Tài liệu Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 25/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018
(1) Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; e-mail: danghoadth@gmail.com
Số 23 - Tháng 9 năm 2018
THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA
TỘC NGƯỜI TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY*
Đặng Thị Hoa(1)
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa
tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi
lễ chu kỳ đời người, Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay
cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa
các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa
tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.
...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 25/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018
(1) Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; e-mail: danghoadth@gmail.com
Số 23 - Tháng 9 năm 2018
THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA
TỘC NGƯỜI TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY*
Đặng Thị Hoa(1)
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa
tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi
lễ chu kỳ đời người, Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay
cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa
các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa
tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.
Từ khóa: Văn hóa tộc người; Văn hóa dân tộc thiểu số; Thành tựu nghiên cứu từ đổi mới đến nay;
Thành tựu nghiên cứu; Đời sống văn hóa tộc người.
I. Khái quát thành tựu nghiên cứu về văn hóa
tộc người từ 1986 đến nay
Khái niệm văn hóa và văn hóa tộc người luôn là
một trong những khái niệm gây ra nhiều tranh cãi
và có nội hàm rộng. Do vậy, trong phần hệ thống
hóa này, chúng tôi chỉ giới hạn những thành tố văn
hóa cơ bản của văn hóa tộc người theo như phân
loại đã có hiện nay như: Văn hóa vật chất (bao gồm
nhà ở, trang phục, ẩm thực) và văn hóa tinh thần
(phong tục tập quán, cưới xin, tang ma, nghệ thuật
dân gian, lễ hội...)
Nghiên cứu về văn hóa là một chủ đề luôn được
các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là đối với các
dân tộc thiểu số. Khó có thể thống kê hết tất cả các
công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người kể từ
năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình tìm
đọc tài liệu, chúng tôi có thể hệ thống lại như sau:
1.Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về
văn hóa tộc người
Một số công trình đã tập trung giới thiệu, phân
tích những vấn đề lý luận trong nghiên cứu văn hóa.
Đáng chú ý là một số công trình đã đi sâu đề cập
đến cơ sở lý luận trong nghiên cứu về văn hóa, vai
trò của văn hóa trong phát triển như: “Triết lý phát
triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu” của Phạm
Xuân Nam, 2005. Trong các công trình nghiên cứu,
nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, bản sắc văn hóa
thường là bất biến trong quá trình phát triển của
lịch sử. Nhưng cái bất biến ấy lại có những thay đổi
trong các môi trường sống, tiếp xúc văn hóa hay do
tác động của các yếu tố bên ngoài. Do vậy, bảo vệ
văn hóa nhằm mục đích phát triển đất nước luôn đặt
ra những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước (Phan
Ngọc, 2006). Vấn đề quản lý văn hóa và phát triển
văn hóa cũng được phân tích, đề cập qua các văn
kiện của Đảng, các chính sách quản lý nhà nước về
văn hóa, đặc biệt là các quan điểm quản lý lễ hội,
quản lý các di tích văn hóa và các quan điểm về di
sản văn hóa của các tộc người thiểu số.
Một số nhà nghiên cứu cũng đặt ra câu hỏi, quản
lý nhà nước về văn hóa truyền thống thì quản lý cái
gì và quản lý như thế nào? Quản lý văn hóa phải đặt
trong sự phát triển xã hội, văn hóa phải là động lực
phát triển xã hội, do vậy quản lý văn hóa là quản
lý phát triển (Hoàng Sơn Cường, 1995). Mục đích
của quản lý văn hóa truyền thống là phải làm cho
nó phát triển theo định hướng lý tưởng chính trị
và thẩm mỹ của xã hội, phải phát huy được tiềm
năng sáng tạo những giá trị văn hóa mới theo những
chuẩn mực đúng đắn (Đình Quang, 1996). Một số
công trình mang tính định hướng của văn hóa truyền
thống trong quá trình phát triển như “Văn hóa bản
địa Việt Nam- khuynh hướng phát triển hiện đại”
(Nguyễn Thanh Tuấn, 2012); “Nền văn hóa mới của
Việt Nam” (Phan Ngọc, 2013) nêu lên những vấn
đề nhận thức và quan điểm của Hồ Chí Minh trong
công cuộc xây dựng nền văn hóa mới; “Văn hóa
Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội
nhập và phát triển” (Đỗ Huy, 2013),
Mạc Đường (2005), “Vấn đề dân tộc thiểu số ở
nước ta trong tầm nhìn đến năm 2020”, Tạp chí Dân
tộc học, số 2, đã đưa ra những nhận định, đánh giá
về vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay với
những đặc điểm, thực trạng, tồn tại, đồng thời dự
báo xu hướng phát triển đến năm 2020, khi nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đặc biệt,
tác giả cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ vững
quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trong xu
thế phát triển chung của cả nước. Phan Đăng Nhật
(2009), “Văn hoá các dân tộc thiểu số - Những giá
trị đặc sắc”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, đã
giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc
thiểu số Việt Nam, sự chuyển biến từ văn học truyền
miệng đến văn học thành văn; Một số thành tố văn
hoá dân gian qua lễ hội; luật tục, ngữ nghĩa, ứng xử
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
107Số 23 - Tháng 9 năm 2018
văn hoá, đời sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu
số Việt Nam. Năm 2011, tác giả Hoàng Nam xuất
bản cuốn sách “Tổng quan văn hóa truyền thống các
dân tộc Việt Nam”. Cuốn sách đã đề cập đến các
vấn đề dân số, lịch sử cư trú, kinh tế truyền thống,
văn hóa truyền thống của 53 dân tộc ở Việt Nam.
