf58 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Thành tựu và giải pháp hướng tới giảm nghèo bền vững ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 THÀNH TỰU VÀ GIẢI PHÁP HƯỚNG TỚI GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Phan Sỹ Hiếu1, Nguyễn Thị Thu Trang1, Nguyễn Thị Lan Anh1, Lê Thị Thùy Linh1, Nguyễn Thị Thanh Xuân2 TÓM TẮT Giảm nghèo luôn được xác định là một trong những mục tiêu Thiên niên kỷ của thế giới. Các tổ chức quốc tế xác định chuẩn nghèo, làm cơ sở để đo lường và đánh giá diễn biến hiện trạng nghèo đói của thế giới. Dựa trên chuẩn nghèo của thế giới và đặc điểm cụ thể, mỗi nước xác định chuẩn nghèo riêng, có thể cao hơn hoặc thấp hơn chuẩn nghèo của thế giới. Trong giai đoạn 1990 - 2015, thành tựu giảm nghèo của thế giới được đánh giá là tốt nhất trong lịch sử nhân loại. Tỷ lệ dân số thế giới sống dưới chuẩn nghèo tuyệt đối giảm rất mạnh, từ mức gần 36% năm 1990 xuống 10% năm 2015. Tốc độ giảm nghèo nhanh nhất ở các nước Đông Á - Thái Bình Dương và Nam Á. 1,Trung tâm Tin học và Thống kê 2,Trường Đại học Đại Nam 4 Việt Nam cũng là một trong những nước có thành tựu giảm nghèo nổi bật nhất. Tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối giảm từ 70% những năm 1980, xuống 53% năm 1993, 14% năm 2008, và 9,8% năm 2016. Thành công của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng là kết quả của các chính sách phát triển thị trường cạnh tranh hơn, đầu tư công hiệu quả hơn, và dần chú trọng tới hiệu quả đầu tư trực tiếp cho người nghèo và vùng nghèo. Trong 25 năm qua, bên cạnh các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu, Việt Nam triển khai rất nhiều chương trình giảm nghèo như Chương trình 135 năm 1998, Chương trình 134 năm 2004, Chương trình 167 năm 2005, Chương trình 30a năm 2008, Chương trình MTQG về nông thôn mới năm 2010, và Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững năm 2016. Tuy nhiên, thành tựu giảm nghèo của thế giới và Việt Nam đang gặp rất nhiều thách thức. Đối với thế giới, tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối đã giảm nhưng không đồng đều giữa các vùng. Tỷ lệ người nghèo tăng mạnh ở các quốc gia châu Phi. Số lượng người nghèo tuyệt đối không giảm trong suốt giai đoạn. Tỷ lệ nghèo đói tương đối cũng giảm nhưng với tốc độ chậm hơn nhiều so với tốc độ giảm tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối. Đối với Việt Nam, tốc độ giảm nghèo đang có dấu hiệu chậm lại và bất bình đẳng thu nhập có xu hướng tăng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước bao gồm Việt Nam sẽ chậm lại do tăng trưởng trong tương lai ngày càng phụ thuộc vào đóng góp 5 nhiều hơn của khoa học công nghệ và hiệu quả quản lý. Hiệu quả đầu tư công cho các chương trình giảm nghèo thấp hơn so với kỳ vọng. Kết quả đánh giá các chương trình giảm nghèo ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý cho thấy, hiệu quả giảm nghèo, mức độ hưởng lợi, khả năng thoát nghèo của các dự án này là chưa cao hoặc rất khó đánh giá hợp lý. Các nguyên nhân chính là cơ sở dữ liệu chưa có, phương pháp chọn mẫu hộ tham gia các dự án có thể trùng lặp, mức đầu tư thấp, tốc độ giải ngân chậm, thời gian hỗ trợ ngắn, hỗ trợ đầu vào là chủ yếu, tổ chức quản lý còn cồng kềnh. Trong tương lai, các hỗ trợ cần xem xét xem cho đúng với các quy định quốc tế, thường khuyến khích người nghèo tham gia vào chuỗi giá trị và thị trường minh bạch. Các hỗ trợ hiệu quả thường là đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu, giao thông nông thôn. 6 1. GIỚI THIỆU Xóa bỏ tình trạng nghèo tuyệt đối, giảm nghèo tương đối và giảm bất bình đẳng xã hội là những mục tiêu không chỉ của một nước mà là mục tiêu của toàn thế giới từ nhiều thập kỷ qua. Năm 2015, trong 8 mục tiêu Thiên niên kỷ được Liên Hiệp Quốc, giảm tỷ lệ nghèo tuyệt đối xuống dưới 3% dân số toàn cầu đến năm 2030 là mục tiêu đầu tiên. Trong giai đoạn 1990 - 2015, thế giới đã đạt được thành tựu rất lớn về giảm nghèo, đặc biệt ở các nước Đông Á - Thái Bình Dương và Nam Á. Tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối toàn cầu đã giảm từ mức gần 36% xuống 10%, tương ứng với hơn 1 tỷ người đã thoát khỏi nghèo đói tuyệt đối, giúp thế giới đạt được mục tiêu thiên niên kỷ sớm hơn 6 năm so với kế hoạch. Việt Nam cũng là một trong những nước có thành tựu nổi bật nhất về giảm nghèo trong gần 30 năm qua. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối của Việt Nam theo chuẩn quốc tế đã giảm từ khoảng 70% những năm 1980, xuống 58% năm 1993, 14% năm 2008, và 10% năm 2015. Các mục tiêu giảm nghèo tuyệt đối của Việt Nam được điều chỉnh dần theo các giai đoạn thời gian khác nhau để phù hợp với những thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm tới, mục tiêu của thế giới cũng như Việt Nam về giảm nghèo gặp phải rất nhiều thách thức bao gồm cả các yếu tố khách quan như sự gia tăng của dân số thế giới, biến đổi khí hậu dẫn đến các thiệt hại về sản xuất nông nghiệp, và các yếu tố chủ quan như tăng trưởng kinh tế chậm lại, phân phối thu 7 nhập không đồng đều giữa các vùng, miền, và các nhóm dân cư; sử dụng vốn công cho các chương trình giảm nghèo thiếu hiệu quả; chính sách giảm nghèo chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của người dân; đối tượng nhận hỗ trợ giảm nghèo chưa phù hợp. Báo cáo này tập trung tổng hợp các quan điểm giải thích nguyên nhân dẫn đến nghèo và bất bình đẳng trên thế giới; khái quát hiện trạng nghèo và giảm nghèo trên thế giới và Việt Nam; tổng hợp các chính sách thường được các nước có thành tựu giảm nghèo nổi bật thường áp dụng; mô tả diễn biến hiện trạng nghèo trên thế giới bao gồm cả Việt Nam, qua đó đưa ra các gợi ý chính sách phù hợp hơn cho Việt Nam hướng tới giảm nghèo bền vững đến năm 2030 và xa hơn. 2. CÁC KHÁI NIỆM HAY QUAN QUAN ĐIỂM VỀ NGHÈO ĐÓI Năm 1776, Adam Smith định nghĩa nghèo tuyệt đối là: "không có khả năng mua nhu yếu phẩm theo yêu cầu tự nhiên hoặc tập quán" (Ted, 2005). Năm 1847, Karl Marx xem nghèo là khái niệm tương đối. Nhu cầu, sự hài lòng và niềm vui của con người xuất phát từ quan niệm của cộng đồng, của xã hội, các quan niệm này có bản chất tương đối (Ted, 2005). Đầu thế kỷ 20, Joseph Rowntree đưa ra quan điểm nghèo đói "thu nhập không đủ để có được những nhu cầu tối thiểu để duy trì sức khỏe hay hoạt động thể chất ". Năm 1968, Valentine cho rằng “Bản chất của nghèo đói là sự bất bình đẳng. Nói cách khác,ý nghĩa cơ bản của nghèo đói là thiếu thốn tương đối”. Năm 1976, Amartya Sen nêu định nghĩa nghèo đói là "sự thiếu hụt của một người về hàng hóa, thu 8 nhập và tài nguyên" (Ted, 2005). Năm 1979, Peter Townsend cho rằng nghèo đói là "thiếu các nguồn lực cần thiết để cho phép một người tham gia vào các hoạt động, phong tục và chế độ ăn uống thường được xã hội chấp thuận" (Ted, 2005). Giám đốc Ngân hàng Thế giới cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, ông Robert McNamara, đưa ra định nghĩa về nghèo: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối là những người sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn". Năm 2004, Ngân hàng Thế giới đưa ra định nghĩa chi tiết hơn về nghèo phù hợp với các điều kiện của các quốc gia khác nhau: "Nghèo là sự thiếu hụt rõ rệt về phúc lợi, bao gồm nhiều khía cạnh. Nó bao gồm thu nhập thấp và không có khả năng có được hàng hóa và dịch vụ cơ bản cần thiết cho sự sống còn với phẩm giá. Nghèo đói cũng bao gồm trình độ y tế và giáo dục thấp, tiếp cận với nước sạch và vệ sinh kém, an ninh vật chất không đủ, thiếu tiếng nói (chính trị) và không đủ năng lực và cơ hội để sống tốt hơn". Trong khoảng thời gian này, Liên minh Châu Âu nêu quan điểm về nghèo đói: "Một người được xem là nghèo đói nếu thu nhập và tài nguyên của họ không đủ để họ có một mức sống được coi là chấp nhận được trong xã hội nơi họ sống” (Ted, 2005). Năm 2008, Liên Hợp Quốc đã đưa ra một định nghĩa rộng hơn về nghèo đói, đó là khái niệm về nghèo đa chiều: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt 9 hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh” (Ted, 2005). Từ các khái niệm khác nhau về nghèo đói của các cá nhân và tổ chức nêu trên cho thấy, cùng với thời gian, quan điểm nghèo là một hiện tượng đa chiều ngày càng được thừa nhận rộng rãi, là sự thiếu hụt hoặc không được thỏa mãn nhiều nhu cầu cơ bản của con người. 