Tài liệu Thành phần hoá học của 159 mẫu sỏi mật ở người Việt Nam bằng quang phổ hồng ngoại: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
23 THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA 159 MẪU SỎI MẬT Ở NGƯỜI VIỆT NAM
BẰNG QUANG PHỔ HỒNG NGOẠI
Lê Văn Cường*
TÓM TẮT
Phân tích thành phần hóa học của 159 mẫu sỏi mật ở người việt nam bằng phương pháp quang phổ hồng
ngoại, chúng tôi được kết quả như sau:
Sỏi mật ở người Việt Nam là sỏi hỗn hợp từ 4-6 thành phần
Sỏi mật ở người Việt Nam 62,6% là sỏi sắc tố, 14,9% là sỏi cholesterol và 22,5% là sỏi hỗn hợp.
Sỏi ống mật chủ và sỏi trong gan (đường mật chính) 80,5% là sỏi sắc tố, sỏi túi mật 38% là sỏi sắc tố, 31,4%
là sỏi cholesterol và 30,6% là sỏi hỗn hợp. Vì vậy sỏi ống mật chủ ở người Việt Nam đa số là sỏi tiên phát, khác
với phương Tây thường có nguồn gốc từ túi mật
Ở nữ giới, tỷ lệ sỏi sắc tố là 42,7%, còn ở nam giới tỷ lệ sỏi sắc tố là 75,9%
Sỏi sắc ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần hoá học của 159 mẫu sỏi mật ở người Việt Nam bằng quang phổ hồng ngoại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
23 THÀNH PHẦN HOÁ HỌC CỦA 159 MẪU SỎI MẬT Ở NGƯỜI VIỆT NAM
BẰNG QUANG PHỔ HỒNG NGOẠI
Lê Văn Cường*
TÓM TẮT
Phân tích thành phần hóa học của 159 mẫu sỏi mật ở người việt nam bằng phương pháp quang phổ hồng
ngoại, chúng tôi được kết quả như sau:
Sỏi mật ở người Việt Nam là sỏi hỗn hợp từ 4-6 thành phần
Sỏi mật ở người Việt Nam 62,6% là sỏi sắc tố, 14,9% là sỏi cholesterol và 22,5% là sỏi hỗn hợp.
Sỏi ống mật chủ và sỏi trong gan (đường mật chính) 80,5% là sỏi sắc tố, sỏi túi mật 38% là sỏi sắc tố, 31,4%
là sỏi cholesterol và 30,6% là sỏi hỗn hợp. Vì vậy sỏi ống mật chủ ở người Việt Nam đa số là sỏi tiên phát, khác
với phương Tây thường có nguồn gốc từ túi mật
Ở nữ giới, tỷ lệ sỏi sắc tố là 42,7%, còn ở nam giới tỷ lệ sỏi sắc tố là 75,9%
Sỏi sắc tố có màu đen hay nâu sậm, sỏi cholesterol có màu vàng hoặc màu sáng,
SUMMARY
ANALYSING CHEMICAL COMPOSITION OF 159 GALLSTONES SPECIMENS IN
VIETNAMESE BY INFRAREF SPECTROSCOPY
Le Van Cuong* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 1 * 2004: 156 – 162
The gallstones of Vietnameses are compound stones from 4 to 6 substances.
The gallstones of Vietnameses were classified as pigment stones in 62,6%, cholesterol stones in 14,9% and
mixed stones in 22,5% of patients.
The incidences of pigment stones, cholesterol stones and mixed stones in the gallbladder were found in
38%, 31,4% and 30,6% of patients.
The common bile duct stones and intrahepatic stones of Vietnameses were pigments stones (80,5%) so the
common bile duct stones were mainly primary stones, this is different from that in Western countries.
The chemical composition of gallstones in male was 75,9% of pigments stones while if female was only 42,7%.