Năm 2012, Hoàng Nam đã xuất bản cuốn sách “Đại
cương nhân học văn hóa Việt Nam”, trong đó tác
giả nghiên cứu văn hóa truyền thống các dân tộc các
nhóm ngôn ngữ ở nước ta.
2. Nhóm các công trình nghiên cứu chung, bản
sắc văn hóa tộc người Việt Nam.
Có thể điểm qua một số công trình như: “Văn
hóa các dân tộc Tây Bắc – thực trạng và những vấn
đề đặt ra” của Trần Văn Bính; “Bảo tồn và phát
huy văn hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc
thiểu số” của Nguyễn Khoa Điềm; “Đặc trưng văn
hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam” của Hoàng
Nam; “Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Các dân
tộc ít người ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn;....
Trong đó, một số công trình nghiên cứu mang tính
bản lề về văn hóa như “Văn hóa Việt Nam đa tộc
người” của Đặng Nghiêm Vạn, giới thiệu những nét
văn hóa kinh tế, văn hóa vật chất, văn hóa tổ chức
xã hội, văn hóa tinh thần của các cư dân sinh sống
trên đất nước theo phương pháp dân tộc học; gồm
các phần: Văn hóa và văn hóa dân tộc, tộc người;
Văn hóa kinh tế; Văn hóa vật chất; Tổ chức xã hội;
Văn hóa tinh thần. Cuốn “Các dân tộc ít người ở
Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm Vạn đã giới thiệu
những nét khái quát nhất về những lịch sử tộc người
dân tộc ở Việt Nam. Tìm hiểu một cách toàn diện về
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, kinh tế, xã hội,
tôn giáo tín ngưỡng, hôn nhân gia đình.... của các
dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái, Chăm,
Khmer. “Các tộc người ở Việt Nam” của Bùi Xuân
Đính, sau khi khái quát lại những vấn đề chung về
dân tộc học; từ đối tượng, nhiệm vụ, lịch sử ra đời đến
khái quát các tộc người ở Việt Nam. Cuốn sách dành
ra từng phần lớn đề cập đến một số tộc người như tộc
người Việt, các tộc người vùng Đông Bắc, các tộc
người vùng Tây Bắc và miền núi Thanh – Nghệ, các
tộc người vùng duyên hải Trung và Nam trung Bộ,
các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, các
tộc người vùng Nam Bộ. Trong mỗi phần đều dành ra
một dung lượng nhất định trình bày văn hóa đặc trưng
nhất của một số tộc người, trong đó có người Thái,
Chăm, Khmer... từ văn hóa vật chất, mối quan hệ xã
hội, văn hóa tâm linh, biến đổi văn hóa tín ngưỡng.
Phạm Quang Hoan (chủ biên, 2012), “Văn hóa các
tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy
điện Sơn La”, đã phác họa khá chi tiết và cụ thể các
đặc điểm văn hóa của các tộc người sinh sống ở khu
vực Tây Bắc, đặc biệt là ở khu vực tái định cư của
người Thái, Lự, Kinh, Hoa, Kháng, La Ha, Khơ mú,
Mảng, Dao, Mông trên các chiều cạnh như: sinh kế,
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh
và tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức địa phương, ngôn
ngữ, chữ viết và giáo dục.
Nghiên cứu về các lễ hội, phải kể đến một số
công trình mang tính cơ bản về các lễ hội tiêu biểu
của các tộc người thiểu số ở Việt Nam của Lê Trung
Vũ (2005); “Lễ hội dân gian Ê Đê” (1996), Tác
giả Lê Hồng Lý đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu về lễ hội của một số tộc người: ‘‘Lễ hội ở một
vùng biên giới” đã làm nổi bật một số lễ hội tiêu biểu
của các tộc người Tày, Nùng ở Lạng Sơn (1993),
“Lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” (1997), “Hội
Lồng Tồng ở Lào Cai” (1998), “Văn hóa dân gian
ở người Mạ, Bảo Lộc, Lâm Đồng” (2002), “Tìm
hiểu lễ hội dân gian của người Mường ở Hòa Bình”
(2004); Năm 2012, Đặng Thị Oanh, cùng với nhiều
tác giả xuất bản cuốn sách “Lễ hội dân gian các dân
tộc thiểu số tỉnh Điện Biên” đã giới thiệu một số
lễ hội và nghi lễ dân gian tiêu biểu của các dân tộc
thiểu số tỉnh Điện Biên, trong đó có lễ hội của tộc
người Thái Đen (Xên bản, cúng bản, Hạn khuống,
Cúng cơm mới).
Về quản lý lễ hội, Lê Hữu Tầng (1993), cho rẳng
vai trò của hội lễ truyền thống trong đời sống xã hội
hiện đại hết sức quan trọng và cần có những phương
thức quản lý phù hợp. Trong cuốn “Lễ hội truyền
thống trong đời sống xã hội hiện đại”; Nguyễn Văn
Mạnh (2002), “Giá trị của lễ hội truyền thống trong
xã hội hiện đại”, Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội
và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội
hiện nay”; Tác giả Lê Hồng Lý cũng đã có một số
công trình đi sâu về lĩnh vực quản lý lễ hội như:
“Thử nhìn nhận những hoạt động lễ hội trong thời
gian qua” (2005); “Khai thác các giá trị văn hóa và
lễ hội truyền thống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long phục vụ phát triển du lịch” (2006); “Sự tác
động của kinh tế thị trường vào lễ hội, tín ngưỡng”
(2008); cũng đã nêu rõ tầm quan trọng của công
tác quản lý lễ hội trong việc bảo tồn và phát huy các
giá trị truyền thống của các tộc người.
