Thành tựu của văn hóa trung hoa thời kỳ trung đại

Tài liệu Thành tựu của văn hóa trung hoa thời kỳ trung đại: THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA TRUNG HOA THỜI KỲ TRUNG ĐẠI Còn đối với người Triều Tiên thì đó là thành tựu quan trọng không gì sánh được trong lịch sử, văn hóa, một minh chứng xác thực nhất cho sự ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa Trunng Hoa. 2.2.1.3. Đối với Nhật Bản Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên được gọi là Kanji và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật Bản và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật người Nhật dùng chữ Hán để viết tiềng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên của người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man – yogana. Hệ thống chữ viết này khá phức tạp. Man – yogana được đơn giản hóa thành Hiragana và Katahana. Cả hai loại chữ này trải qua nhiều chỉnh lí và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay của Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại kí tự chữ hán (Kanji) chữ mềm (Hiragana) chữ cứng (Katakara) chữ ...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành tựu của văn hóa trung hoa thời kỳ trung đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA TRUNG HOA THỜI KỲ TRUNG ĐẠI Còn đối với người Triều Tiên thì đó là thành tựu quan trọng không gì sánh được trong lịch sử, văn hóa, một minh chứng xác thực nhất cho sự ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa Trunng Hoa. 2.2.1.3. Đối với Nhật Bản Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên được gọi là Kanji và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật Bản và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật người Nhật dùng chữ Hán để viết tiềng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên của người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man – yogana. Hệ thống chữ viết này khá phức tạp. Man – yogana được đơn giản hóa thành Hiragana và Katahana. Cả hai loại chữ này trải qua nhiều chỉnh lí và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay của Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại kí tự chữ hán (Kanji) chữ mềm (Hiragana) chữ cứng (Katakara) chữ Latinh (hay Rômaji). Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm hán cổ, được gọi là On – yomi và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun – yomi. Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn sáng tạo ra một số chữ ( khoảng vài trăm chữ ) và mỗi chữ này chỉ có một cách đọc theo âm tiếng Nhật; các chữ này được gọi là Kôkuji. Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo Dục Nhật đã đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học và được Quốc Hội thông qua năm 1947. Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác, dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng đẻ viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên 400 chữ các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng và Bảng chữ Hán dùng để viết tên người. 2.2.2. Ảnh hưởng của Văn học 2.2.2.1. Đối với Triều Tiên Cũng như chữ viết văn học Triền Tiên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn học Trung Hoa song không vì thế mà nó bị xem là “ một phụ lục của văn hoc Trung Hoa”. Ngược lại người Triều Tiên đã tạo ra một nền văn học phong phú, đa dạng mang phong cách rất riêng và “đáng để các đất nước trong vùng Đông Á nể trọng”. + Tiếp biến về mặt hình thức Về chữ viết: trong nền văn học Triều Tiên, dòng văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ đạo xuyên suốt thời kì cổ trung đại. Đặc biệt từ giai đoạn vương triều Tân La các học giả Triều Tiên xưa ca ngợi chữ Hán là “ chân thư”, là thứ chữ cao quý chữ viết đặc thù của các nho sĩ tầng lớp trên trong xã hội. Văn học chữ Hán chiếm khối lượng lớn và đồ sộ trong toàn bộ nền văn hoc Triều Tiên. Tuy nhiên từ sự tiếp biến về mặt chữ viết các tầng lớp dưới trong xã hội