Visually, pigment stones were black on dark brown while cholesterol stones were light colored or yellow.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sỏi đường mật ở Việt nam rất nhiều, công
việc điều trị còn nhiều khó khăn và lúng túng nhatá
là bệnh nhân sỏi mật tái phát sau mổ nhiều lần. Phân
tích thành phần hóa học của sỏi mật rất quan trọng
làm cơ sở để biết về sinh lý bệnh học và làm cơ sở để
lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp như : chọn
lọai thuốc làm tan sỏi, tán sỏi ngoài cơ thể bằng sóng
chấn động, bằng tia laser... Trên thế giới đã có nhiều
công trình nghiên cứu về thành phần hóa học của sỏi
ở người phương tây như Sali(27), Bernhofl(13),
Nahrwold(26), Maillard(22)... Kết quả cho thấy sỏi mật ở
người phương tây có thành phần hóa học chủ yếu là
cholesterol, tỉ lệ sỏi sắc tố rất thấp. Sỏi ống mật chủ ở
người phương Tây đa số có nguồn gốc từ túi mật(13). Ở
Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về thành
phần hóa học của sỏi mật như Lê Văn Cường(1),
Nguyễn Tấn Cường(4), Lê Trung Hải, Nguyễn Quang
Hùng(6), Phạm Duy Hiển(7) và đặc biệt Đỗ Kim Sơn và
cộng sự(11,12) đã nghiên cứu thành phần hóa học của
30 mẫu sỏi túi mật bằng phương pháp quang phổ
hồng ngoại đã nêu lên được nhiều đặc điểm của sỏi
mật ở người Việt Nam. Tuy nhiên, còn một số vấn đề
* Bệnh viện Bình Dân – Tp.HCM
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 156
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
cần được giải đáp như thành phần hóa học của sỏi
mật có mối tương quan nào với vùng sinh sống, các
thức ăn thường dùng của bệnh nhân. Mặt khác, sỏi
ống mật chủ ở người Việt Nam có phải chủ yếu từ túi
mật rớt xuống qua ống túi mật như ở người phương
Tây hay không? Có sự khác biệt nào giữa sỏi mật ở
nam và nữ? Thành phần hóa học của phần nhân và
phần vỏ viên sỏi có khác biệt không? Công trình
nghiên cứu này có mục tiêu góp phần xác định thành
phần hóa học của sỏi mật theo vị trí trong đường
mật. Thử tìm mối tương quan của thành phần hóa
học của sỏi mật với một số yếu tố dịch tễ như vùng
sinh sống, thức ăn thường dùng, độ béo phì, màu sắc
viên sỏi. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp các số liệu
để phục vụ công tác điều trị bệnh sỏi mật ở nước ta.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Qua phân tích 159 mẫu sỏi mật bằng phương
pháp quang phổ hồng ngoại với mục tiêu là xác định
thành phần hóa học của sỏi mật ở người Việt Nam
theo vị trí trong đường mật. Tìm mối tương quan của
thành phần hóa học của sỏi mật với một số yếu tố
dịch tễ như vùng sinh sống, thức ăn, độ béo phì, màu
sắc của sỏi.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu 159 mẫu sỏi mật:
49 mẫu sỏi trong đợt I năm 1993-1994
110 mẫu sỏi mật trong đợt II năm 1995-1996
trong đó có 82 mẫu sỏi túi mật, còn lại là sỏi ống
mật chủ và sỏi trong gan.
Tất cả các mẫu sỏi trên được lấy từ bệnh nhân
trong lúc phẫu thuật. Những bệnh nhân được lấy sỏi
để nghiên cứu đều là người Việt Nam trưởng thành,
tuổi từ 16 đến 85 tuổi, được nhập viện và điều trị tại
bệnh viện Bình Dân, TP. HCM.