Trong giai đoạn này cũng đã có một số công
trình chuyên khảo mô tả toàn diện về tộc người,
trong đó ít nhiều có đề cập đến đặc điểm gia đình
như: “Người Dao ở Việt Nam” của nhóm tác giả Bế
Viết Đẳng và cộng sự, 1971; “Những nhóm dân tộc
thuộc ngữ hệ Nam - Á ở Tây Bắc Việt Nam” của
nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, 1972;
“Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” của Cầm Trọng,
1978. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của
Viện Dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam
(các tỉnh phía Bắc)” xuất bản năm 1978 và “Các
dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”
xuất bản năm 1984. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu
về gia đình được đề cập trong các cuốn sách này
rất sơ lược, bước đầu nhận diện một số đặc điểm
cơ bản của gia đình trong văn hoá tộc người. Các
tác giả bước đầu tìm hiểu về hình thái và các mối
quan hệ trong gia đình đặt trong bối cảnh chung là
một đơn vị xã hội tộc người. Một số nghi lễ gia đình
cũng được đề cập, chủ yếu là các nghi lễ hôn nhân,
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
108 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
tang ma và tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình.
3. Nhóm các công trình nghiên cứu về hôn nhân,
gia đình
Từ năm 1985, chủ đề nghiên cứu về gia đình các
dân tộc thiểu số được nhiều nhà nghiên cứu khoa
học xã hội Việt Nam quan tâm. Trong các thập niên
80, 90 của thế kỷ XX, khá nhiều nhà nghiên cứu
Dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu gia
đình các dân tộc thiểu số ở nhiều nội dung của gia
đình như: cấu trúc, chức năng và đặc trưng văn hoá,
nghi lễ trong gia đình, có thể khái quát lại như sau:
- Các nghiên cứu phân loại hình thái gia đình:
một số tác giả đã trình bày quan điểm của mình
trong nhận định về các hình thái gia đình của các
tộc người thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, quan điểm
về các loại hình gia đình với các hình thái gia đình
lớn phụ hệ, gia đình lớn mẫu hệ, gia đình song hệ
hay quá trình tan rã của các gia đình lớn được phân
tích, đánh giá một cách khá sâu sắc1..
- Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm
hiểu về đặc điểm gia đình một số dân tộc thiểu số ở
Việt Nam. Đặc trưng cấu trúc gia đình các tộc người
được phản ánh qua các chỉ số về số cặp vợ chồng,
số thế hệ, số nhân khẩu, số con cái và các mối quan
hệ trong gia đình là thân tộc hay thích tộc. Mô hình
sống chung nhiều thế hệ (3 đến 4 thế hệ; nhiều cặp
vợ chồng cùng chung sống trong một mái nhà của
gia đình các dân tộc thiếu số đang dần thay đổi sang
gia đình mở rộng chỉ còn từ 2 đến 3 thế hệ. Phân
tích các yếu tố tác động tới những đặc điểm cấu
trúc của gia đình, một số nghiên cứu cho rằng số
con trong gia đình các dân tộc thiểu số nhiều hơn
gia đình người Việt là do chế độ hôn nhân của các
dân tộc thiểu số còn chịu ảnh hưởng nặng nề của
nhận thức, quan niệm, đặc trưng văn hóa tộc người,
phong tục tập quán,...2.
Từ năm 2000 trở lại đây, vấn đề gia đình được
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội quan tâm và
được triển khai với nhiều đề tài, chương trình với
quy mô lớn cấp quốc gia. Tuy nhiên, chủ đề nghiên
cứu về gia đình các dân tộc thiểu số thì lại được
nghiên cứu khá khiêm tốn trong các bài viết nhỏ lẻ
của các đề tài luận văn, luận án hay các bài viết tạp
chí chuyên ngành.
Nội dung nghiên cứu về gia đình dân tộc thiểu
số trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là những phần
viết mô tả về đặc điểm gia đình của các cuốn sách
chuyên khảo về các tộc người như dân tộc Lô lô,
dân tộc Sán Chay, dân tộc Pà Thẻn,. Tuy nhiên,
một số bài viết, công trình nghiên cứu cũng được
mở rộng và đi sâu vào những nội dung cụ thể. Một
số vấn đề nổi lên về gia đình được các nhà nghiên
cứu đặc biệt quan tâm như: Đặc điểm gia đình các
1. Phạm Quang Hoan, 1985; 1988; 1990; Đặng Nghiêm Vạn, 1991, Vũ Đình
Lợi, 1994
2. Phạm Quang Hoan, 1990, 1992; Nguyễn Thị Hoà, 1990; Đỗ Thúy Bình,
1991, 1992; Sần Cháng, 1998; Đào Trang Thái, 1997....
dân tộc thiểu số, mối quan hệ trong gia đình, phân
công lao động, địa vị của phụ nữ, nam giới trong
gia đình, chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, chăm
sóc sức khoẻ, phong tục tập quán, kinh tế hộ gia
đình 3,
Đặc biệt, khá nhiều công trình nghiên cứu trong
những năm gần đây tập trung về lĩnh vực hôn nhân
và gia đình các dân tộc thiểu số, trong đó nổi lên các
vấn đề liên quan đến tập quán trong hôn nhân và gia
đình như: tảo hôn, nghi lễ hôn nhân, nghi lễ tang
ma, sinh đẻ, chăm sóc và nuôi dạy con cái, quan hệ
thân tộc, thích tộc,...4
Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chủ
đề nghiên cứu về gia đình các dân tộc thiểu số cũng
được các học viên cao học và nghiên cứu sinh ở các
ngành Dân tộc học, Xã hội học, Văn hoá học đặc
biệt quan tâm. Đã có khá nhiều luận văn, luận án lựa
chọn chủ đề nghiên cứu về gia đình của các dân tộc
thiểu số ở nhiều cơ sở đào tạo tại các viện nghiên
cứu, học viện, trường đại học trong cả nước. Theo
số liệu thống kê, có tới hàng chục luận án tiến sĩ và
luận văn thạc sĩ liên quan đến chủ đề về gia đình
dân tộc thiểu số như biến đổi về quy mô gia đình,
các nghi lễ trong gia đình, chăm sóc sức khoẻ, sinh
kế của hộ gia đình,...