đã sử dụng chữ IDU và chữ Hangul để sáng tác tạo nên một dòng văn học riêng biệt. Về mặt thể loại: Triều Tiên một mặt sử dụng các thể loại sáng tác trong văn hoc Trung Hoa, mạt khác tạo ra những thể loại mới phù hợp với phong cách của mình trong văn xuôi Triều Tiên sử dụng các thể loại của Trung Hoa: Sử kí, truyền kì, văn biền ngẫu, tiển thuyết một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện. Thế kỷ XIV, xuất hiện trong văn học Triều Tiên các tác phẩm theo lối truyền kì tiêu biểu như “ Kim ngao tân thoại” (của Kim Thời Tập). Nhưng tiếp sau đó thế kỷ XV – XVII khi các tiểu thuyết Minh – Thanh ra đời ngay lập tức nó cũng được vận dụng để sáng tác ở Triều Tiên. Trong thơ ca: hầu hết các thể thơ Trung Hoa đều được sử dụng để sáng tác ở Triều Tiên. Tuy nhiên, những thể loại văn hoc Trung Hoa không đủ để truyền tải những cảm xúc tinh tế nên người Triều Tiên đã sáng tạo ra nhiều thể loại mới. Đặc biệt tới thời kì vương triều Cao ly, vương triều Lý các thi sĩ Triều Tiên đã sáng tao ra thể thơ Sijo và Kasa. Tóm lại, để đánh giá vấn đề này, xin dẫn lời nhận xét của giáo sư ngữ văn Kimyulkyu (dại học tổng hợp Hàn Quốc): “Người Triều Tiên đã sử dụng chữ Trung Hoa và các kĩ thuâth thơ Trung Hoa điêu luyện hơn bất cứ dân tộc không phải Trung Hoa nào khác, và đã phát triển được một truyền thống đặc văn chương, do đó tạo nên một sự hình thành lịch sử thơ ca Hàn – Trung lâu đời”. + Tiếp biến về mặt nội dung Cũng như văn học Trung Hoa, văn học Triều Tiên phản ánh hai đề tài thơ chủ đạo là lịch sử và cảnh thiên nhiên. Đặc điểm độc đáo nhất trong văn học Triều Tiên là không dừng lại ở khuôn mẫu hình tượng văn học Trung Hoa, người Triều Tiên dám mạnh dạn nói lên ước vọng, khát khao đến trần tục của con người mà văn hoc đại lục không bao giờ dám đề cập. Hay tiến xa hơn nữ, văn học Triều Tiên phản ánh đậm nét nhân tình thế thái, phản ảnh tình yêu mang tính dục vọng mãnh liệt. Từ sự tiếp nhận văn học Trung Hoa, Triều Tiên đã tiếp biến sáng tạo để hình thành nền văn học độc đáo của dân tộc mình. Ở đó, những cung bậc tình cảm được trân trọng, mạnh dạn đề cập chứ không bị gò bó kì thị như ở Trung Hoa. Do vậy, văn học ở Triều Tiên không chỉ đọc, ngâm mà được nâng lên thành những bài hát chữ tình sâu đậm. 2.2.2.2. Đối với Việt Nam Hai dạng ảnh hưởng trực tiếp là ảnh hưởng gián tiếp của văn học Trung Hoa với thơ ca dân gian người Việt + Ảnh hưởng trực tiếp Thơ ca dân gian người Việt (còn gọi là ca dao) được sáng tác từ rất sớm, song việc ghi chép lại mới chỉ được tiến hành từ cuối thế kỉ XVIII trở lại đây. Căn cứ vào những tài liệu đã được sưu tầm, hiện có khoảng 13.000 bài ca dao. Ca dao người Việt có khi chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa một cách trực tiếp. Ví dụ dưới đây là lời của một chàng trai ở Nam Bộ: Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự Dạ bán trung thanh đáo khách thuyền Ai hỏi đón chi đó giống in tiếng con bạn hiền Đây anh lo phản mại kiếm tiền nuôi thân Hai dòng đầu của bà ca dao là hai câu thơ trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế (đời Đường). Có thể nói đây là trường hợp vận dụng văn học chữ Hán không thật nhuần nhuyễn, bởi vì xét cho kĩ nội dung giữa hai dòng đầu với hai dòng sau không có mối liên hệ hữu cơ. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng trong các cuộc hát đối đáp ngày trước , nhiều câu mở đầu chỉ có tính chất bắt vần đưa đẩy để cho cuộc hát không bị gián đoạn. + Ảnh hưởng gián tiếp Ca dao người Việt còn chịu ảnh hưởng của văn học Trung Hoa một cach gián tiếp. Qúa trình này diễn ra như sau: Lúc đầu nhứng điển tích, tên đất, tên người của tác phẩm văn học Trung Hoa đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt, sau đó các tác giả thơ ca dân gian người Việt đã tiếp thu những điển tích này. Ví dụ, Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm cua Thanh Tâm Tài Nhân (đời Thanh _Trung Hoa). Tác phẩm này đã vào Việt Nam khoảng những năm 60, 