Phương pháp nghiên cứu
Công trình được tiền cứu theo phương pháp
thống kê mô tả và so sánh. Các mẫu sỏi được lấy
trong lúc phẫu thuật cẩn thận cố gắng giữ nguyên
hình dạng và xác định chính xác vị trí của sỏi trong
túi mật hoặc trong đường mật. Sỏi được rửa, sấy khô
40oC và gửi sang Phòng Thí nghiệm Physico –
Chimie Moléculaire et Minéral thuộc Ecole Centre
Paris, Pháp do Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Quý Đạo phân
tích bằng phương pháp quang phổ hồng ngoại. Tất cả
các mẫu sỏi của bệnh nhân đều có đánh số ký hiệu và
làm bệnh án nghiên cứu. Các kết quả thu nhận được
xử lý bằng phương pháp thống kê trên máy tính theo
chương trình Stata Statiscal Software: Release 6.0.
KẾT QUẢ
Dịch tễ học của sỏi mật
Tuổi của bệnh nhân sỏi mật
Trong 159 bệnh nhân bị bệnh sỏi mật tuổi trung
bình là 54,60 ± 17,9 tuổi. Tuổi nhỏ nhất trong nhóm
mẫu là 16 và cao nhất là 85.
Giới
Trong 159 bệnh nhân có 62 bệnh nhân là nam
(39%) và 97 là nữ (61%), tỷ lệ nữ/nam là 1,56.
Phân bố vị trí sỏi mật trong đường mật
và túi mật.
Bảng 1. Phân bố vị trí sỏi mật theo giới
Giới tính
Vị trí
Nam Nữ Tổng cộng
Ống mật chủ
Túi mật
Ống mật chủ và túi mật
Ống gan
Ống mật chủ và trong gan
Ống mật chủ trong gan và
túi mật
18 (29%)
31 (50%)
3 (4,8%)
1 (1,6%)
7(11,2%)
2 (3,2%)
30 (30,9%)
51 (52,5%)
3 (3%)
2 (2%)
7 (7,2%)
4 (4,1%)
48 (30,1%)
82 (51,5%)
6 (3,7%)
3 (1,88%)
14 (8,8%)
6 (3,7%)
Tổng 62 (100%) 97 (100%) 159 (100%)
Kết hợp các yếu tố vùng sinh sống, gia
đình, bệnh kết hợp và tiền căn sử dụng
thuốc của bệnh nhân sỏi mật
Qua nghiên cứu về vùng sinh sống của bệnh
nhân sỏi mật có 50,3% sống ở thành phố, 37,7% ở
thôn quê, 10,7% ở vùng biển và 1,2% ở vùng cao.
Có 3,7% bệnh nhân có người trong gia đình cũng
bị bệnh sỏi mật.
Có 7 bệnh nhân bị sỏi mật có bệnh cao huyết áp
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 157
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
và 1 bệnh nhân bị sốt rét, không có bệnh nhân nào
sử dụng thuốc hypolipéminants, ceftriaxone và
dipyridamole.
Bệnh sỏi mật và nhiễm trùng
Nghiên cứu sự nhiễm trùng qua triệu chứng lâm
sàng kết hợp lấy dịch mật trong lúc mổ làm kháng
sinh đồ, chúng tôi có kết quả sau:
Bảng 2. Bệnh sỏi mật và nhiễm trùng
Vị trí sỏi Không
nhiễm trùng
Có nhiễm
trùng
Tổng
Ống mật chủ
Túi mật
Ống mật chủ và túi mật
Ống gan
Ống mật chủ và trong gan
Ống mật chủ trong gan, túi
mật
4(8,3%)
27(32,9%)
3(50%)
0(0%)
1(7,1%)
0 (0%)
44 (91,6%)
55 (67%)
3 (50%)
3 (100%)
13 (92,8%)
6 (100%)
48
82
6
3
14
6
Tổng 35 (22%) 124(77,9) 159
Thành phần hóa học của sỏi mật
Nghiên cứu 159 mẫu sỏi mật được phân tích
bằng phương pháp quang phổ hồng ngoại tại
Laboratoire de Physico – Chimie Moléculaire et
Minéral, Pháp. Phương pháp này có ưu điểm là xác
định trực tiếp phân tử chứ không phải các ion riêng
lẻ, nên có thể kết luận chắc chắn về sự hiện diện của
một chất trong sỏi, có thể phân tích các mẫu với
trọng lượng rất nhỏ (1-2mg), không phụ thuộc vào
trạng thái kết tinh của chất phân tích.