Điểm lại các nghiên cứu về gia đình các dân
tộc thiểu số cho thấy, các công trình nghiên cứu đã
được thực hiện trong thời gian khá dài nhưng đều là
những công trình nghiên cứu nhỏ, lẻ mô tả ở một số
ít tộc người. Cho đến nay vẫnchưa có những nghiên
cứu mang lại những hiểu biết tổng thể và toàn diện
về gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc
biệt, vẫn thiếu vắng các công trình nghiên cứu
mang tính lý luận về cách phân loại hình thái gia
đình, đặc điểm văn hoá và những biến đổi gia đình
của các tộc người thiểu số trong bối cảnh phát triển
và hội nhập hiện nay.
4. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa của
tộc người cụ thể
Có thể nói, đây là nhóm các công trình nghiên
cứu về văn hóa tộc người đồ sộ và rất khó thống kê
được hiện có bao nhiêu công trình nghiên cứu về
văn hóa của tất cả các dân tộc cho đến thời điểm
hiện nay. Theo bảng số liệu thống kê sơ bộ, có
1374 công trình được hệ thống hóa, trong đó, các
công trình sách là 674 cuốn (chiếm 49%); 125 công
trình nghiên cứu từ các đề tài cấp cơ sở, cấp Bộ
và cấp Nhà nước (9%); 575 các bài báo, luận văn
của các nhà nghiên cứu được đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian,
Văn học nghệ thuật, Đông Nam Á,... Trong số các
3. La Công Ý, 1992; Vũ Đình Lợi, 1996; Nguyễn Văn Huy, 2005 a, b; Vi Văn
An, 2006; Trần Văn Hà và Cs, 2008; Nguyễn Thẩm Thu Hà, 2009; Bế Văn
Hậu, 2014, Trần Văn Hà và Cs, 2014, Đặng Thị Hoa, 2014
4. Nguyễn Doãn Hương, 1997; Đỗ Thúy Bình, 2004; Nguyễn Ngọc Thanh,
2005; Đỗ Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa, 2005; Nguyễn Văn Chính, 2006; Vi Văn
An, 2006; Nguyễn Thị Song Hà, 2010; Phạm Thị Kim Oanh, 2010; Hoàng
Phương Mai, 2011; Nguyễn Thị Minh Phương, 2011, Lê Hải Đăng, 2011,
Nguyễn Văn Thắng, 2014...
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
109Số 23 - Tháng 9 năm 2018
công trình nghiên cứu về văn hóa, đáng chú ý nhất
là các nghiên cứu về phong tục tập quán của các tộc
người thiểu số được quan tâm nhiều hơn cả. Tiếp
đến là mảng văn học nghệ thuật các tộc người với
các nghiên cứu sưu tầm về truyện cổ dân gian, sự
tích, ... và các nghiên cứu về ngôn ngữ tộc người.
Các nghiên cứu về văn hóa vật chất khá khiêm tốn,
chỉ tập trung ở một số tộc người có dân số đông như
Tày, Nùng, Dao, Thái, Mông. Vẫn còn tới hơn 20
dân tộc chưa có công trình nghiên cứu riêng biệt
nào về văn hóa vật chất như ẩm thực, trang phục
và nhà ở. Hầu hết, các nghiên cứu tập trung nhiều
hơn về văn hóa tinh thần, bao gồm các mảng vấn đề
như phong tục tập quán, nghi lễ chu kỳ đời người,
lễ hội, tang ma, hôn nhân và gia đình.... Đặc biệt, có
32 công trình nghiên cứu về luật tục và các quy ước
làng bản, dòng họ, gia đình của các tộc người trong
quản lý xã hội và duy trì, bảo tồn văn hóa.
5. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa
dưới góc độ ngôn ngữ học
Có khá nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ
các tộc người thiểu số, tuy nhiên dưới góc độ văn
hóa, một số công trình khá nổi bật trình bày cơ sở lí
luận của việc bảo tồn và phát triển văn hoá, ngôn ngữ
một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc. Đánh giá thực
trạng văn hoá, ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số
vùng Việt Bắc trong giai đoạn hiện nay và công tác
bảo tồn, phát triển ở các địa phương; phương hướng
và điều kiện bảo tồn, phát triển văn hoá, ngôn ngữ
các dân tộc thiểu số5. Có công trình đã đánh giá
thực trạng sử dụng ngôn ngữ tộc người trong mối
tương quan với ngôn ngữ phổ thông ở môi trường
gia đình và cộng đồng tại 8 điểm nghiên cứu của
5 dân tộc ở 2 tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên, trên
cơ sở đó, đã xây dựng những chỉ báo quan trọng
về sự biến đổi và mức độ bền vững của ngôn ngữ
tộc người. Cũng qua bài viết này, tác giả đi tới kết
luận: để phát triển bền vững văn hóa tộc người, một
trong những vấn đề rất quan trọng chính là việc giữ
gìn ngôn ngữ tộc người6. Một số công trình, đã nêu
đặc điểm chung của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số
Việt Nam. Danh sách các ngôn ngữ dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện nay. Quan hệ họ hàng, chữ viết,
giáo dục song ngữ trong các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện nay7. Hoặc đề cập đến những vấn đề lý
luận về giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc miền núi
Việt Nam. Thực trạng giáo dục ngôn ngữ vùng dân
tộc miền núi ở 3 tỉnh Nghệ An, Sơn La và Tuyên
Quang. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
ngôn ngữ tại 3 vùng dân tộc thiểu số này, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh tới yêu cầu đảm bảo quyền sử
dụng ngôn ngữ bản địa của các dân tộc này song
5. Nguyễn Văn Lộc, (chủ biên, 2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn
ngữ, văn hoá một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc
6. Vương Xuân Tình, (2010): Biến đổi văn hóa của các tộc người vùng Đông
Bắc từ góc nhìn sử dụng ngôn ngữ, Tạp chí Dân tộc học, số 5-2010
7. Trần Trí Dõi, (2000): Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số
Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc, Hà Nội
song với việc giáo dục ngôn ngữ phổ thông8. Năm
2011, với nghiên cứu “Những vấn đề chính sách
ngôn ngữ và giáo dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu
số Việt Nam” (Language policy and education in
ethnic minorities region of Vietnam), đã giới thiệu
một số văn bản thể hiện chính sách ngôn ngữ, giáo
dục ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam và
những công trình nghiên cứu về vấn đề này.
6. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa
vật chất:
Một số công trình nghiên cứu có tính chuyên
sâu về các thành tố văn hóa vật chất của tộc người.
Chẳng hạn, các nghiên cứu về nhà ở và trang phục
của Nguyễn Khắc Tụng về người Dao và một số tộc
người ở miền núi phía Bắc như:
“Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam” (1994
và 1996), “Nhà ở của người Dao xưa và nay”
(1996). Một số công trình xuất bản gần đây cũng
có đề cập đến nhà ở của người Dao, chẳng hạn như
các công trình như “Phong tục tập quán của người
Dao Thanh Hóa” của Đào Thị Vinh (2001), “Người
Dao ở Lạng Sơn” của Lý Dương Liễu (2004). Tác
phẩm “Nhà sàn truyền thống của người Tày ở vùng
Đông Bắc Việt Nam” của tác giả Ma Ngọc Dung. Tư
liệu điền dã năm 1990 của tác giả Hoàng Minh Lợi
về “Nhà cửa và trang phục của người Tày và Nùng
ở Cao Bằng, Lạng Sơn” hay Luận án tiến sỹ Văn
hóa học của tác giả Lê Thị Thúy Hoàn về “Nhà sàn
truyền thống của cư dân Tày ở Chiêm Hóa (Tuyên
Quang)” là những công trình nghiên cứu thể hiện rõ
sự tích ứng của các tộc người thiểu số với môi trường
tự nhiên xung quanh thông qua ngôi nhà truyền
thống. Công trình nghiên cứu “Ngôi nhà của người
Tày trong khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam” của tác giả La Công Ý (2010), lại
đưa ra vấn đề bảo tồn ngôi nhà truyền thống như thế
nào. Nhà ở của người Tày còn được đề cập đến trong
một số đề tài nghiên cứu khoa học như đề tài: “Văn
hóa truyền thống một số dân tộc tỉnh Tuyên Quang”,
do Sở Văn hóa Thông tin Tuyên Quang thực hiện
năm 2001. Trong đề tài này, nhà ở của người Tày
được đề cập đến một cách khái quát với hình dáng,
kiến trúc, các công trình phụ trợ, khuôn viên và cách
bố trí nội thất trong ngôi nhà. Ngoài ra, nhà ở của
các dân tộc thiểu số nói chung và của người Tày nói
riêng còn được đề cập đến trong nhiều công trình,
nhiều bài nghiên cứu công bố trên các báo, tạp chí
như: “Một số vấn đề nghiên cứu về nhà ở của các
dân tộc (đặc trưng và mối quan hệ văn hóa)”, của
tác giả Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn đăng trên tạp
chí Dân tộc học; “Vài nét về sự thay đổi cấu trúc nhà
sàn người Tày ở Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang” của
tác giả Lê Thị Thúy Hoàn đăng trên tạp chí Văn hóa
dân gian. Cũng tìm hiểu về văn hóa vật chất, Đinh
Thị Thơm (2012) với bài viết “Đôi nét về kiến trúc
8. Năm 2004: Thực trạng giáo dục ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh
phía Bắc Việt Nam: Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
110 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
nhà ở của người Pà Thẻn xã Tân Trịnh, huyện Bắc
Quang, tỉnh Hà Giang” đã miêu tả các loại hình nhà
ở, kết cấu kỹ thuật, bố trí mặt bằng sinh hoạt, quá
trình dựng nhà cũng như một số tập tục liên quan
đến nhà ở.
Về trang phục, các nghiên cứu về trang phục
khiêm tốn hơn so với nhà ở. Một số công trình đáng
chú ý như: “Nghệ thuật trang phục Thái” của Lê Ngọc
Thắng giới thiệu khá chi tiết về các họa tiết hoa văn
mang tính nghệ thuật trên các trang phục của phụ nữ
dân tộc Thái; “Trang phục các tộc người nhóm ngôn
ngữ Môn – Khmer” của Đỗ Thị Hòa giới thiệu trang
phục 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer ở
cả ba vùng miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên,
đồng bằng Nam bộ bao gồm cả trang phục người già,
trẻ em, nam, nữ; trang phục thường ngày và lễ hội;
cuốn sách đã có những đánh giá những giá trị lịch sử,
văn hóa trong trang phục các tộc người nhóm ngôn
ngữ Môn – Khmer. Trong cuốn “Trang phục và nghệ
thuật trang trí trên trang phục của người Dao đỏ ở
Lào Cai” của Phan Thị Phượng với những tìm hiểu
về trang phục và nghệ thuật trên trang phục của
người Dao đỏ ở Lào Cai; với bốn nội dung chính:
khái quát về người Dao đỏ ở tỉnh Lào Cai; nguyên
vật liệu của trang phục và các kỹ thuật khâu; các
dạng trang phục của người Dao đỏ; nghệ thuật trang
trí trên trang phục.