3. CÁC CHUẨN NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 3.1. Chuẩn nghèo thế giới Trên thế giới, hai loại chuẩn nghèo phổ biến nhất chuẩn nghèo tuyệt đối và chuẩn nghèo tương đối. Chuẩn nghèo tuyệt đối chung của thế giới thường được tính dựa trên số liệu thống kê về thu nhập và chi tiêu của 126 nước. Cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển của các nền kinh tế trên thế giới, đồng thời do ảnh hưởng của lạm phát, giá cả hàng hóa thay đổi, mức chuẩn nghèo tuyệt đối được điều chỉnh theo thời gian hoặc được quy đổi sang sức mua tương đương (PPP)2. Theo đó, từ năm 2010 trở về trước, mức thu nhập được xem là nghèo tuyệt đối đối với các nước đang phát triển là 1 USD/ngày/người. Đây là mức áp dụng 2 Sức mua tương đương là cách tính tỷ giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai nước. Các nhà kinh tế học tính xem cùng một lượng hàng của cùng một thứ hàng hóa khi bán ở hai nước khác nhau bằng đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì số tiền phải bỏ ra ra là bao nhiêu. từ đó so sánh hai đơn vị tiền tệ. 10 chung. Sau đó, tùy theo vùng mà chuẩn này được điều chỉnh cho phù hợp hơn, ví dụ 2 USD/người/ngày cho khu vực Mỹ La tinh và Caribe, 4 USD/người/ngày cho các nước Đông Âu, và 14,4 USD/người/ngày cho các nước phát triển. Các mức thu nhập nghèo tuyệt đối này được tính dựa trên những giỏ hàng cần phải có tối thiểu đối với một người để họ có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Từ năm 2011, mức chuẩn nghèo tuyệt đối được áp dụng chung là 1,9 USD/ngày/người. Sau đó, Ngân hàng Thế giới đưa ra các mức chuẩn nghèo khác nhau cho các nước có mức thu nhập khác nhau, dựa vào giá trị trung vị3, không phải giá trị trung bình. Mức 1,9 USD/người/ngày áp dụng cho những nước thu nhập thấp, mức 3,2 USD/người/ngày áp dụng cho những nước có thu nhập thấp hơn mức trung bình, 5,5 USD/người/ngày áp dụng cho những nước có thu nhập thuộc nhóm trên trung bình, và 21,7 USD/người/ngày cho các nước có thu nhập cao. Nghèo tương đối được xác định dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp tương đối không đầy đủ về mặt vật chất và phi vật chất so với sự sung túc của xã hội đó. Về mặt định lượng, nghèo tương đối được xác định là những người có mức thu nhập bằng 50% hay 60% mức thu nhập trung bình của vùng hay nước mà người đó sinh sống. 3 Trong lý thuyết xác suất và thống kê, số trung vị là một số tách giữa nửa lớn hơn và nửa bé hơn của một mẫu, một quần thể, hay một phân bố xác suất (Wikipedia tiếng Việt). 11 Bảng 1. Các chuẩn nghèo quốc tế phân theo nhóm thu nhập, năm 2011 (USD/người/ngày) Phân loại kinh tế, thu nhập Trung vị Trung bình Thu nhập thấp 1,9 2,2 Thu nhập dưới trung bình 3,2 3,9 Thu nhập trên trung bình 5,5 5,6 Thu nhập cao 21,7 21,2 Nguồn: Jolliffe và Prydz (2016) Vì thế từ năm 2001, theo xác định/quan niệm của các nước thành viên của Liên minh châu Âu, những người được coi là nghèo tương đối khi có thu nhập thấp hơn 60% giá trị trung bình về thu nhập của nước đó. Do đó, sự khác biệt về chuẩn nghèo tương đối giữa các vùng và các nước lớn hơn nhiều so với khác biệt về chuẩn nghèo tuyệt đối. Ngoài 2 chuẩn nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối, Liên Hiệp quốc còn xem xét chuẩn nghèo xã hội hay chuẩn nghèo về điều kiện sống. Nghèo theo điều kiện sống là khả năng thấp trong việc tiếp cận các dịch vụ chung như đào tạo, quyền đưa ra quyết định độc lập của bản thân, tham gia các hoạt động chính trị và nhiều khía cạnh khác. Liên Hiệp Quốc đưa ra rất nhiều chỉ số phản ánh các khía cạnh này như chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, tỷ lệ mù chữ. 12 3.2. Chuẩn nghèo của Việt Nam Tại Việt Nam, Chính phủ công bố chuẩn nghèo để đo lường sự thay đổi của tình trạng nghèo trong các giai đoạn thời gian khác nhau (MOLISA, 2018). Tương tự các nước khác trên thế giới, Việt Nam dựa vào mức chuẩn nghèo quốc tế được ban hành bởi Ngân hàng thế giới để xây dựng chuẩn nghèo riêng cho phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Từ năm 2015 trở về trước, Việt Nam sử dụng phương pháp đo lường nghèo đơn chiều theo chuẩn thu nhập hay chi tiêu. Sau năm 2015, Việt Nam bắt đầu sử dụng chuẩn nghèo đa chiều. Các chuẩn nghèo của Việt Nam thường thấp hơn chuẩn nghèo của thế giới. Từ năm 2015, các chuẩn nghèo của Việt Nam bắt đầu xấp xỉ bằng chuẩn nghèo thế giới. Bảng 2. Chuẩn nghèo tuyệt đối của Việt Nam quy theo tỷ giá danh nghĩa (USD/người/ngày) Vùng 2001 - 2005 2006 - 2010 2011 – 2015 Nông thôn miền núi 0,19 (2,63) 0,44 (6,58) 0,61 (13,15) Nông thôn đồng bằng 0,24 (3,29) Thành thị 0,42 (4,93) 0,58 (8,55) 0,76 (16,44) Bình quân 0,28 (3,62) 0,51 (7,56) 0,68 (14,79) Nguồn: Các chuẩn nghèo nêu trên được quy định chi tiết lần lượt tại các Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH, Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg, Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg. Ghi chú: Giá trị trong ngoặc (.) là giá trị chuẩn nghèo tuyệt đối của Việt Nam theo đơn vị tính nghìn đồng/người/ngày. 13 Chuẩn nghèo đa chiều được đo lường bằng chuẩn nghèo tuyệt đối và mức độ thiếu hụt 5 dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; và thông tin. Các dịch vụ này được cụ thể hóa thành 10 chỉ số. Bên cạnh thu nhập thấp hơn chuẩn nghèo tuyệt đối, người được coi là nghèo đa chiều nếu thiếu hụt từ 03 chỉ số trở lên trong 10 chỉ số đó. Chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 được nêu trong Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bảng 3. Chuẩn nghèo đa chiều Việt Nam, 2016 - 2020 Không thiếu hụt dịch vụ cơ bản Thiếu hụt dịch vụ Thu nhập (USD/người/ngày) Thu nhập (USD/người/ngày) Số lượng chỉ số thiếu hụt Nông thôn 1,014 1,449 >=3 Nông thôn Hà Nội 1,594 2,174 >=3 Thành thị 1,304 1,884 >=3 Thành thị Hà Nội 2,029 2,826 >=3 Bình quân 1,486 2,083 Nguồn: Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg Ngoài chuẩn nghèo về thu nhập, nghèo đa chiều, Việt Nam còn có thước đo khác là chuẩn nghèo xã hội. Chuẩn nghèo xã hội của Việt Nam năm 1993 là 1,92 USD/ngày. Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng vào đầu những năm 2000, giá trị của chuẩn 14 nghèo xã hội tăng lên. Năm 2010, chuẩn nghèo xã hội của Việt Nam là 3,8 USD/ngày. 4. CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NGHÈO ĐÓI 4.1. Năng lực của các cá nhân Theo quan điểm của Tôn giáo thế kỷ XVIII trở về trước, nghèo đói do năng lực nội tại của từng cá nhân, các cá nhân phải tự chịu trách nhiệm với tình trạng nghèo đói của họ. Ví dụ như một người nghèo được cho là chịu sự trừng phạt của Chúa do các tội lỗi của họ đã gây ra (Ted K., 2005). Kinh tế học tân cổ điển (thế kỷ thứ XIX và đầu XX) cũng ủng hộ quan điểm này nhưng không đề cập đến Tôn giáo khi cho rằng nghèo đói là trách nhiệm của các cá nhân đối với các quyết định của họ trong cuộc sống. Như vậy, khác với quan điểm của Tôn giáo, các nhà kinh tế học tân cổ điển cho rằng bất cứ một cá nhân nào cũng có thể thành công nhờ tập trung vào các mục tiêu và làm việc chăm chỉ (Ted K., 2005). 4.2. Văn hóa Quan niệm này bắt nguồn từ nguyên nhân bên trong của “Văn hóa nghèo đói”. Nghèo đói được tạo ra bởi một tập hợp niềm tin được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong nhiều thế kỷ. Ví dụ như ở một số nơi, làm việc hay học tập chăm chỉ không được cộng đồng khuyến khích. Một số nơi khuyến khích người dân sử dụng các chất gây nghiện như rượu và thuốc lá. Một số nơi tồn tại văn hóa mà ở đó “công bằng” chưa được cộng đồng chấp nhận rộng rãi và bảo vệ, dễ dẫn đến thao túng chính sách giảm nghèo cho lợi ích một nhóm nhỏ hay chính sách ít quan tâm đến 15 phúc lợi của người dân (Ted K., 2005). Do đó, theo quan niệm này, các cá nhân không phải chịu trách nhiệm mà họ chỉ là nạn nhân của văn hóa nơi họ sinh sống. 4.3. Cấu trúc kinh tế - chính trị - xã hội Quan niệm cho rằng nghèo đói gây ra bởi cấu trúc nền kinh tế - chính trị không chỉ đề cập đến năng lực cá nhân mà còn cho rằng phân phối quyền lực và tài nguyên không hợp lý là nguyên nhân quan trọng dẫn đến nghèo đói. Phân phối không công bằng dẫn đến việc các nguồn lực, cơ hội của mỗi người trong việc tìm kiếm công việc khác nhau. Do đó thu nhập và hạnh phúc mà mỗi người đạt được là khác nhau. Ví dụ như một xã hội thường có một tầng lớp người nắm giữ tài nguyên và quyền lực thì con cháu của họ dễ dàng tìm kiếm các cơ hội để có việc làm, có thu nhập cao hơn là những người sinh ra ở tầng lớp thấp hơn (Ted K., 2005). 4.4. Vị trí địa lý Nghèo đói thường phân bố không đồng đều, thường tập trung nhiều hơn ở vùng này hơn so với vùng khác. Ví dụ như người nghèo thường tập trung ở vùng sa mạc, vùng nông thôn, vùng miền núi. Những người sinh ra ở những vùng này thường có cơ hội cải thiện chi tiêu rất thấp. Niles Hansen (1970) chỉ ra rằng khu vực nông thôn thường là vùng có trình độ công nghệ và mức lương thấp. Các vùng này thường bị tách ra khỏi các vùng phát triển hơn. Việc thiếu cơ sở hạ tầng như đường xá làm cho nguồn lực về con người và tài nguyên của những vùng này không được phát huy (Ted K., 2005). Những vùng nghèo còn là nơi nhiều 16 người thiếu năng lực sinh sống. Nguyên nhân là do những người có năng lực với trình độ học vấn cao, kỹ năng tốt, với thế giới quan rộng thường di cư từ các vùng khó khăn này đến các thành phố lớn để tìm các cơ hội có cuộc sống tốt hơn (Ted K., 2005). 4.5. Chu kỳ kinh tế Tăng trưởng kinh tế cao, thấp hay giảm thường theo chu kỳ, 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 năm tùy theo đặc điểm cấu trúc nền kinh tế của một nước hay một vùng. Có nhiều nguyên nhân giải thích cho tính chu kỳ đó. Ví dụ đơn giản là khi phát minh ra công nghệ mới thì nền kinh tế thường tăng trưởng cao, sau vài năm tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại vì công nghệ chưa kịp được cập nhật và thay mới (Ted K., 2005). Đi kèm với tính chu kỳ của tăng trưởng kinh tế, nghèo đói cũng có tính chu kỳ. Ví dụ 01 người tốt nghiệp đại học vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế thấp hay suy thoái kinh tế thì sẽ khó kiếm việc làm hơn, khó tìm được cơ hội có mức thu nhập cao. Thiếu cơ hội việc làm dẫn đến việc bỏ việc, đóng cửa các cửa hàng bán lẻ và giảm doanh thu thuế địa phương, dẫn đến các trường học xuống cấp, công nhân ít được đào tạo hơn, các công ty không có khả năng tuyển dụng lao động nhiều như trước (Ted K., 2005). 5. ĐẦU TƯ CÔNG ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ GIẢM NGHÈO 5.1. Định nghĩa về đầu tư công Đầu tư công là các khoản chi tiêu của nhà nước vào các công trình hay hoạt động phục vụ mục đích chung hay công cộng, ví dụ như xây dựng đường, cảng, trường học, bệnh viện. Đầu tư 17 công thường là các hạng mục đầu tư mà khu vực tư nhân ít quan tâm do. Đầu tư công của nhà nước hướng tới lợi nhuận hay tăng trưởng kinh tế dài hạn cho cả xã hội và hướng tới rất nhiều mục tiêu phi lợi nhuận như môi trường và công bằng xã hội. 5.2. Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế đã được trình bày trong rất nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu của Barro (1991) chỉ ra rằng đầu tư công có tác động tích cực nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê đối với tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1960-85. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Devarajan và cộng sự (1996), đầu tư công lại có tác động tiêu cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu của Easterly và Rebelo (1993), đầu tư công có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đầu tư công vào giao thông vận tải và truyền thông. Trong hai nghiên cứu của Aschauer (2000) và Milbourne và cộng sự (2003), đầu tư công có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. Trong đó, đầu tư vào giao thông, truyền thông và giáo dục có tác động lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế. Các bài báo của Aschauer (1989), Dessus và Herrera (1996) cho thấy, tăng đầu tư công dễ dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao hơn so với tăng đầu tư của khu vực tư nhân. Nghiên cứu của Calderon và Serven (2004) cho thấy rằng, đầu tư công tăng số lượng cơ sở hạ tầng, mặc dù không phải là yếu tố chất lượng, có tác động lớn và có ý nghĩa thống kê đến tăng trưởng kinh tế. 18 Mặc dù các nghiên cứu nêu trên không đưa ra kết quả hoàn toàn đồng nhất về tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế, đa số các nghiên cứu gần đây cho thấy, tăng đầu tư công có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguyên nhân là do đầu tư công trực tiếp và gián tiếp tác động tới thúc đẩy đầu tư tư nhân, tăng năng suất lao động, tăng hội nhập thị trường, việc làm, giảm giá cả tiêu dùng (Edward và cộng sự, 2006) như được trình bày lần lượt ở các phần sau. 5.2.1. Đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân Đầu tư công góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu ứng gián tiếp thúc đẩy đầu tư tư nhân. Tăng đầu tư công cho cơ sở hạ tầng như đường, điện cho một vùng thường dẫn đến tăng đầu tư tư nhân cho vùng đó, ví dụ như nhà máy, máy móc thiết bị dùng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ của vùng đó. Khi nguồn vốn công và vốn tư nhân là bổ sung hợp lý cho nhau, đầu tư công làm tăng hiệu quả đầu tư tư nhân, cuối cùng làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (Edward và cộng sự, 2006). Tuy nhiên, đầu tư công cần phải tập trung vào các lĩnh vực mà đầu tư tư nhân chưa làm được. Ở rất nhiều nước, đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước vẫn đầu tư vào các lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể làm rất tốt. Trong những trường hợp này, đầu tư công lại góp phần làm giảm hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân. Một số khác, các doanh nghiệp nhà nước thường có xu hướng sử dụng vốn đầu tư công không hiệu quả. Kết quả là tốc độ tăng trưởng kinh tế thường thấp hoặc không cao như kỳ vọng. 19 5.2.2. Đầu tư công và tăng năng suất lao động Đầu tư công có thể góp phần làm tăng năng suất, qua đó thúc đẩy tăng trưởng. Aschauer (1989) cho rằng, đầu tư công ở Mỹ làm tăng năng suất lao động. Phần lớn sự suy giảm năng suất của khu vực tư nhân ở Mỹ trong giai đoạn 1970 - 1985 là do đầu tư công thấp. Binswanger và cộng sự (1993) chỉ ra rằng đầu tư công vào thủy lợi có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến sản xuất lương thực và năng suất của ngành nông nghiệp. Một nghiên cứu khác của Mitra và cộng sự (1998) cho thấy rằng, đầu tư vào cơ sở hạ tầng công cộng tại Ấn Độ có tác động tích cực, lớn và có ý nghĩa thống kê đến năng suất và hiệu quả kỹ thuật trong sản xuất. 5.2.3. Tác động tích cực khác của đầu tư công Đầu tư công còn tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc thúc đẩy hội nhập thị trường. Những cải thiện về cơ sở hạ tầng giao thông và truyền thông trong nước góp phần làm giảm chi phí vận chuyển, tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp tư nhân, tăng tiền lương cho người lao động. Đầu tư công cũng góp phần tăng tổng cầu. Các nước đang phát triển nơi thường ở trạng thái việc làm không đầy đủ, sự gia tăng của đầu tư công sẽ có xu hướng làm tăng số lượng việc làm, ít nhất là trong ngắn hạn, bằng cách kích thích tổng cầu, nhờ đó sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Đầu tư công cũng góp phần làm giảm chi phí tiêu dùng rất nhiều loại hàng hóa, trực tiếp nhất là các hàng hóa công cộng, ví dụ các dịch vụ môi trường (công viên, khu vui chơi giải trí). Đối với các hàng hóa do nhà nước cung cấp này, người dân sẽ phải 20 trả tiền ít hơn rất nhiều so với các hàng hóa tương tự do doanh nghiệp tư nhân cung cấp. 5.3. Đầu tư công và giảm nghèo Edward Anderson, Paolo de Renzio và Stephanie Levy (2006) liệt kê một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về ảnh hưởng của chi tiêu công, bao gồm cả đầu tư công, đối với nghèo đói. Ví dụ, Gomanee và cộng sự (2003), Mosley và cộng sự (2004) đã sử dụng số liệu của nhiều nước để ước tính tác động của chi tiêu chính phủ trong các lĩnh vực khác nhau lên số lượng người nghèo đói theo chuẩn 1 USD/người/ngày. Kết quả cho thấy, chi tiêu của chính phủ cho giáo dục, nông nghiệp, nhà ở và tiện nghi (nước, vệ sinh và an sinh xã hội) đều có tác động giảm nghèo. Fan và cộng sự (1999) ước tính ảnh hưởng của chi tiêu công đối với mức độ nghèo đói ở vùng nông thôn ở các bang của Ấn Độ. Kết quả cho thấy, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển nông nghiệp, đường giao thông nông thôn, giáo dục nông thôn và phát triển nông thôn đều có tác động giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Trong số này, chi tiêu cho đầu tư vào nghiên cứu và phát triển nông nghiệp và đường giao thông nông thôn có tác động lớn nhất đối với cả tăng trưởng và giảm nghèo. Fan và cộng sự (2002) thực hiện một phân tích tương tự về tác động của chi tiêu công đối với nghèo ở nông thôn ở các tỉnh của Trung Quốc. Họ thấy rằng, chi tiêu cho giáo dục nông thôn có tác động lớn nhất đến giảm nghèo đói, tiếp theo là chi tiêu cho đầu tư vào nghiên cứu và phát triển nông nghiệp và sau đó là chi tiêu cho đường giao thông nông thôn. 21 6. HIỆN TRẠNG NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NĂM 6.1. Hiện trạng nghèo trên thế giới và Việt Nam theo chuẩn nghèo thu nhập 6.1.1. Thế giới Thế giới đã đạt được những kết quả giảm tỷ lệ nghèo tuyệt đối rất thuyết phục. Trong những năm gần đây, tỷ lệ này ở mức thấp nhất trong lịch sử (Ngân hàng thế giới, 2018). Trong giai đoạn 25 năm từ năm 1990 đến 2015, tỷ lệ nghèo đói tuyệt đối giảm bình quân 1 điểm phần trăm mỗi năm, từ mức gần 36% xuống 10%, tương đương với hơn 1 tỷ người đã thoát khỏi nghèo đói tuyệt đối trong giai đoạn này. Như vậy, mục tiêu thiên niên kỷ đã đạt được sớm hơn 6 năm so với thời hạn đề ra. Số lượng người nghèo tuyệt đối theo chuẩn 1 USD/người/ngày là 1,5 tỉ người năm 1981 (chiếm 40% dân số thế giới), giảm xuống còn 1,1 tỉ người vào năm 2001 (chiếm 21% dân số thế giới). Áp dụng chuẩn nghèo mới ở mức cao hơn (1,9 USD/người ngày), vào năm 1990, 1/3 dân số thế giới có mức tiêu thụ dưới ngưỡng 1,9 USD/người/ngày. Sau 25 năm, tỷ lệ này đã giảm chỉ còn khoảng 10%. Phần lớn dân số thế giới trong năm 1990 chi tiêu ở mức từ 1 USD/người/ngày đến 1,9 USD/người/ngày. Năm 2015, một tỷ lệ không nhỏ dân số thế giới đạt được mức chi tiêu bình quân vượt 1,9 USD/người/ngày và phần lớn tập trung ở mức từ 3,2 đến 5,5 USD/người/ngày. Số lượng người có mức chi tiêu vượt 5,5 USD/ngày cũng tăng rất mạnh. 22 Hình 1. So sánh phân phối tiêu dùng và thu nhập của thế giới năm 1990 và 2015 23 Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2019 Mặc dù số người sống trong nghèo đói tuyệt đối trên toàn thế giới đang ngày càng ít đi nhưng kết quả giảm nghèo lại không đồng đều giữa các vùng và quốc gia trên thế giới. Ví dụ, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt từ 58% xuống còn 16% tại các quốc gia thuộc khu vực Đông Á. Ở khu vực Nam Á, năm 1990, phần lớn dân số có mức chi tiêu thấp hơn 1,9 USD người/ngày. Năm 2015, phần lớn dân số của khu vực này có mức chi tiêu nằm trong khoảng từ 1,9 USD đến 3,2 USD. Ngược lại, tỷ lệ này lại tăng lên gần gấp đôi ở châu Phi và tăng ở các khu vực Đông Âu và Trung Á. Ở vùng châu Phi cận sa mạc Sahara, số lượng người sống dưới mức 1,9 USD/người/ngày năm 2015 cao hơn rất nhiều so với năm 1990 do dân số của khu vực này đã tăng gấp đôi trong cùng giai đoạn. 24 Trong khi đó, số người nghèo tương đối có xu hướng tăng lên ở nhiều nước. Tại Áo, tỷ lệ người nghèo tương đối chiếm 11% dân số vào năm 1999, chiếm 12% năm 2002 và tiếp tục tăng lên 13,2% vào năm 2003. Tại Đức, có 12,1% dân số nghèo tương đối năm 1998, 12,7% dân số nghèo tương đối năm 2003 và tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 13,5% vào năm 2003. Tại Mỹ, năm 2005, nước Mỹ có khoảng 37 triệu người nghèo tương đối, chiếm tới 12,7% dân số. 6.1.2. Việt Nam Việt Nam là một trong những quốc gia đạt kết quả giảm nghèo thành công nhất trên thế giới trong hơn 3 thập kỷ qua. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối theo chuẩn quốc tế của Việt Nam đã giảm từ 70% những năm 1980, xuống 58% năm 1993, 14% năm 2008, và 9,8% năm 2016. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối của Việt Nam giảm ở nhiều vùng, đặc biệt giảm rất mạnh đối với các dân tộc thiểu số trong vài năm gần đây. Tỷ lệ nghèo của các nhóm dân tộc thiểu số chỉ giảm 1,4% từ năm 2012 đến 2014, nhưng sau đó đã giảm hơn 13% từ 57,8% xuống 44,6% trong giai đoạn 2014 - 2016. Hình 2. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối dựa theo chuẩn nghèo quốc tế, 2010-2016 (%) 25 Nguồn: Obert Pimhidzai (2018) Hình 3. Tỷ lệ nghèo theo dân tộc, 2010-2016 (%) 26 Nguồn: Obert Pimhidzai (2018) Mặc dù Việt Nam đạt kết quả giảm nghèo ấn tượng, tốc độ giảm nghèo của Việt Nam lại có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây. Thu nhập hay chi tiêu của nhóm người nghèo có xu hướng tăng chậm hơn so với các nhóm khác. Mức tăng tiêu dùng bình quân đầu người của các hộ gia đình thuộc nhóm 40% thu nhập thấp (5,9%/năm) trong 3 năm 2014 đến 2016 đã thấp hơn mức tăng trung bình cả nước (6,7%/năm), và thấp hơn mức tăng của nhóm 60% thu nhập cao (gần 7%/năm). Tuy nhiên, tính chung cho cả giai đoạn 2010 - 2016, tăng tiêu dùng ở những hộ gia đình có mức thu nhập thấp vẫn vượt qua mức trung bình cả nước trong giai đoạn 2010 – 2016. Hình 4. Tăng trưởng tiêu dùng bình quân đầu người, 2010 - 2016 Nguồn: Obert Pimhidzai (2018) 6.2 4.8 5.9 5.6 2.2 3.8 6.7 4.2 0.0 1.0 2.0 3.0 4.0 5.0 6.0 7.0 8.0 2010-2012 2012-2014 2014-2016 2010-2016 Tăng trưởng tiêu dùng hàng năm trên đầu người (%) - 40% dưới Tăng trưởng tiêu dùng hàng năm trên đầu người (%)- Việt Nam 27 Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo tại Việt Nam có xu hướng ngày một nới rộng. Những hộ nghèo được hưởng lợi ít hơn từ tăng trưởng kinh tế so với những hộ khá hơn. Phần lớn các hộ nghèo đang sinh sống ở các khu vực nông thôn vùng sâu vùng xa, nơi cư trú chủ yếu của các hộ dân tộc thiểu số. Tỷ lệ dân tộc thiểu số trong 10% dân số nghèo nhất của cả nước đã chiếm tới 65%. Hệ số Gini phản ánh mức độ bất bình đẳng tại Việt Nam có xu hướng tăng trong những năm gần đây, tăng lên 35,3 vào năm 2016 sau khi giảm đáng kể từ 39,3 vào năm 2010 xuống từ 34,8 vào năm 2014, với mức tăng được ghi nhận ở khu vực nông thôn và hai vùng Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có hệ số Gini tăng nhanh với mức tăng tới 2%. Bảng 4. Xu hướng bất bình đẳng tại Việt Nam, 2010 - 2016 Vùng/miền Hệ số Gini 2010 2012 2014 2016 Cả nước 39,3 35,6 34,8 35,3 Nông thôn 38,6 31,7 33,1 32,9 Thành thị 33,2 34,4 31,0 31,8 Các vùng Đồng bằng sông Hồng 40,1 34,4 33,6 32,8 Trung du và miền núi phía Bắc 37,1 36,6 37,0 36,4 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 34,0 33,3 33,2 33,9 Tây Nguyên 36,7 37,9 38,9 39,7 Đông Nam Bộ 39,8 33,3 31,1 30,9 Đồng bằng sông Cửu Long 31,7 30,3 28,7 30,6 28 Nguồn: Obert Pimhidzai (2018) 6.2. Hiện trạng nghèo trên thế giới và Việt Nam theo chuẩn tương đối và xã hội 6.2.1. Thế giới Mặc dù số người sống trong tình trạng nghèo tuyệt đối đã giảm nhanh chóng, số người được xác định là nghèo về mặt xã hội phần lớn không được cải thiện nhiều trong giai đoạn từ 1990 đến 2015. Tỷ lệ dân số toàn cầu nghèo về mặt xã hội đã giảm nhẹ và đều đặn kể từ năm 1990 nhưng tốc độ giảm chậm hơn rất nhiều so với mức giảm ở tỷ lệ nghèo tuyệt đối. Hình 5. Đường chuẩn nghèo xã hội Nguồn: Jolliffe and Prydz (2017) Bảng 5. Chuẩn nghèo xã hội trung bình, phân theo vùng và thu nhập, 1990 - 2015 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 4 4.5 0.1 0.6 1.2 1.8 2.4 3 3.6 4.2 4.8 5.4 6 C h u ẩ n n g h èo x ã h ộ i Đường chuẩn nghèo xã hội Trung vị của tiêu dùng (hoặc thu nhập) quốc gia 29 A. Vùng 1990 1999 2008 2013 2015 % thay đổi, 1990-2015 Đông Á và Thái Bình Dương 2 2,2 3,2 4,3 4,8 2,8 Châu Âu và Trung Á 5,9 4,4 7,1 7,8 7,6 1,8 Mỹ Latinh và Caribê 3,9 4,1 5,2 6,1 6,1 2,2 Trung Đông và Bắc Phi 3,6 3,8 4,5 4,7 4,6 1 Nam Á 2 2,1 2,2 2,5 2,6 0,6 Châu Phi cận Sahara 2,1 2,1 2,2 2,3 2,3 0,2 Tổng các vùng 2,7 2,7 3,4 4 4,1 1,4 phần còn lại của thế giới 17.8 19,8 22,1 22 22,8 5 Thế giới 5,3 5,4 6,2 6,7 6,9 1,6 B. Nhóm thu nhập 1990 1999 2008 2013 2015 % thay đổi, 1990-2015 Thu nhập thấp 2,1 2,1 2,1 2,2 2,2 0,1 Thu nhập trung bình thấp 2,2 2,2 2,5 2,8 2,9 0,7 Thu nhập trên trung bình 3 3 4,4 5,4 5,8 2,8 Thu nhập cao 16,4 18,2 20,4 20,5 21,2 4,8 Nguồn: PovcalNet (Công cụ phân tích trực tuyến), Ngân hàng Thế giới, Washington, DC. Ở các quốc gia thu nhập thấp, chuẩn nghèo tuyệt đối áp dụng chung là dưới 1,9 USD/người/ngày. Khi kinh tế tăng trưởng cao 30 có thể làm giảm tỷ lệ người nghèo tuyệt đối nhưng không làm thay đổi tỷ lệ người nghèo theo chuẩn xã hội. Ở các quốc gia có mức thu nhập trung bình trở lên, khi kinh tế tăng trưởng cao có xu hướng làm tăng chuẩn nghèo xã hội. Xu hướng này có nghĩa là số người hay tỷ lệ người nghèo tuyệt đối có thể giảm mạnh nhưng tỷ lệ nghèo xã hội sẽ giảm ở tốc độ thấp hơn đáng kể. Tỷ lệ dân số thế giới sống ở mức chuẩn nghèo xã hội ước tính là khoảng 2,1 tỷ người trong năm 2015. Con số này cao gần gấp ba lần so với số người toàn cầu sống dưới 1,9 USD một ngày theo chuẩn nghèo tuyệt đối. Nguyên nhân là do chuẩn nghèo xã hội được điều chỉnh để thay đổi hằng năm dựa trên tăng trưởng kinh tế. Hình 6. Nghèo đói tuyệt đối và nghèo xã hội, các ước tính toàn cầu, 1990 - 2015 31 Nguồn: World Bank (2018) Tốc độ tăng chuẩn nghèo xã hội là cao hơn nhiều ở các quốc gia có thu nhập cao. Trong số các nước có thu nhập trên trung bình hiện nay, chuẩn nghèo xã hội đã tăng gần gấp đôi từ 3 USD/người/ngày năm 1990 lên 5,8 USD/người/ngày năm 2015. Ngược lại, chuẩn nghèo xã hội trung bình chỉ tăng nhẹ ở các nước thu nhập thấp trong cùng giai đoạn này. Tất cả các khu vực đang phát triển đều có tỷ lệ nghèo xã hội giảm kể từ năm 1990, đặc biệt là những năm 2000. Tỷ lệ nghèo xã hội ở khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đã giảm từ 63,4% năm 1990 xuống 25,1% vào năm 2015. Ngược lại, tại khu vực Châu Phi cận Sahara, mặc dù tỷ lệ nghèo xã hội của khu vực này đã giảm 9% trong 25 năm qua nhưng tỷ lệ chung vẫn là 49%, tương đương với gần 1/2 dân số của khu vực này được xếp vào nhóm nghèo xã hội trong năm 2015. Tại một số quốc gia có thu nhập cao, nghèo đói xã hội vẫn ở mức bền vững, ở mức khoảng 16%. 32 Hình 7. Thay đổi đường chuẩn nghèo xã hội từ tăng trưởng Nguồn: World Bank (2018) 6.2.2. Việt Nam Các chỉ số phi thu nhập chỉ rõ tiến bộ của Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Vào năm 2010, ước tính 98% các hộ gia đình được kết nối với điện lưới quốc gia. Các chỉ số khác cũng có cải thiện kể từ năm 2010. Sóng điện thoại di động có ở mọi nơi, vì số hộ có ít nhất một điện thoại di động tăng từ 73% năm 2010 lên 93% năm 2016. Khả năng tiếp cận vệ sinh được cải thiện từ 70% lên 83%, và khả năng tiếp cận nguồn nước uống tốt được cải thiện hơn tăng từ 72% lên 78%. Trong khi đó, số hộ có nước máy trong nhà tăng từ 26% lên 38% (Ngân hàng Thế giới, 2018). Việt Nam còn đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực giáo dục. Tỷ lệ hoàn thành bậc học trung học phổ thông và tỷ lệ đăng ký tham gia chương trình giáo dục mầm non cũng tăng. Hoạt động của Việt Nam trong các lĩnh vực này vượt xa mức trung bình của các nước tương tự trong khu vực (Ngân hàng thế giới, Đ ộ c o g iã n Tỷ lệ cố định của chuẩn nghèo xã hội Thu nhập/tiêu dùng trung vị (giá cố định 2011, tỷ lệ log) Độ co dãn của đường chuẩn nghèo xã hội 33 2018). Các chỉ số thịnh vượng phi thu nhập khác như tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ về vệ sinh môi trường cũng như các dịch vụ viễn thông đều tăng đối với cả các hộ nghèo và không nghèo trên hầu hết các khu vực địa lý (Ngân hàng Thế giới, 2018). Tuy nhiên, riêng khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc không cho thấy những cải thiện về giáo dục bậc trung học với tỷ lệ toàn thành bậc trung học phổ thông ở khu vực này cơ bản không đổi ở mức 43% trong giai đoạn 2010 - 2016. Khả năng tiếp cận nguồn nước hay số các hộ có nước máy tại khu vực này chỉ đạt tăng trưởng chưa đến 2% trong khoảng 2010-2016 (Ngân hàng thế giới, 2018). 6.3. Thành tựu giảm nghèo của một số nước khu vực châu Á và Thái Bình Dương 6.3.1. Hàn Quốc Tại Hàn Quốc, sau chiến tranh thế giới thứ 2, có tới 60% dân số Hàn Quốc sống ở các khu vực nông thôn và có cuộc sống nghèo đói tột cùng. Ở thời điểm đó, chính phủ Hàn Quốc không chú ý đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát triển ở các vùng đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn. Do đó, quốc gia này chứng kiến làn sóng di dân tự do và ồ ạt từ nông thôn vào thành thị để kiếm việc làm, dẫn đến tình trạng mất kiểm soát của Chính phủ, khiến cho Hàn Quốc rơi vào bất ổn định chính trị - xã hội. Trước tình hình này, những năm 1960, chính phủ Hàn Quốc buộc phải xem xét lại các chính sách kinh tế - xã hội của mình và nhận ra sự cần thiết của việc điều chỉnh các chính sách về phát triển kinh tế - xã 34 hội ở khu vực nông thôn. Từ đó, một chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được ra đời tại Hàn Quốc với 4 nội dung cơ bản gồm: (1) tăng số tiền cho hộ nông dân vay; (2) nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao; (3) thay giống lúa mới có năng suất cao; (4) khuyến khích xây dựng cộng đồng mới ở nông thôn như việc thành lập các HTX sản xuất và các đội ngũ người lao động để sửa chữa đường xá, cầu cống và nâng cấp nhà ở (Business, nd.). Chính sách này được triển khai mạnh mẽ trong 2 thập kỷ 1970 và 1980. 