Tỷ lệ thành phần hóa học của sỏi mật
Tỷ lệ các loại sỏi
Để phân nhóm các loại sỏi, các tác giả như Đỗ
Kim Sơn(11), Berhoft(13), Kim(19), Keulemans(18) đã chia
sỏi làm 3 loại chính đó là: sỏi cholesterol khi tỷ lệ
thành phần cholesterol trong viên sỏi > 50%; sỏi sắc
tố khi tỷ lệ thành phần calcium bilirubinate trong
viên sỏi > 50% và sỏi hỗn hợp là sỏi không thuộc 2
loại trên.
Bảng 3. Tỷ lệ các loại sỏi mật
Loại sỏi Tỷ lệ
Sắc tố
Cholesterol
Hỗn hợp
62,6%
14,9%
22,5%
Kết quả trên cho thấy sỏi mật ở người Việt Nam
nói chung chưa xét đến vị trí đa số là sỏi sắc tố.
Tỷ lệ các loại sỏi theo vị trí
Bảng 4. Tỷ lệ các loại sỏi theo vị trí của sỏi
Loại sỏi
Vị trí
Sắc tố Cholest
erol
Hỗn
hợp
Ống mật chủ
Túi mật
Ống mật chủ và túi mật
Ống gan
Ống mật chủ và trong gan
Ống mật chủ, ống gan, túi mật
85,3%
39,2%
42,2%
100%
86,1%
70,5%
0%
30,6%
39,5%
0%
0%
3,7%
14,7%
30,2%
18,3%
0%
13,9%
25,8%
Tổng 62,6% 14,9% 22,5%
Tỷ lệ các loại sỏi ở túi mật và đường mật
chính
Bảng 5. Tỷ lệ các loại sỏi ở túi mật và đường mật
chính
Loại sỏi
Vị trí
Sắc tố Cholester
ol
Hỗn hợp
Đường mật chính
Túi mật
80,5%
38%
3,8%
31,4%
15,7%
30,6%
Tổng 62,6% 14,9% 22,5%
Kết quả ở bảng 5 cho thấy sỏi ở ống mật chủ và
gan có tỷ lệ sỏi sắc tố chiếm đa số. Sự khác biệt các
loại sỏi theo vị trí có ý nghĩa thống kê với p=0,001.
Quan sát bảng 5 chúng ta thấy sỏi túi mật 38% là
sỏi sắc tố, có 31,4% là sỏi cholesterol và 30,6% là sỏi
hỗn hợp. Trong khi đường mật chính tỷ lệ sỏi sắc tố
là 79,3%.
Tỷ lệ các loại sỏi mật và giới.
Bảng 6. Tỷ lệ các loại sỏi và giới tính
Loại sỏi
Giới tính
Sắc tố Cholesterol Hỗn hợp
Nữ
Nam
42,7%
75,9%
29,5%
9,83%
27,8%
14,2%
Qua bảng 6, chúng tôi thấy ở nam giới tỷ lệ sỏi
sắc tố cao hơn nữ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
với p=0,032.
Thành phần hóa học của sỏi mật và chỉ
số trọng lượng trên chiều cao cơ thể.