7. Nhóm nghiên cứu về văn hóa tinh thần
Trước hết, chúng tôi cũng phải nói rằng, khó có
thể đánh giá được một cách đầy đủ về các nghiên
cứu văn hóa tinh thần của các tộc người thiểu số,
bởi lẽ các nghiên cứu này khá đa dạng, ở nhiều lĩnh
vực trong đời sống tinh thần của 53 dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rõ rằng, đời sống tinh
thần của các tộc người thiểu số được thể hiện trong
các công trình nghiên cứu thực sự là phong phú và
đa dạng. Hầu hết, các nghiên cứu đã mô tả, miêu
thuật lại đời sống tinh thần của từng tộc người thiểu
số từ các thói quen trong sinh hoạt hàng ngày đến
nghi lễ trong chu kỳ đời người, tang ma, cưới xin
của phong tục tập quán, đến lễ hội, luật tục mang
những nét đặc sắc của văn hóa tộc người. Có thể
nói, đây là kho báu về văn hóa của các tộc người
thiểu số cần bảo lưu, gìn giữ thông qua các công
trình nghiên cứu để có thể lưu lại cho đời sau.
II. Những vấn đề cơ bản, cấp bách về văn hóa
tộc người qua tổng quan nghiên cứu
Một trong những quan điểm được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến vấn đề cơ bản, cấp bách về
văn hóa tộc người, đó là cần phải bảo tồn sự đa dạng
văn hóa tộc người trong bối cảnh phát triển, đô thị
hóa và toàn cầu hóa hiện nay.
Với đặc thù của một quốc gia có đa dạng thành
phần tộc người, đa dạng về văn hóa thì việc bảo tồn
văn hóa đang trở thành một điều kiện để phát triển,
là động lực cho phát triển. Văn hóa Việt Nam có sự
thống nhất trong đa dạng, đó là bản sắc văn hóa của
một dân tộc đa văn hóa, đa sắc màu. Nếu coi thống
nhất văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống
nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa
dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa
dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương 9.
Trên thực tế, bảo tồn được văn hóa của các tộc
người thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít
thì mới có cơ hội duy trì và phát triển tộc người đó
trong quá trình phát triển hướng tới sự bền vững.
Quá trình đồng hóa văn hóa, thích ứng văn hóa
trong phát triển là những khái niệm được nhiều nhà
nghiên cứu đưa ra và khẳng định, cần có sự đa dạng
văn hóa, chống lại quá trình đồng hóa văn hóa để
bảo tồn được những khác biệt văn hóa của các dân
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa
ngày càng quan trọng trong một thế giới đang bị
chia rẽ bởi những xung đột sắc tộc, xung đột tín
ngưỡng, tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa10.
Biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa là quá
trình tất yếu khách quan của các cộng đồng tộc
người. Sự biến đổi văn hóa cùng với những biến đổi
về kinh tế - xã hội ở các tộc người thiểu số đang đặt
ra những vấn đề cấp bách hiện nay, đó là trong quá
trình biến đổi và thích nghi văn hóa, văn hóa của
tộc người thiểu số có dân số ít thường tiếp nhận từ
văn hóa của một số tộc người khác có dân số đông
hơn trong vùng như Mông, Dao, Tày, Nùng, Việt,...
Điểm đáng chú ý là, mức độ và tốc độ biến đổi diễn
ra không tương đồng giữa các thành tố văn hóa và
giữa các nhóm tộc người có dân số ít. Xu hướng
tiếp nhận, ảnh hưởng văn hóa giữa người có dân
số ít với các tộc người láng giềng biểu hiện khá rõ
trong hoạt động kinh tế, văn hóa vật chất; Còn ở
lĩnh vực văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội thì sự
biến đổi diễn ra chậm hơn nhiều. Dù biến đổi ở các
dạng thức, khác nhau, xu hướng cố kết và khẳng
định bản lĩnh, bản sắc văn hóa tộc người vẫn là chủ
đạo. Đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển
của dân tộc có dân số ít trong điều kiện mới. Tuy
nhiên, xu hướng đồng hóa văn hóa của một số tộc
người có dân số đông trong vùng cũng thể hiện rất
rõ nét và rất cần có các nghiên cứu cụ thể để đánh
giá một cách khoa học và khách quan11.