6.3.2. Đài Loan Đài Loan là một trong những nước công nghiệp mới (NIES) nhưng cũng là một trong những quốc gia thành công nhất về mô hình kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bất chấp việc không có các điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế như một số nước trong khu vực, chính phủ Đài Loan đã áp dụng thành công một số chính sách về phát triển kinh tế - xã hội như: (1) đưa lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia đình với quy mô nhỏ, chủ yếu đi vào sản xuất nông phẩm theo hướng sản xuất hàng hoá; (2) đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, đồng thời công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, mở mang thêm và phát triển nhanh chóng các ngành sản xuất kinh doanh ngoài nông nghiệp; (3) đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nông thôn với việc phát triển mạng lưới giao thông nông 35 thôn cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ đều khắp các miền và các vùng sâu, vùng xa; (4) phát triển các cơ sở sản xuất công nghiệp ngay ở vùng nông thôn để thu hút nguồn lao động nhàn rỗi (Business, nd.). 6.3.3. Trung Quốc Trong quá trình thực hiện chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo đã tăng lên rõ rệt trong xã hội Trung Quốc. Để khắc phục tình trạng nghèo khổ cho người dân ở khu vực nông thôn, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một loạt các giải pháp cơ bản nhằm xoá đói giảm nghèo cho nhân dân, trong đó có các giải pháp về tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, xây dựng các vùng định canh, định cư, khu dân cư mới. Các chính sách này đã đem lại những thành công đáng kể cho nền kinh tế - xã hội Trung Quốc trong những năm qua (Business, nd.). Tính theo số lượng người thoát nghèo, Trung Quốc là nước thành công nhất thế giới với hơn 700 triệu người. 6.3.4. Thái Lan Tại Thái Lan, các chính sách phát triển của quốc gia này thể hiện rõ quan điểm ưu tiên tối đa cho tăng trưởng nhanh, xóa đói giảm nghèo sẽ được khắc phục dần dần vào thời gian sau hơn là làm đồng bộ. Những năm 1980 trở về trước, Thái Lan ưu tiên tăng trưởng nhanh, dẫn đến mất cân bằng thu nhập và tăng nghèo đói của nước này. Ví dụ, năm 1981, thành phố Bangkok đóng góp 42% vào GDP, đến năm 1989 đóng góp của thành phố này lên tới 48% GDP. Trong khi đó, tỷ trọng đóng góp cho GDP ở các vùng khác lại giảm xuống như ở miền Bắc và miền Nam Thái 36 Lan, nơi có tỷ trọng đóng góp cho GDP quốc gia giảm từ 14,7% năm 1981 xuống còn 10% năm 1989 (GFCD, 2018). Trong khoảng 20 năm qua, một trong những biện pháp giảm nghèo của Thái Lan là phân bố cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng mới về khu vực nông thôn, nơi có sẵn tài nguyên thiên nhiên nhằm thu hút số lao động dôi dư ở khu vực nông nghiệp. Việc này nhằm khắc phục tình trạng dân lao động từ vùng nông thôn di cư vào thành phố lớn để kiếm việc làm, đồng thời làm tăng thu nhập cho người dân nông thôn và gia đình họ. Biện pháp này còn nhằm mục đích đô thị hoá nông thôn, đưa những vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi vào dòng phát triển chung của đất nước (GFCD, 2018). 6.3.5. Malaysia Ở Malaysia, Nhà nước đi đầu và có vai trò nòng cốt trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Các chính sách phát triển của chính phủ nước này luôn đặt mục tiêu là bảo đảm lợi ích hài hòa giữa các dân tộc trên cơ sở chú trọng đến lợi ích của cộng đồng người bản địa, vì họ là thành phần cư dân đông nhất và cũng có tỷ lệ nghèo cao nhất. Thông qua các cơ chế quản lý hiệu quả và đồng bộ, các chính sách xóa đói giảm nghèo của Malaysia đã đến được với những đối tượng nghèo khổ và cần sự trợ giúp (GFCD, 2018). Chính phủ Malaysia, thông qua các chương trình xã hội như y tế, đặc biệt chú trọng cho giáo dục và đào tạo với phần chi ngân sách cho đầu tư và trợ cấp giáo dục qua từng thời kỳ là rất lớn, đã giúp người lao động nâng cao khả năng tìm kiếm cơ hội việc làm, 37 từ đó cải thiện thu nhập và mức sống. Chính phủ Malaysia cũng đã thực hiện chính sách phân phối lại trong nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên, việc phân phối lại vẫn không thực sự hiệu quả khi lợi ích vẫn chủ yếu tập trung cho tầng lớp giàu có (GFCD, 2018). 7. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO CỦA VIỆT NAM 7.1. Quá trình ban hành chính sách giảm nghèo Đầu thập niên 1990, khi bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã xác định xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng cần phải giải quyết. Năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã được nêu ra trong các diễn đàn, các chương trình nghiên cứu và đồng thời được triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách về giảm nghèo đầu tiên thông qua Quyết định số QĐ 135/1998/QĐ-TTg về việc triển khai chương trình 135 nhằm phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Kể từ đó, Việt Nam đã ban hành 6 Nghị quyết và Quyết định, tương ứng với 4 Chương trình giảm nghèo khác nhau, với mục tiêu chung là hướng tới giảm nghèo bền vững tại Việt Nam. Từ trước năm 2015, Việt Nam có tới 16 chương trình mục tiêu quốc gia, bao gồm: (1) Dạy nghề; (2) Giảm nghèo bền vững; (3) Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; (4) Y tế; (5) Dân số và Kế hoạch hóa gia đình; (6) Vệ sinh an toàn thực phẩm; (7) Văn hóa; (8) Giáo dục và đào tạo; (9) Phòng, chống ma túy; (10) Phòng, chống tội phạm; (11) Sử dụng năng lượng tiết kiệm và 38 hiệu quả; (12) Ứng phó với biến đổi khí hậu; (13) Xây dựng nông thôn mới; (14) Phòng, chống HIV/AIDS; (15) Đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; (16) Khắc phục và cải thiện ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, mục tiêu của 16 chương trình mục tiêu quốc gia được đánh giá là quá rộng dẫn đến việc bố trí nguồn lực cũng như tổ chức thực hiện các chương trình còn bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn đến hiệu quả chung của các chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn này là chưa cao. Do đó, từ năm 2016, Quốc hội Việt Nam thống nhất chỉ giữ lại 2 chương trình mục tiêu quốc gia, gồm Chương trình xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Các chương trình giảm nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn phần lớn được đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước nhằm mục tiêu hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng nghèo trên phạm vi cả nước. Các phần tiếp theo của Phần 7 trình bày khái quát nội dung chính của các chương trình giảm nghèo này. Mặc dù Chương trình Mục tiêu quốc gia về Nông thôn mới không có mục tiêu giảm nghèo hay độc lập với chương trình Mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững nhưng Phần 7 vẫn mô tả tóm tắt do Chương trình này có rất nhiều hoạt động góp phần giảm nghèo bền vững ở Việt Nam, đặc biệt là Chương trình nông thôn mới rất chú trọng tới đầu từ cho cơ sở hạ tầng nông thôn. 7.2. Chương trình 135 Chương trình 135 là chương trình xóa đói giảm nghèo (phát triển kinh tế xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc 39 thiểu số và miền núi) đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam. Chương trình này lần đầu được tổ chức và triển khai thực hiện ở Việt Nam vào năm 1998 theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó xác định phạm vi của chương trình là khoảng 1.000 xã (trong tổng số 1.715 xã thuộc diện khó khăn) thuộc các huyện đặc biệt khó khăn. Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 trong giai đoạn 1998 - 2015 được tách theo hai giai đoạn. Đối với giai đoạn từ năm 1998 đến 2000, mục tiêu bao gồm giảm được 4 - 5% hộ nghèo mỗi năm, về cơ bản không còn các hộ đói kinh niên; cung cấp nước sinh hoạt cho đồng bào; tăng số lượng trẻ em đến trường; kiểm soát các bệnh hiểm nghèo; cải thiện hệ thống đường giao thông dân sinh; tăng cường phổ biến thông tin, văn hóa. Đối với giai đoạn sau từ năm 2000-2005, mục tiêu của chương trình là giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005; cung cấp đủ nước sinh hoạt cho đồng bào; đạt tỷ lệ trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến trường; tăng cường phổ biến kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội kinh nghiệm sản xuất cho người dân; kiểm soát dịch bệnh hiểm nghèo; phát triển giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh; phát triển thị trường nông thôn. Giai đoạn II của chương trình 135 với tên đầy đủ là “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010” đề ra mục tiêu với trên 70% số hộ đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên 3,5 triệu đồng/năm vào năm 2010; tăng các mục tiêu về phát triển cơ sở hạ tầng với từ 80% - 100% các xã có đường 40 giao thông cho xe cơ giới; có công trình thủy lợi nhỏ bảo đảm năng lực phục vụ sản xuất; có đủ trường, lớp học kiên cố; thôn, bản có điện ở cụm dân cư; có trạm y tế kiên cố đúng tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, các mục tiêu về nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho nhân dân ở các xã đặc biệt khó khăn cũng được nâng lên trong giai đoạn này, bao gồm tăng tỷ lệ hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, tỷ lệ hộ được sử dụng điện sinh hoạt; kiểm soát, ngăn chặn các bệnh dịch nguy hiểm; tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh; tỷ lệ số học sinh trong độ tuổi đến trường. Tổng nguồn lực được phân bố để đầu tư cho Chương trình 135 giai đoạn I tính từ năm 1999 - 2001 là 2.570 tỷ đồng; từ năm 2002 - 2005 là 4.225,7 tỷ đồng”. Tính đến năm 2010 khi giai đoạn II kết thúc, Việt Nam đã chi đầu tư cho chương trình 135 tổng cộng khoảng 12 nghìn tỷ đồng. 7.3. Chương trình 134 Nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, giảm nghèo nhanh, bền vững, ngày 