Chỉ số trọng lượng trên chiều cao cơ thể (body
mass index = BMI), chỉ số này được tính theo tỷ lệ
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 158
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
m) vị (đơn cao Chiều
kg)vị (đơn lượng Trọng
2
Qua kết quả nghiên cứu, chúng ta nhận thấy ở
người gầy thành phần hóa học của sỏi mật có tỷ lệ
calcium bilirubinate cao hơn so với người có BMI
trung bình và người béo phì
Màu sắc và thành phần hóa học của sỏi
mật
Qua khảo sát màu sắc các mẫu sỏi chúng tôi có
kết quả
Bảng 7. Tỷ lệ màu sắc của sỏi mật
Tỷ lệ
Màu sắc
Số mẫu Tỷ lệ (%)
Đen
Xám đen
Nâu đen
Nâu vàng
Vàng
32
28
64
20
15
20,1%
17,6%
40,25%
12,5%
9,4%
Tổng 159 100%
BÀN LUẬN
Dịch tễ học của sỏi mật
Tuổi và giới của bệnh sỏi mật
Tuổi trung bình của bệnh sỏi mật là 54,6 ± 17,9
tuổi, phù hợp với kết quả của Nguyễn Tấn Cường(4),
tuổi trung bình của bệnh nhân sỏi túi mật là 52,4
tuổi. Lê Văn Nghĩa(10) cho rằng tỷ lệ bệnh sỏi mật
tăng theo tuổi. Theo Avni Sali(27) cho rằng sỏi mật có
tỷ lệ gia tăng ở tuổi 50-60 tuổi, theo Kaufman(17)sỏi
cholesterol thường gặp ở tuổi 50 ± 2 tuổi.
Về giới, trong 159 bệnh nhân có 97 bệnh nhân
nữ (61%) và 62 bệnh nhân nam (39%). Tỷ lệ nữ/nam
là 1,56. Theo Nguyễn Tấn Cường tỷ lệ ở nữ là 79%
nam là 21%, theo Sali(27) tỷ lệ bệnh sỏi mật ở nữ/nam
từ 2/1 đến 4/1. Theo Lê Văn Nghĩa(10) điều tra số
người mắc bệnh sỏi mật trong dân tại TP. Hồ Chí
Minh đã thấy tỷ lệ nữ/nam là 1,07. Như vậy đa số các
tác giả đều nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân nữ bị bệnh sỏi
mật nhiều hơn bệnh nhân nam, nhưng tỷ lệ có khác
nhau tùy theo nhóm mẫu nghiên cứu.
Sự phân bố vị trí sỏi mật trong đường
mật và túi mật.
Quan sát bảng 1 chúng tôi thấy sỏi ống mật chủ
chiếm 30,1% sỏi túi mật chiếm 51,5%, kế đến là sỏi
cùng lúc có ở ống mật chủ và ở trong gan chiếm tỷ lệ
là 8,8% nếu so sánh với kết quả nghiên cứu của
chúng tôi trước đây(1) thì sỏi túi mật chiếm 58,6%, sỏi
ống mật chủ chiếm 27,1%. Lê Văn Nghĩa(10) điều tra
trên 2047 người dân tại TP. Hồ Chí Minh qua siêu âm
chỉ phát hiện được 3 người có sỏi trong ống mật
(0.14%) và tỷ lệ sỏi túi mật là 6,43%. Tổng kết theo y
văn trước đây của Nguyễn Đình Hối(8) cho thấy người
Việt Nam sỏi ở ống mật chủ chiếm đa số. The
Nahrwold(26) tỷ lệ sỏi ống mật chủ ở người Mỹ chiếm
8-16%, tác giả Sali(26) tổng kết ở Mỹ có khoảng 20
triệu người có sỏi túi mật chiếm 10% dân số. Như
vậy, sỏi túi mật ở các nước phương Tây có tỷ lệ nhiều
hơn sỏi ống mật chủ và sỏi đường mật trong gan.
Còn ở nước ta, qua tổng kết của nhiều tác giả ở nhiều
thời điểm khác nhau với kết quả có khác nhau. Tuy
nhiên, nhìn chung gần đây, nhờ các phương tiện
chẩn đoán ngày càng tiến bộ cụ thể là siêu âm đã
giúp chẩn đoán được nhiều trường hợp sỏi túi mật
không hoặc chưa có triệu chứng nên sỏi túi mật được
phát hiện với tỷ lệ cao hơn trước đây.