Biến đổi văn hóa còn chịu ảnh hưởng của quá
trình biến đổi kinh tế - xã hội trong địa bàn vùng dân
tộc thiểu số. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống
của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Trung
Bộ đang phải chịu tác động mạnh mẽ từ những biến
đổi của môi trường sống (rừng, nguồn nước, động
thực vật...) mà cụ thể ở đây là quá trình định cư của
vùng ngập lòng hồ của các công trình thủy điện như
công trình thủy điện Sơn La, Lai Châu,12
Một vấn đề được cho là hết sức quan trọng và cấp
9. Ngô Đức Thịnh, 2013; Phan Ngọc, 2014
10. Vương Xuân Tình, 2009, 2012;Nguyễn Thị Đức, 2015
11. Phạm Quang Hoan, 2003; Vương Xuân Tình, 2014; Hoàng Sơn, 2008;
Đặng Thị Hoa, 2014, 2017
12. Hoàng Sơn, 2006, Phạm Quang Hoan, 2014, Đặng Thị Hoa, 2012
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
111Số 23 - Tháng 9 năm 2018
bách hiện nay là, làm thế nào để quản lý được văn
hóa và biến đổi văn hóa. Nhiều công trình nghiên
cứu về quản lý văn hóa và biến đổi văn hóa đã chỉ
ra rằng, thật khó có thể cấm được các hoạt động văn
hóa và quản lý văn hóa không thể chỉ dùng theo
cách quản lý hành chính thông thường.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng
đồng vốn là quy luật chung của sự phát triển văn hóa
nhân loại. Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực
sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa
và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa
của mỗi cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản
sắc, sắc thái văn hóa của mình13. Việc giao lưu văn
hóa diễn ra rất nhanh và mạnh. Cùng với sự bùng nổ
thông tin nhờ công nghệ hiện đại, sản phẩm văn hóa
từ khắp nơi cũng tràn đến núi rừng. Trong lúc việc
bảo tồn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu thì việc
tiếp thu văn hóa mới lại thiếu chọn lọc, chính vì vậy
đã gây ảnh hưởng xấu tới văn hóa truyền thống các
dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc ít
mặc trang phục truyền thống, không còn say mê bài
hát, điệu nhảy âm nhạc của dân tộc mình. Quá trình
đô thị hóa cũng làm mất dần nhà sàn, nhà rông, nhà
dài... Do vậy, quản lý văn hóa cần nhìn nhận từ chủ
trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện trên
thực tế, cả trong khâu chỉ đạo điều hành đến việc
triển khai thực hiện các dự án can thiệp hỗ trợ.
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống
của lễ hội các dân tộc là cần thiết, tuy nhiên, trước
tình trạng lễ hội đang bị mai một như hiện nay, cũng
không nhất thiết phải tìm cách phục hồi lại các lễ
hội nếu không cần thiết mà nên tìm biện pháp củng
cố, xây dựng trung tâm văn hóa nhiều hoạt động
thích hợp vừa mang tính dân tộc vừa hiện đại. Tại
các trung tâm văn hóa cộng đồng đó, có thể lựa
chọn các lễ hội truyền thống phù hợp với xu thế
hiện nay14. Trong việc tổ chức phục hồi các giá trị
truyền thống của văn hóa các tộc người thiểu số,
cần rút ngắn khoảng cách chênh lệch khá lớn về đời
sống văn hóa và mức hưởng thụ văn hóa giữa các
vùng, miền...
III. Những khoảng còn trống trong nghiên
cứu văn hóa tộc người
1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa tộc
người khá đồ sộ và đề cập đến nhiều lĩnh vực khác
nhau trong đời sống văn hóa của các tộc người thiểu
số. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm bảo tồn các
giá trị văn hóa truyền thống và phát triển bền vững
thì vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện tính đặc
thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa
phương lại chưa được thực hiện một cách hệ thống
và có tính khái quát mang tầm cỡ quốc gia. Hầu hết,
các nghiên cứu vẫn mang tính nhỏ lẻ, chuyên sâu
vào từng vấn đề, từng tộc người mà chưa có tính
13. Ngô Đức Thịnh, (2003), Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, NXB.
Khoa học Xã hội
14. Hoàng Lương, (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền
Bắc Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc.
khái quát cao cho từng vùng, từng nhóm tộc người
hay tổng quát chung cho cả nước. Đặc biệt, vẫn còn
thiếu vắng các công trình nghiên cứu gắn bảo tồn
văn hóa của các tộc người thiểu số vào việc hoạch
định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở
các tộc người, các địa phương, nhất là với các tộc
người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm,
mang nhiều nét đặc thù.
2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong
phạm vi hoạt động văn hóa, chẳng hạn như quản
lý lễ hội, quản lý di tích hay bảo tồn các giá trị văn
hóa truyền thống của các tộc người gắn với các hoạt
động văn hóa hiện nay ở cấp cộng đồng và văn hóa
cơ sở còn hạn chế. Một số công trình nghiên cứu có
đề cập đến vấn đề quản lý lễ hội, quản lý di tích hay
việc biên soạn, quản lý các kịch bản nghệ thuật dân
gian tại các địa phương (trừ các di tích - lễ hội lớn,
cấp quốc gia hoặc cấp đặc biệt) chưa nhiều. Thực tế
cho thấy, các hoạt động lễ hội đang bùng nổ trong
những năm gần đây đặt ra khá nhiều vấn đề trong
quản lý và nghiên cứu các phương án bảo tồn văn
hóa truyền thống của các tộc người. Do thiếu vắng
các công trình nghiên cứu mang tính khoa học, cơ
bản dẫn tới tình trạng trước khi lễ hội diễn ra, các
cấp quản lý cơ sở (thường là cấp huyện, cấp xã) là
nơi xây dựng “kịch bản lễ hội” hoặc trực tiếp duyệt
kịch bản từ các làng/xã gửi tới. Cũng bởi vậy, ở khá
nhiều trường hợp, kịch bản của một lễ hội tại làng/
xã lại chính là sản phẩm của nhà quản lý văn hóa
các huyện hoặc của các trung tâm quản lý di tích,
chính quyền sở tại mà thiếu cái nhìn khoa học. Từ
đó, có nguy cơ dẫn đến sự áp đặt cho cộng đồng
những “kịch bản” mang tính phi truyền thống và
thiếu tính khoa học, phải có ý thức tôn trọng lịch sử,
tôn trọng sáng tạo văn hóa trong cộng đồng.
3. Lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa tộc người và
biến đổi văn hóa tộc người đã có khá nhiều. Khối
các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này khá đồ
sộ. Nhiều nghiên cứu đã có tính bao quát về một
tộc người hay một nhóm tộc người, làm rõ những
nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa của một số tộc
người. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính lý luận
về biến đổi văn hóa và quản lý Nhà nước về văn hóa
các tộc người thiểu số thì chưa nhiều. Đây là một
khoảng trống trong nghiên cứu về văn hóa, biến đổi
văn hóa các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay.
Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về văn hóa, vai
trò quản lý của nhà nước trong bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu
số chủ yếu tập trung ở lễ hội, còn ở các thành tố văn
hóa khác còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, các nghiên
cứu đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống từ
1986 đến nay làm cơ sở khoa học phục vụ cho việc
hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số còn
nhiều hạn chế. Việc nhận diện những vấn đề biến
đổi văn hóa truyền thống của các tộc người và xác
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
112 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
định những vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước
về văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của các tộc người là rất cần thiết
và cấp bách.
* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài
khoa học cấp Quốc gia “Hệ thống hóa, đánh giá
các công trình nghiên cứu về dân tộc và công tác
dân tộc từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT
02.16/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp,
(1991), Văn hoá Chăm, NXB. Khoa học Xã hội;
[2] Đỗ Thuý Bình, (1994), Hôn nhân và gia đình
các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, NXB.
Khoa học Xã hội;
[3] Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc
Thắng, Nguyễn Xuân Độ (Ban chủ nhiệm đề tài)
(1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người
trong chiến lược phát triển đất nước, Chương trình
nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-
06: “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ
xã hội”, NXB. Khoa học Xã hội;
[4] Trần Bình, (2002), Về văn hoá Xinh mun,
NXB. Khoa học Xã hội;
[5] Diệp Trung Bình, (chủ biên, 2002), Lễ hội cổ
truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt Nam, NXB.
Văn hoá Dân tộc;
[6] Nịnh Văn Độ, (chủ biên, 2003), Văn hoá
truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên
Quang, NXB. Văn hoá Dân tộc;
[7] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2004), Văn hoá
các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn
đề đặt ra, NXB. Chính trị Quốc gia;
[8] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2006), Đời sống
văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Lý luận Chính trị;
[9] Trương Bi, (chủ biên, 2007), Văn hóa mẫu
hệ Mnông, NXB. Văn hóa Dân tộc;
[10] Trần Trí Dõi, (2004), Thực trạng giáo dục
ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc
Việt Nam - Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại
học Quốc gia;
[11] Ma Ngọc Dung, (2004), Nhà sàn truyền
thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, NXB.
Khoa học Xã hội;
[12] Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung, (2006),
Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong
quan hệ giới và phát triển, NXB. Nông nghiệp;
[13] Ma Ngọc Dung, (2007), Văn hóa ẩm thực
của người Tày ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội;
[14] Bùi Xuân Đính, (2010), Một số vấn đề cơ
bản của các dân tộc vùng Đông Bắc, Báo cáo đề tài
cấp Bộ;
[15] Đỗ Thị Hoà, (2003), Trang phục các tộc
người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày
- Thái, NXB. Văn hoá Dân tộc;
[16] Đặng Thị Hoa, (2009), Tác động của yếu
tố truyền thống tới quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân
tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, đề tài cấp Bộ
2008- 2009;
[17] Đặng Thị Hoa, (2014), Một số đặc điểm gia
đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập và phát triển, Trong cuốn: “Gia đình Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh”, NXB. Khoa
học Xã hội;
[18] Đặng Thị Hoa, (2016), Hôn nhân xuyên biên
giới với phát triển xã hội, NXB. Khoa học Xã hội;
[19] Phạm Quang Hoan, (2009), Những vấn đề
dân tộc- tôn giáo nhằm phát triển bền vững vùng
Tây Bắc đến năm 2015, Báo cáo tổng hợp kết quả
nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 2007- 2009, do PGS.
TS. Phạm Quang Hoan làm chủ nhiệm, lưu tại Thư
viện Viện Dân tộc học);
[20] Phạm Quang Hoan, Đoàn Đình Thi, (2009),
Một số vấn đề cấp bách trong nghiên cứu dân tộc
học hiện nay, Thông báo dân tộc học năm 2008;
[21] Phạm Quang Hoan, (2010), Nghiên cứu
người Hmông ở vùng biên giới Lào - Việt (Báo
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ năm
2008- 2010, do PGS.TS. Phạm Quang Hoan làm chủ
nhiệm, Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học).
THE ACHIEVEMENTS OF RESEARCH ON ETHNIC CULTURE
SINCE INNOVATION UP TO NOW
Dang Thi Hoa
Abstract: Research on ethnic minority cultures has always been a concerned topic for many researchers.
There are quite many researchs on the aspects of ethnic cultural life, notably the researchs of material
culture, spiritual culture, festivals, rituals of life cycle now... However, looking back at the research
achievements on ethnic culture from 1986 to present showed that the researchs has a bias between central
and local agencies, between regions and especially among ethnic minoririty groups. There are gaps in the
ethnic culture researchs that have not yet been filled, and further research is needed in the near future.
Keywords: Research achievement; Ethnic cultural life; Ethnic culture; Ethnic minority culture; The
research achievement since innovation up to now.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 99_454_1_pb_0863_2151948.pdf