70 của thế kỉ XVIII. Dựa theo nó, Nguyễn Du đã viết truyện Kiều với 3254 câu thơ lục bát. Ca dao người Việt đã tiếp thu văn học Trung Hoa qua Truyện Kiều. Đây là bài ca dao, lời chàng trai dặn dò người yêu hãy gìn giữ mối tình chung thủy. 2.2.2.3. Đối với Nhật Bản Văn học Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Trung Hoa. Đặc biệt là từ khi chữ Hán có mặt tại Nhật Bản. Ảnh hưởng của văn hoạc Trung Hoa tới Nhật Banr “phần lớn thông qua các học tăng và phái bộ ngoại giao”nhất là sau khi thâu nhận “tư tưởng kinh điển nho giáo, việc tiếp thu thi ca Trung Hoa đóng vai trò quan trọng đối với văn học Nhật Bản”. Từ khi chữ Hán xâm nhập vào xã hội Nhật Bản, đã đánh dấu một bước chuyển mới trong nền văn học Nhât Bản. Một nền văn học viết ra đời và ngày càng phát triển. Về thơ ca viết bằng chữ Hán gồm các tuyển tập như Kaifusô ra đời năm 751, với 126 bài thơ chữ Hán làm theo thể Đường luật. Khoảng thời gian từ thế kỉ VII- VIII, nền văn học Hán khá phát triểnở Nhật Bản. ở đời Đường nền văn học Trung Hoa phát triển khá rực rỡ. lúc bấy giờ giao lưu Trung Hoa đã đạt đến đỉnh cao. Nhiều nhà thơ Nhật Bản đã góp mặt trong nền văn minh Trung Hoa Xét về quan điểm, văn học Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền văn minh Trung Hoa. Đặc biệt là quan điểm văn học phải gắn liền với đạo đức. Xét về nội dung và hình thức. Nhiều tác phẩm văn học Nhật Bản sử dụng nhiều đề tài, điển tích Trung Hoa, thấm nhuần tư tưởng triết lí nho giáoVí dụ bài thơ “Hà Dương Hoa”của Thiên Hoàng Saga (Tha Nga), vào thế kỉ thứ IX. Từ thế kỉ trở đi, nền văn học chữ Hán ở Nhật Bản từng bước cách tân hoá và phải rẽ bước đi theo con đường của riêng mình. 2.2.3. Ảnh hưởng của Nghệ thuật 2.2.3.1. Đối với Triều Tiên * Hội hoạ Hội hoạ Triều Tiên chịu ảnh hưởng của hội hoạ Trung Hoa từ rất sớm.Từ thế kỉ thứ IV đã xuất hiện các bức bích hoạ theo phong cảnh Trung Hoa trên các vách lăng mộ ở phía Bắc bắc đảo. Đến thế kỉ thứ VII, hội hoạ Trung Hoa lại càng tác động mạnh mẽ vào Triều Tiên làm xuất hiện dòng tranh phong cảnh. Cũng thời gian đó phong cách tranh Phật giáo cũng được thâm nhập. Vẫn sử dụng những kĩ thuật và lí thuyết hội hoạ Trung Hoa, song nội dung biểu hiện các bức tranh ở Triều Tiên mang tính “tả thực cao”, nhất là tranh ở cuối thời Choson. Các bức tranh Phật ở đây mang vẻ duyên dáng thanh tú chứ không mang vẻ huyền bí kinh sợ như ở Trung Hoa. * Điêu khắc Cũng như hội họa, điêu khắc Triều Tiên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ các kĩ thuật điêu khắc của Trung Hoa. Song trên nề tảng lí thuyết đó điêu khắc Triều Tiên tạo dựng của riêng mình. Nghệ thuật điêu khắc Triều Tiên gắn liền với hinh ảnh Đức Phật Về phong cách, từ thế kỉ VIII trở đi tượng Phật Trung Hoa có xu hướng béo, mập thậm chí má chảy xệ xuống. do vậy chúng đã làm mất đi vòng hào quang tinh thần vốn có. Trái lại tượng Phật Triều Tiên lại có vẻ đẹp tinh thần cao quý với khuôn mặt thanh nhã, mũi dài thẳng, nhiều đường nét chạy dài. * kiến trúc Kiến trúc Triều Tiên gồm hai loại chủ đạo là kiến trúc cung đình đền chùa và kiến trúc nhà ở thường dân. Cả hai loại đều xây dựng trên cơ sở lí thuyết về thuật phong thủy (xuất phát từ triết học Trung Hoa) cho đến kĩ thuật, cấu trúc. Dù vậy, kiến trúc Triều Tiên vẫn mang dáng vẻ riêng. Các công trình không bề thế, nguy nga như ở Trung Hoa, mà hòa vào cảnh tự nhiên, tạo nên vẻ đẹp thầm kín, cổ truyền. 2.2.3.2. Đối với Nhật Bản Từ rất sớm, Nhật Bản sáng tạo cho mình nhiều loại hình nghệ thuật khá đặc sắc. Trong khi đó, Trung Hoa là một đất nước có nền nghệ thuật phát triển lâu đời và đạt nhiều thành tựu rực rỡ đã cung cấp cho kho tàng văn hóa nhân loại nhiều mẫu hình đặc sắc và độc đáo. Điều này, cho phép Nhật Bản tiếp thu những yếu tố từ nghệ thuật Trung Hoa làm cơ sở thúc đẩy nghệ thuật Nhật Bản phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthanh_tuu_cua_van_hoa_trung_hoa_thoi_ky_trung_dai_5494_2181378.pdf
Tài liệu liên quan