Bệnh sỏi mật và nhiễm trùng
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy sỏi
ở ống mật chủ có tỷ lệ nhiễm trùng rất cao 91,6%
trong khi đó sỏi ở túi mật có tỷ lệ nhiễm trùng là
67%, sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống kê với p =
0,001. Vấn đề này có thể hiểu được vì các mẫu sỏi
chúng tôi lấy từ các bệnh nhân được phẫu thuật tại
Bệnh viện Bình Dân. Chúng ta biết sỏi ở ống mật chủ
thường gây nghẹt mật, gây ứ đọng dễ đưa đến nhiễm
trùng hơn sỏi túi mật.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 159
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
Thành phần hóa học của sỏi mật
Tỷ lệ các loại sỏi
Bảng 8. So sánh kết quả thành phần hóa học của các
tác giả
Thành phần hóa
học
Tác giả
Cholesterol Sắc tố Sỏi hổn
hợp
Lê Văn Cường 14,9% 62,6% 22,5%
Đỗ Kim Sơn 50% (sỏi túi
mật)
12% (sỏi đường
mật)
50%(sỏi túi
mật)
80% (sỏi đường
mật)
7,5% (sỏi
đường mật)
Phạm Duy Hiển 18,8% 54,7%
Kim 68% 32%
Lin 16% 84%
Ti. T.K. 46% 43,5%
Kaufman 72% 28%
Maillard 60,8% 20%
Như vậy thành phần hóa học của sỏi mật ở người
Việt Nam khác với người phương Tây và giống với kết
quả nghiên cứu của các tác giả châu Á khác. Ở Việt
Nam, kết quả nghiên cứu của chúng tôi và kết quả
của Đỗ Kim Sơn(11,12) gần giống nhau ở điểm tỷ lệ sỏi
sắc tố và sỏi cholesterol ở đường mật và túi với tỷ lệ
gần xấp xỉ nhau.
Về mối tương quan giữa các loại sỏi mật
và vị trí của sỏi trong đường mật.
Theo kết quả ở bảng 4 và 5, chúng ta thấy sỏi ở ống
mật chủ và sỏi ở ống gan 80,5% là sỏi sắc tố trong khi
sỏi túi mật chỉ có 38% là sỏi sắc tố. Sỏi cholesterol ở
đường mật chính là 3,8% và ở túi mật là 31,4%, sự khác
biệt này rất có ý nghĩa thống kê p = 0,000.
Sự khác biệt về thành phần hóa học của sỏi túi
mật với đường mật chính chứng minh rằng sỏi ống
mật chủ không phải đa số có nguồn gốc từ túi mật
như ở những người phương Tây mà nhiều tác giả như
Bernhoft(13) đã mô tả. Hay nói khác đi, sỏi ống mật
chủ ở người Việt Nam chủ yếu là sỏi tiên phát.
Liên quan giữa giới và các loại sỏi
Kết quả ở bảng 6 chúng ta thấy ở bệnh nhân nữ
sỏi sắc tố có tỷ lệ 42,7%, sỏi cholesterol là 29,5% và
sỏi hỗn hợp 27,8%. Nếu so với bệnh nhân nam thì tỷ
lệ sỏi sắc tố ở nam lớn hơn 75,9%, ngược lại sỏi
cholesterol ở nam là 9,83% và sỏi hỗn hợp là 14,2%.
Cả tỷ lệ sỏi cholesterol và sỏi hỗn hợp ở nam giới chỉ
bằng một nửa ở nữ giới. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p = 0,01.
Tương tự ở người Pháp theo nghiên cứu của
Maillard(23) cho thấy tỷ lệ sỏi cholesterol ở nữ là 70,9%
so với nam tỷ lệ sỏi cholesterol chỉ là 41,7%. Như vậy,
nhìn chung ở nữ tỷ lệ sỏi cholesterol cao hơn ở nam,
nguyên nhân của sự khác biệt này chưa chứng minh
cụ thể được. Tuy nhiên, một số tác giả như Sali (27)
cho rằng có thể do các kích thích tố (hormones) sinh
dục nữ, thành phần hóa học của mật và tình trạng
không có dịch mật trong túi mật (gallbladder
emptying).