20/07/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho các hộ dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Sau 4 năm, Chương trình 134 đã được triển khai ở 53 tỉnh và thành phố trên cả nước. Đến hết năm 2008, Chương trình 134 đã hỗ trợ được gần 380.000 nhà ở cho đồng bào nghèo, đạt 111% so với mục tiêu đề ra với nguồn vốn được thực hiện gần 2.000 tỷ đồng. 41 7.4. Chương trình 167 Năm 2008, Chính phủ triển khai Chương trình 167 nhằm mục đích hỗ trợ các hộ nghèo có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững. Đối tượng của Chương trình 167 là các hộ nghèo (hộ chưa có nhà ở hoặc đã có nhà ở nhưng nhà ở quá tạm bợ, hư hỏng, dột nát, có nguy cơ sập đổ và không có khả năng tự cải thiện nhà ở). Sau hơn 3 năm triển khai, Chương trình đã hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho 507.143 hộ, đạt tỷ lệ 102,2% so với số hộ phê duyệt ban đầu. Chương trình đã huy động được 12.653 tỷ đồng từ các nguồn vốn ngân sách trung ương, vốn ngân sách địa phương, vốn vay Ngân hàng Chính sách xã hội và vốn huy động khác. Hầu hết các căn nhà đều có diện tích tối thiểu 24 m2 trở lên, được xây dựng bằng vật liệu có chất lượng tốt, có giá thành từ 25 đến 28 triệu đồng/căn và bảo đảm sử dụng từ 10 năm trở lên. Sau thành công của Chương trình 167 giai đoạn 1, Chính phủ đã triển khai Chương trình 167 giai đoạn 2 nhằm hỗ trợ nhà ở đối với 311.000 hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 -2015 ở khu vực nông thôn, hoặc đang cư trú tại các thôn, làng, buôn, bản, ấp, sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm, ngư nghiệp. Nguồn vốn thực hiện của chương trình 167 giai đoạn 2 bao gồm vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội, vốn huy động từ "Quỹ vì người nghèo" do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp vận động từ cộng đồng xã hội và từ các doanh nghiệp; vốn 42 của hộ gia đình được huy động từ gia đình, dòng họ; và vốn lồng ghép từ các chương trình, mục tiêu khác. 7.5. Chương trình 30a Năm 2008, do kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, Chính phủ đã đề ra Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2018 về việc triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50% (gọi tắt là Chương trình 30a). Một số mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 30a là giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện xuống còn 40% vào năm 2010, xuống bằng mức trung bình của tỉnh vào năm 2015, và xuống bằng mức trung bình của khu vực vào năm 2020. Thu nhập bình quân của các hộ ở huyện nghèo vào năm 2020 sẽ cao gấp 5, 6 lần hiện nay. Tỷ lệ lao động nông thôn được tập huấn và đào tạo đạt trên 25% vào năm 2010, trên 40% vào năm 2015, trên 50% vào năm 2020. Đến năm 2020, giao thông sẽ thông suốt tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; điện sinh hoạt được cung cấp cho hầu hết dân cư; điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc được cơ bản đảm bảo. Để đạt được các mục tiêu trên, Chính phủ đã đề ra các nhóm giải pháp về chính sách như hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; tăng cường và nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở quản lý Chương trình 30a. 43 Đến tháng 3/2018, đã có 8/64 huyện thuộc Nghị quyết 30a thoát nghèo; 14/30 huyện hưởng cơ chế 30a thoát khỏi tình trạng khó khăn. Năm 2018, có 29 huyện được bổ sung vào danh sách huyện nghèo giai đoạn 2018 - 2020. 7.6. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội được bắt đầu triển khai từ năm 2010 căn cứ theo Quyết định số 800/QĐ- TTg ngày 04 tháng 06 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu tổng quát của chương trình Nông thôn mới là “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu cụ thể được xác định là đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới (theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới), đến năm 2020: 50% số xã đạt tiêu chuẩn Nông thôn mới. 7.7. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 bản chất là chương trình gộp của các chương trình giảm nghèo và một số chương trình mục tiêu quốc gia đã 44 triển khai từ trước năm 2015 gồm Chương trình 30a; Chương trình 135; Chương trình ngoài 30a và 135; Truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình. Trong số các chương trình, dự án này, Bộ Nông nghiệp và PTNT được giao chủ trì và quản lý các tiểu dự án, dự án như sau: - Tiểu dự án 3 thuộc Dự án 1 (còn gọi là Chương trình 30a) về Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. - Tiểu dự án 2 thuộc Dự án 2 (còn gọi là Chương trình 135) về Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn. - Dự án 3 về Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngoài Chương trình 30a và Chương trình 135. 7.7.1. Cách thức tổ chức thực hiện và các nội dung hỗ trợ của các dự án giảm nghèo do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý Các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo từ năm 1998 đến nay của Việt Nam thường được triển khai theo các bước chọn huyện đại diện (chương trình 30a), chọn xã đại diện (chương trình 135), chọn địa hình đại diện, chọn dân tộc đại diện (chương trình 134), chọn hộ đại diện, chọn người đại diện. Mỗi chương trình giảm nghèo thường có 70% mục tiêu là giống nhau và 30% là khác nhau. Nguồn vốn cho các chương trình này chủ 45 yếu là vốn đầu tư công hay còn gọi là vốn ngân sách nhà nước. Các hình thức hỗ trợ thường là hỗ trợ sản xuất (cho vay lãi suất thấp, cho vật tư, cho đầu vào), xây dựng nhà ở, cung cấp nước sạch, xây dựng đường, điện, nhà văn hóa. Ở cấp Trung ương, việc chỉ đạo, điều hành các chương trình Giảm nghèo được thực hiện thông qua các loại văn bản như Nghị quyết của Quốc hội, Quyết định/Nghị định của Chính phủ, Quyết định của các Bộ, Ngành có liên quan. Ở cấp tỉnh, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương, UBND các tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo các cấp ủy đảng và chính quyền trong việc triển khai thực hiện các chương trình giảm nghèo, trong đó huy động sự tham gia của tất cả các cấp từ cấp xã, huyện, tỉnh; phân công rõ trách nhiệm của các cơ quan và có sự phối hợp chặt chẽ trong thực hiện. Việc chỉ đạo, điều hành các chương trình Giảm nghèo ở cấp tỉnh được thực hiện thông qua các loại văn bản như Nghị quyết, Quyết định, Kế hoạch, Công văn, Văn bản, Hướng dẫn và các loại văn bản khác. Các Sở, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý thực hiện các dự án, tiểu dự án thuộc chương trình giảm nghèo do Bộ Nông nghiệp và PTNT như tiến hành kiện toàn Ban chỉ đạo giảm nghèo, thành lập tổ giúp việc Ban chỉ đạo, phân công cụ thể cho từng thành viên ban chỉ đạo giảm nghèo trong việc chỉ đạo, thực hiện công tác giảm nghèo ở địa phương. Sở Nông nghiệp và PTNT có vai trò tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để ban hành các chính sách, kế hoạch của địa phương và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đồng thời có vai trò phối 46 hợp với các sở, ban, ngành trong việc phân bổ vốn về các huyện, xã để triển khai tổ chức thực hiện. Các Chi cục phát triển nông thôn có trách nhiệm thường xuyên phối hợp với phòng Nông nghiệp và PTNT các huyện hướng dẫn, kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở các xã đảm bảo theo trình tự, thủ tục xây dựng và thực hiện các dự án, tiểu dự án giảm nghèo ở địa phương. UBND huyện là cơ quan phê duyệt dự án và phân bổ nguồn vốn của các dự án trực tiếp về các xã, từ đó UBND cấp xã trực tiếp xây dựng và thực hiện dự án. Đối với các xã có điều kiện rất khó khăn trong việc tự tổ chức triển khai dự án, UBND huyện hoặc Chi cục PTNT kết hợp các phòng, ban chỉ đạo, điều hành, trực tiếp làm chủ đầu tư. Nội dung hỗ trợ của chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 rất đa dạng và phân theo loại dự án. Đối với các dự án, tiểu dự án hỗ trợ PTSX thuộc chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý và tổ chức thực hiện, nội dung hỗ trợ chính với định mức hỗ trợ bình quân của các nhóm dự án như sau: - Các dự án trồng trọt có mức hỗ trợ bình quân đối với các hộ tham gia là 1,3 triệu đồng/hộ, tập trung vào hỗ trợ giống cây lương thực, cây ăn quả như lúa, bắp, cam, chuối, sắn mía, chè, rau, cây dược liệu, cây tre điền trúc; hỗ trợ phân bón và hỗ trợ thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu. - Các dự án chăn nuôi có mức hỗ trợ bình quân đối với các hộ tham gia là 3 triệu đồng/hộ, nội dung hỗ trợ về giống bò, gà, vịt, 47 heo, dê sinh sản hoặc thương phẩm; hỗ trợ làm chuồng trại chăn nuôi; hỗ trợ mua thức ăn chăn nuôi; hỗ trợ mua vắc xin tiêm phòng cho gia súc. - Các dự án nuôi trồng thủy sản có mức hỗ trợ bình quân đối với các hộ tham gia là 17 triệu đồng/hộ, tập trung hỗ trợ nuôi cá chép cá trắm, cá lồng, cá rô phi, nuôi ngao thương phẩm, nuôi tôm quản canh; hỗ trợ cải tạo ao nuôi trồng thủy sản. - Các dự án hỗ trợ mua máy móc thiết bị, dụng cụ phục vụ sản xuất có mức hỗ trợ bình quân đối với các hộ tham gia là 2,7 triệu đồng/hộ, nhằm hỗ trợ mua máy bơm nước, máy phun thuốc, máy rảy giống, máy xăng và xuồng composite. - Các dự án hỗ trợ chuyển giao khoa học kỹ thuật, tập huấn, đào tạo, tham quan học hỏi kinh nghiệm có mức hỗ trợ bình quân đối với các hộ tham gia là 280 nghìn đồng/hộ. Các dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo có mức hỗ trợ bình quân là 5,25 triệu đồng/hộ. Đối tượng được nhận hỗ trợ của các dự án, tiểu dự án giảm nghèo do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý rất rộng, bao gồm các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ nghèo dân tộc thiểu số, phụ nữ thuộc hộ nghèo, người khuyết tật còn khả năng lao động, người sau cai nghiện ma túy, nhiễm HIV/AIDS, phụ nữ bị buôn bán trở về.. 7.7.2. Kết quả thực hiện các dự án giảm nghèo do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý Kết quả đánh giá giữa kỳ 03 loại dự án, tiểu dự án hỗ trợ PTSX, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo, 48 thuộc phạm vi chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý cho thấy các dự án nhìn chung đạt hiệu quả trung bình. Chỉ có 35,1% số hộ dân tham gia đánh giá các dự án giảm nghèo mang lại hiệu quả cao. Phần lớn các hộ dân đánh giá các dự án chỉ mang lại hiệu quả ở mức trung bình (chiếm 59,5%), 5,4% số hộ dân tham gia đánh giá rằng các dự án này hoàn toàn không mang lại hiệu quả gì. Xét theo loại dự án, 40% số hộ dân tham gia chương trình 30a đánh giá dự án này là rất hiệu quả, cao nhất trong 3 nhóm dự án, so với tỷ lệ 36,4% của chương trình ngoài 30a,135a và 27,3% của chương trình 135. 