Thành phần hóa học của sỏi mật và chỉ
số BMI
Qua nghiên cứu chúng ta thấy ở người gầy tỷ lệ
calcium bilirubinate khá cao, nhưng giảm dần ở bệnh
nhân trung bình, tuy nhiên sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê. Đối với cholesterol có tăng dần
trong nhóm bệnh nhân béo phì (p=0,009). Kết quả
này phù hợp với Đỗ Kim Sơn(11) và Lê Văn Nghĩa (10)
Berhoft(13) và Sali(27) đều xác nhận tình trạng béo phì
làm tăng tỷ lệ sỏi mật và nhất là sỏi cholesterol.
Màu sắc và thành phần hóa học của sỏi mật
Qua kết quả ở bảng 8 so sánh với thành phần hóa
học của sỏi mật cho thấy sỏi có màu đen, màu xám
đen và nâu đen có tỷ lệ calcium bilirubinate cao. Sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,0001.
Cũng theo kết quả cho thấy sỏi có màu nâu vàng hay
màu vàng có tỷ lệ calcium bilirubinate thấp và tỷ lệ
cholesterol tăng dần. Như vậy, sỏi có màu vàng hoặc
nâu vàng có tỷ lệ cholesterol khá cao, sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê p = 0,001. Kết quả trên đây
phù hợp với nhận xét của Đỗ Kim Sơn và cộng sư(1),
Bernhoft(13) và Sali(27). Tóm lại ở Việt Nam, sỏi sắc tố
chiếm đa số và có màu đen hay nâu đen, còn sỏi
cholesterol có màu sáng, màu vàng hay nâu vàng.
Nếu bổ đôi sẽ thấy sỏi sắc tố có nhiều vòng đồng tâm,
còn sỏi cholesterol sẽ thấy dạng tinh thể màu sáng
óng ánh dạng nang hoa hay tỏa tia.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 160
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004 Nghiên cứu Y học
Thành phần hóa học và thuốc tan sỏi :
Tác giả Nguyễn Tấn Cường(4) và Sali(27) đã tổng
kết qua y văn cho thấy acid mật chenodeoxycholic và
ursodeoxycholic acid (Ursolvan) chỉ tác dụng làm tan
sỏi tốt cho loại sỏi cholesterol. Ở Việt Nam tỷ lệ sỏi sắc
tố chiếm đa số ít có tác dụng với thuốc tan sỏi, so đó
cần thận trọng trong quyết định điều trị bằng thuốc
tan sỏi cho bệnh nhân bị sỏi mật.
KẾT LUẬN
Sỏi mật ở người Việt Nam là sỏi hỗn hợp từ 4 – 6
thành phần; sỏi có ít thành phần hóa học nhất là 2
thành phần. Thành phần chủ yếu là calcium
bilirubinate và cholesterol, không có trường hợp nào
là sỏi đơn thuần chỉ có một thành phần.
Sỏi mật ở người Việt Nam 62,6% là sỏi sắc tố,
14,9% là sỏi cholesterol và 22,5% là sỏi hỗn hợp.
Sỏi ống mật và sỏi trong gan (đường mật chính)
là sỏi sắc tố 80,5%. Sỏi túi mật 38% là sỏi sắc tố,
31,4% là sỏi cholesterol và 30,6% là sỏi hỗn hợp. Như
vậy sỏi ống mật chủ ở người Việt Nam đa số là sỏi tiên
phát, khác với người phương Tây thường có nguồn
gốc từ túi mật.
Ở nữ giới tỷ lệ sỏi sắc tố là 42,7% so với nam tỷ lệ
sỏi sắc tố là 75,9%.