53,3% số hộ dân đánh giá hiệu quả của chương trình 30a chỉ ở mức trung bình, thấp hơn tỷ lệ này của chương trình ngoài 30a, 135 (54,5%) và chương trình 135 (72,7%). Thu nhập bình quân tăng đáng kể đối với các hộ trực tiếp tham gia dự án. Thu nhập bình quân của các hộ đã tăng từ 0,6 triệu đồng/tháng năm 2016 lên 0,94 triệu đồng/tháng năm 2018. Tỷ trọng thu nhập từ dự án/tổng thu nhập đã tăng từ 21,9% năm 2016 lên 34,3% năm 2018. Xét theo loại dự án, thu nhập bình quân của các hộ thuộc chương trình 30a tăng từ 0,68 triệu đồng/tháng năm 2016 lên gần 1,1 triệu đồng/tháng năm 2018. Trong đó, tỷ trọng thu nhập từ dự án đã tăng đáng kể từ 12,5% năm 2016 lên mức 33,2% năm 2018. Đối với các hộ tham gia chương trình 135, thu nhập bình quân đầu người của các hộ tham gia vào chương trình này thấp hơn so với các hộ tham gia chương trình 30a, tăng từ 0,56 triệu đồng/tháng năm 2016 lên gần 0,71 49 triệu đồng/tháng năm 2018. Trong đó, tỷ trọng thu nhập từ dự án đã tăng từ 16% năm 2016 lên mức 32,4% năm 2017. Thu nhập bình quân đầu người của các hộ thuộc chương trình ngoài 30a,135 tương đương với các hộ tham gia chương trình 30a và cao hơn các hộ thuộc chương trình 135, tăng từ 0,57 triệu đồng/tháng năm 2016 lên gần 1,02 triệu đồng/tháng năm 2018. Trong đó, tỷ trọng thu nhập từ dự án đã tăng từ 37,1% năm 2016 lên mức 61,2% năm 2018. Mặc dù thu nhập bình quân chung tăng nhưng mức tăng không đều giữa các hộ tham gia dự án. 19,4% hộ tham gia các dự án có thu nhập tăng nhiều, trong khi có tới 72,6% số hộ có thu nhập tăng ít và 7,3% số hộ có thu nhập không thay đổi. Xét riêng theo loại dự án, chương trình 30a có tỷ lệ hộ có thu nhập tăng nhiều thấp nhất trong 3 loại dự án, chỉ chiếm 11,5% tổng số hộ tham gia dự án này, trong khi có tới gần 77% số hộ có thu nhập tăng ít và 9,7% số hộ có thu nhập không thay đổi. Chương trình 135a có tỷ lệ hộ có thu nhập tăng nhiều cao nhất trong 3 loại dự án, chiếm tới 33,3% tổng số hộ tham gia dự án này. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ có thu nhập tăng ít ở dự án này vẫn còn cao, chiếm 60,6%, trong khi tỷ lệ hộ có thu nhập không thay đổi chiếm 6,1%, thấp hơn so với chương trình 30a. Chương trình ngoài 30a, 135 có 17,9% số hộ có thu nhập tăng nhiều, cao hơn chương trình 30a nhưng thấp hơn chương trình 135. Tỷ lệ hộ có thu nhập tăng ít ở dự án này tương đương với chương trình 30a, chiếm gần 77%. Tỷ lệ thoát nghèo của các hộ trực tiếp tham gia dự án chưa thực sự cao. Tỷ lệ số hộ đánh giá dự án giúp hộ thoát 50 nghèo/giảm nghèo chỉ đạt 61,8%. Vẫn còn 1 tỷ lệ khá cao (38,2%) số hộ cho rằng dự án chưa giúp họ thoát nghèo/giảm nghèo. Xét theo loại dự án, chỉ có 58,3% số hộ dân tham gia Chương trình 30a đánh giá việc tham gia dự án này giúp hộ gia đình thoát nghèo/giảm nghèo, thấp hơn tỷ lệ này ở chương trình 135 và chương trình ngoài 30a, 135 (cùng đạt 63,6%). Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ khá cao số hộ đánh giá dự án không giúp gia đình hộ dân thoát nghèo ở cả 3 loại dự án (tỷ lệ này đối với chương trình 30a là 41,7%, chương trình 135 và chương trình ngoài 30a, 135 là 36,4%). Hỗ trợ về giống sản xuất chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của nhiều hộ tham gia dự án. 66% số hộ dân tham gia các dự án đánh giá hỗ trợ về giống của dự án là rất hiệu quả. Trong khi đó, tỷ lệ các hộ đánh giá hỗ trợ về giống chỉ mang lại hiệu quả ở mức trung bình là không nhỏ, chiếm bình quân 30,2%, bên cạnh đó cũng còn 1 số hộ (chiếm tỷ lệ bình quân 3,8%) đánh giá các hỗ trợ về giống của dự án là không hiệu quả. Hỗ trợ về phân bón, thức ăn gia súc đối với các hộ trực tiếp tham gia dự án được đánh giá chỉ mang lại hiệu quả trên mức trung bình. 55,3% số hộ dân tham gia các dự án đánh giá hỗ trợ về phân bón, thức ăn gia súc của dự án là rất hiệu quả, khoảng 42% số hộ đánh giá hình thức hỗ trợ này chỉ mang lại hiệu quả ở mức trung bình, và một tỷ lệ nhỏ (2,6%) số hộ đánh giá các hỗ trợ về phân bón, thức ăn gia súc của dự án là không hiệu quả. 51 Hỗ trợ về thuốc BVTV, thuốc thú y được các hộ trực tiếp tham gia dự án đánh giá là tương đối hiệu quả với 75% số hộ dân tham gia đánh giá hỗ trợ về thuốc BVTV/thuốc thú y của các dự án là rất hiệu quả, 25% số hộ còn lại đánh giá hình thức hỗ trợ này chỉ mang lại hiệu quả ở mức trung bình. Hỗ trợ về máy móc, vật tư, công cụ, dụng cụ đối với các hộ trực tiếp tham gia dự án được đánh giá là đạt hiệu quả trung bình. 54,5% số hộ tham gia các dự án đánh giá các hỗ trợ về máy móc, vật tư, công cụ, dụng cụ là rất hiệu quả, cao hơn so với tỷ lệ 45,5% số hộ đánh giá rằng hình thức hỗ trợ này chỉ mang lại hiệu quả trung bình. Hình thức hỗ trợ về tư vấn kỹ thuật từ cán bộ dự án được đánh giá là rất hiệu quả với tỷ lệ 70,7% các hộ tham gia các dự án đánh giá kỹ thuật từ cán bộ dự án là rất hiệu quả, 29,3% số hộ còn lại đánh giá hình thức hỗ trợ này chỉ mang lại hiệu quả trung bình. Nhìn chung, các dự án, tiểu dự án giảm nghèo đã và đang được quản lý và triển khai bởi Bộ Nông nghiệp và PTNT đã góp phần giúp các hộ dân tham gia dự án giảm nghèo và thoát nghèo, tuy nhiên mức độ hiệu quả là chưa cao. Các hỗ trợ của của các dự án như hỗ trợ về giống; hỗ trợ về phân bón, thức ăn gia súc; hỗ trợ về thuốc BVTV, thuốc thú y; và hỗ trợ về máy móc, vật tư, công cụ, dụng cụ đa số mang lại hiệu quả trung bình, do đó ảnh hưởng tới hiệu quả chung của các dự án. Ngoài ra, còn tồn tại một hạn chế liên quan tới công tác tổ chức và triển khai thực hiện làm ảnh hưởng tới hiệu quả giảm nghèo của các dự án như ban hành các 52 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện còn chậm và chồng chéo, công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp địa phương còn thiếu đồng bộ, chưa cụ thể, còn tình trạng lúng túng trong việc phân bổ vốn cũng như lựa chọn mô hình phù hợp, nguồn vốn đầu tư cho các dự án còn thấp và dàn trải, không đáp ứng được nhu cầu thực tế của địa phương. Bên cạnh đó, còn tồn tại một số khó khăn đối với người dân tham gia các dự án như các hỗ trợ nhận được từ các dự án chủ yếu là hỗ trợ về đầu vào sản xuất, gần như không nhận được hỗ trợ về tiêu thụ sản phẩm. Người thụ hưởng hỗ trợ cho biết họ chủ yếu được nhận các hỗ trợ trong 1 khoảng thời gian rất ngắn, thường chỉ từ 3 - 6 tháng, không đủ cho họ tích lũy kinh nghiệm sản xuất để thoát nghèo bền vững. Một số người nghèo và hộ nghèo nhận hỗ trợ từ các chương trình là những người có sức khỏe rất yếu, ví dụ như bị tàn tật, bị chất độc màu da cam. Những người và hộ này cần được cung cấp phúc lợi xã hội hơn là hỗ trợ để họ tham gia sản xuất, tham gia thị trường. 8. KẾT LUẬN Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới từ năm 1990 đến năm 2015 cho thấy, thế giới đã đạt được những thành tựu rất tốt về giảm nghèo tuyệt đối, với số người nghèo tuyệt đối giảm hơn 1 tỷ người, sớm hơn 6 năm so với thời hạn mà Liên Hiệp Quốc đề ra. Tuy nhiên, cũng theo Ngân hàng Thế giới, thành tựu giảm nghèo cũng không đều giữa các nước. Tỷ lệ người nghèo giảm mạnh tại các quốc gia thuộc khu vực Đông Á nhưng lại tăng lên gần gấp đôi ở châu Phi và tăng ở các khu vực Đông Âu và Trung Á. Bên cạnh đó, tỷ lệ người nghèo chung của thế giới có xu hướng giảm 53 mạnh nhưng số lượng người nghèo ít thay đổi, vẫn ở mức khoảng 2 tỷ người do sự gia tăng dân số thế giới. Tốc độ giảm nghèo tương đối chậm hơn so với tốc độ giảm nghèo tuyệt đối. Tỷ lệ nghèo tương đối giảm từ khoảng 44,5% năm 1990 xuống còn 28,4% năm 2015. Trong khi tỷ lệ nghèo tuyệt đối giảm mạnh hơn rất nhiều, giảm từ 35,9% năm 1990 xuống còn khoảng 10% năm 2015. Những năm 1990, sự khác biệt giữa nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối là không đáng kể. Năm 2015, tỷ lệ nghèo tương đối lớn hơn gần ba lần so với tỷ lệ nghèo tuyệt đối. Tỷ lệ nghèo tương đối thậm chí còn tăng lên ở nhiều nước thu nhập cao và trung bình. Duy nhất chỉ có một số quốc gia thuộc khu vực Đông Á và Thái Bình Dương là ngoại lệ khi có tỷ lệ nghèo tương đối giảm mạnh trong cùng thời gian. Việt Nam cũng là 1 trong những nước có thành tựu giảm nghèo tuyệt đối tốt nhất trên thế giới. Tỷ lệ nghèo này giảm ở mọi nơi và mọi dân tộc. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối đã giảm từ mức gần 80% năm 1984 xuống chỉ còn khoảng 9,8% năm 2016. Tỷ lệ nghèo tuyệt đối gần như không còn ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ giảm mạnh nhất với tốc độ lần lượt là 9,3%/năm và 6,3%/năm. Tuy nhiên, cũng giống với xu hướng chung của thế giới, theo thời gian tốc độ giảm nghèo đang chậm lại và khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đang ngày một nới rộng ở Việt Nam. Những hộ nghèo được hưởng lợi ít hơn từ tăng trưởng kinh tế so với những hộ khá hơn. Phần lớn các hộ nghèo đang sinh sống ở các khu vực nông thôn vùng sâu 54 vùng xa, nơi có tốc độ phát triển kinh tế chậm nhưng ít được đầu tư phát triển. Theo dõi quá trình giảm nghèo của các nước trên thế giới, các nước thành công thường chú trọng đến các giải pháp chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, mở cửa thị trường với nhiều nước khác nhau trên thế giới. Luật và chính sách được thay đổi theo hướng phát triển thị trường công bằng hơn, minh bạch hơn, phát triển cơ sở hạ tầng cứng và mềm để tăng tính tương tác giữa các vùng, các dân tộc khác nhau để giảm chênh lệch về vùng miền, và cuối cùng là tăng sự tham gia của người nghèo vào các quyết định chính sách có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới cuộc sống của họ. Trong các nguồn vốn đầu tư, đầu tư công là công cụ chính sách hiệu quả nhất để thực hiện giảm nghèo tuyệt đối và tương đối. Cũng giống như các nước thành công trong giảm nghèo khác, ở Việt Nam, các chính sách trong gần 30 năm qua đều hướng tới tăng trưởng kinh tế cao, tăng trưởng xuất nhập khẩu cao. Đầu tư công của nhà nước cũng được phân bổ cho mục tiêu này thông qua đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phát triển thị trường. Có thể còn có nhiều tranh cãi về hiệu quả của đầu tư công cho các hoạt động này trong các năm trước biểu hiện qua so sánh hệ số ICOR giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, nhưng nhìn chung các đánh giá hiện nay đều cho rằng thành tựu giảm nghèo ấn tượng của Việt Nam là do tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong gần 30 năm qua. 55 Trong 5 năm gần đây, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại, thường trong khoảng 5-7%/năm so với mức 7 - 10%/năm của nhiều năm trước đó. Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong tương lai của Việt Nam sẽ phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào các giải pháp tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, đặc biệt trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xây dựng thị trường cạnh tranh hơn, minh bạch hơn và hệ thống chuỗi giá trị thị trường liên kết mạnh hơn, công bằng hơn từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Đối với đầu tư công trực tiếp hướng tới người nghèo, Việt Nam bắt đầu chú trọng từ năm 1998 thông qua chương trình 135 từ năm 1998 đến năm 2010, chương trình 134 năm 2004, chương trình 167 năm 2008, chương trình 30a năm 2008 áp dụng cho giai đoạn 2008 đến 2020, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới năm 2010 đến năm 2020, và chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững từ năm 2014 đến 2020. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững là một sự tích hợp của tất cả các chương trình giảm nghèo trước đó. Để tăng tính bền vững cho giảm nghèo ở Việt Nam, trong thời gian tới Việt Nam cần chú trọng tới hiệu quả của chương trình giảm nghèo bền vững này. Các chương trình giảm nghèo từ năm 1998 đến nay của Việt Nam được đánh giá là hiệu quả chưa cao. Phương pháp triển khai thường theo các bước chọn huyện đại diện (chương trình 30a), chọn xã đại diện (chương trình 135), chọn địa hình đại diện, chọn dân tộc đại diện (chương trình 134), chọn hộ đại diện, và chọn người đại diện. Mỗi chương trình giảm nghèo thường có 70% 56 mục tiêu là giống nhau và 30% là khác nhau, vì thế dẫn đến khả năng trùng lặp mục tiêu rất cao. Nguồn vốn cho các chương trình này chủ yếu là vốn đầu tư công hay còn gọi là vốn ngân sách nhà nước và hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng cần xem xét cẩn thận hơn trong tương lai. Các hình thức hỗ trợ hiện nay thường là hỗ trợ về đầu vào sản xuất (hỗ trợ cho vay vốn, hỗ trợ về phân bón, vật tư, kỹ thuật sản xuất), xây dựng nhà ở, cung cấp nước sạch, xây dựng đường, điện, nhà văn hóa. Qua kết quả đánh giá giữa kỳ việc thực hiện các dự án giảm nghèo được triển khai thực hiện tại Bộ Nông nghiệp và PTNT năm 2018 tại 5 tỉnh cho thấy, nhìn chung, các dự án này chưa thực sự có hiệu quả trong việc giúp người dân giảm nghèo và thoát nghèo. Nguyên nhân chính là do các hình thức hỗ trợ sản xuất như hỗ trợ về giống, thức ăn gia súc, thuốc BVTV, vật tư, công cụ, dụng cụ sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân tham gia các dự án giảm nghèo. Ngoài ra, còn rất nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện như công tác chỉ đạo điều hành còn lúng túng, chậm và chồng chéo. Tốc độ giải ngân vốn cho các dự án giảm nghèo rất chậm, và thời gian hỗ trợ cho mỗi dự án thường ngắn. Việc đánh giá hiệu quả của các chương trình giảm nghèo gặp nhiều khó khăn do hiện không có cơ sở số liệu nào về các hộ tham gia các dự án giảm nghèo khác nhau theo thời gian. Do đó rất khó để đưa ra đánh giá định lượng là các hộ được hỗ trợ có thoát nghèo được hay không? Và hiệu quả mà các hỗ trợ trực tiếp này đem lại. Do không có cơ sở số liệu nên cũng rất khó so sánh hiệu quả giảm nghèo giữa các chương trình giảm nghèo để từ đó rút ra kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau. 57 Cách chọn mẫu hiện nay rất trùng lặp có thể làm giảm số lượng các hộ nghèo tham gia các dự án giảm nghèo. Ví dụ như 1 hộ có thể đồng thời thuộc diện hỗ trợ của nhiều chương trình khác nhau. Khi triển khai trên thực tế sẽ dễ dẫn đến nhầm lẫn, dễ dẫn đến tranh chấp, cạnh tranh để xem hộ nào thuộc diện hỗ trợ của chương trình nào. Qua điều tra cho thấy, người dân chưa hài lòng với cách chọn các hộ nghèo vào danh sách được nhận hỗ trợ từ các chương trình giảm nghèo. Lượng vốn cần cho các chương trình giảm nghèo cần phải được nâng lên nhiều lần so với hiện nay. Hiện không có con số cụ thể là cần bao nhiêu thì đủ để giảm nghèo bền vững. Phần lớn hộ được hưởng hỗ trợ cho biết lượng vốn họ nhận được trong các năm 2016 và 2017 là rất thấp so với nhu cầu thực sự của họ. Theo 1 số liệu đáng chú ý, nguồn viện trợ nước ngoài của các nước giàu cho các nước nghèo chiếm khoảng 0,54% GDP của các nước giàu. Trong khi đó, số vốn hỗ trợ trực tiếp của Việt Nam dành cho người nghèo hiện nay là khoảng 50 nghìn tỷ đồng trong 5 năm, tức là chỉ bằng 0,04% GDP năm 2018 của Việt Nam, tức là thấp hơn khoảng 12 lần mức mà các nước giàu sử dụng để hỗ trợ các nước nghèo. Bên cạnh đó, theo người dân, vốn giải ngân cho các chương trình giảm nghèo thường rất chậm. Các Báo cáo về giảm nghèo trên thế giới khuyến cáo các nước nên đầu tư nhiều vào nghiên cứu, đào tạo, truyền thông và giao thông nông thôn. Cuối cùng, các chính sách hỗ trợ người nghèo hiện nay của Việt Nam cần được xem xét cẩn thận hơn vì Việt Nam đã và 58 đang hội nhập sâu rộng với thế giới. Theo khuyến cáo của OECD, các chính sách hỗ trợ người sản xuất cần đảm bảo công bằng, không bóp méo thị trường. Các hỗ trợ hiện nay ở Việt Nam thường cung cấp miễn phí đầu vào sản xuất như con giống, phân bón, tức là tạo lợi thế cạnh tranh cho những người này khi tham gia thị trường và gián tiếp ảnh hưởng đến người sản xuất khác (những người không được nhận hỗ trợ). Theo OECD, các hỗ trợ trong tương lai nên hướng tới nâng cao năng lực của người nghèo như đào tạo nghề, tạo cơ hội nhiều hơn để họ tham gia thị trường sản xuất và thị trường lao động. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Business, Những kết quả xoá đói giảm nghèo trên thế giới và bài học kinh nghiệm, the-gioi-va-bai-hoc-kinh-nghiem/cbe071d4. 2. CIS (Trung tâm Tin học và Thống kê), 2019, Rà soát và đánh giá chính sách nông nghiệp Việt Nam, 2015-2019. 3. Edward Anderson, Paolo de Renzio and Stephanie Levy, 2006, The Role of Public Investment in Poverty Reduction: Theories, Evidence and Methods, Working paper, Overseas Development Institute. 4. Obert Pimhidzai (2018), Bước tiến mới giảm nghèo và thịnh vượng chung của Việt Nam, báo cáo cập nhật về nghèo đói và thịnh vượng chung ở Việt Nam, Ngân hàng thế giới. 5. GFCD (Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển Cộng đồng) (2018), Kinh nghiệm giảm nghèo ở một số quốc gia khu vực Đông Nam Á, o-mot-so-quoc-gia-khu-vuc-dong-nam-a.html. 6. Hoang Xuan Diem and Tran Van Hoang, 2018, WIDER Multidimensional poverty in Viet Nam Evidence from a rural household survey, Working Paper 2018/127, The United Nations University World Institute for Development Economics Research. 7. MOLISA (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), 2018, Báo cáo nghèo đa chiều Việt Nam. 60 8. Ngân hàng Thế giới, 2018, Decline of Global Extreme Poverty Continues but Has Slowed: World Bank, https://www.worldbank.org/en/news/press- release/2018/09/19/decline-of-global-extreme-poverty- continues-but-has-slowed-world-bank. 9. Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ngày 01 tháng 11 năm 2000. 10. Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. 11. Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn nghèo đa chiều. 12. Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. 13. Ted K. Bradshaw, 2005, Theories of poverty and anti-poverty in community development, working paper, Rural Poverty Research Center. 14. Ngân hàng Thế giới, 2018, Báo cáo cập nhật Bước tiến mới giảm nghèo và thịnh vượng chung Việt Nam (Climbing ladder Vietnam poverty and shared prosperity update report). 15. Ngân hàng Thế giới, 2019, PovcalNet (công cụ phân tích trực tuyến),

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfld_06_2019_3606_2207582.pdf
Tài liệu liên quan