Bệnh nhân béo phì tỷ lệ cholesterol trong sỏi mật
cao hơn người bình thường và người gầy.
Sỏi sắc tố có màu đen hay màu sậm, sỏi
cholesterol có màu vàng hoặc màu sáng.
Thuốc tan sỏi là các acid mật như
chenodeoxycholic acid và ursodeoxycholic acid ít có
tác dụng trên sỏi mật ở người Việt Nam vì các thuốc
này chỉ có tác dụng trên sỏi cholestreol.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Cường: Góp phần nghiên cứu bệnh sỏi mật và
thành phần hóa học của sỏi mật. Công trình nghiên
cứu khoa học Tạp chí Y học Trường đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh; Chuyên san của tập 2, 1994,
trang 231-236.
2. Lê Văn Cường: Nghiên cứu thành phần hóa học của sỏi
mật ở người
Việt Nam. Sinh hoạt khoa học kỹ thuật Bệnh viện
Bình Dân số 9, 1997-1998, trang 90-96.
3. Lê Văn Cường: Nghiên cứu thành phần hóa học của sỏi
mật của người Việt Nam. Tóm tắt công trình nghiên
cứu khoa học. Hội nghị khoa học về Sinh học phân tử,
tháng 10/1998; trang 35-36.
4. Nguyễn Tấn Cường: Điều trị sỏi túi mật bằng phẫu
thuật cắt túi mật qua soi ổ bụng. Luận án phó tiến sĩ
khoa học Y dược, 1996; trang 2-92.
5. Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Văn Tường, Đỗ Trung Đàm:
Tác dụng làm mòn sỏi mật in vitro của bài thuốc “đởm
đạo bài thạch thang”. Tạp chí
Y Dược Học số 4-1996, trang 12-14.
6. Lê Trung Hải, Nguyễn Quang Hùng: Về thành phần
cấu tạo của sỏi mật. Ngoại khoa tập XXIII, số 2, 1993,
trang 12-14.
7. Phạm Duy Hiển: Thành phần hóa học của sỏi và dịch
mật trong bệnh sỏi ống mật chủ. Ngoại khoa số 2,
1997, trang 9-13.
8. Nguyễn Đình Hối: Bệnh sỏi đường mật ở Việt Nam.
Hội nghị khoa học kỹ thuật trường Đại học Y Dược TP
Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đồng Tháp, 1997, trang 3-13.
9. Đỗ Đình Hồ: Hóa học của mật và sỏi mật. Hội nghị
khoa học kỹ thuật trường Đại học Y dược TP Hồ Chí
Minh, Bệnh viện Đồng Tháp, 1997, trang 27-35.
10. Lê Văn Nghĩa: Điều tra xác định số đo hiện mắc sỏi
mật tại TP Hồ Chí Minh. Kỷ yếu công trình nghiên cứu
khoa học kỹ thuật Y Dược chào mừng 300 năm Sài Gòn
- TP Hồ Chí Minh, 1998, trang 59-62.
11. Đỗ Kim Sơn, Trần Đình Thơ, Đỗ Ngọc Thanh: Sự xác
định thành phần hóa học của sỏi túi mật ở Việt Nam
bằng phương pháp quang phổ hồng ngoại. Ngoại khoa
tập XXV, số 2, 1995, trang 5-11.
12. Đỗ Kim Sơn, Đỗ Ngọc Thanh, Trần Đình Thơ: Thành
phần hóa học của sỏi đường mật chính và một số yếu tố
liên quan qua phân tích bằng phương pháp quang phổ
hồng ngoại. Ngoại khoa tập XXVIII, số 1, 1998, trang
22 – 28.
13. Berhoft R. A., Pellegrini C.A., Motson R.W, Way L.W.:
Composition and Morphologic and clinical feature of
common duct stones. The American Journal of surgery,
Vol 148, 1984, 77-85.
14. Choudhuri G, Agarwal D.K., Negi T.S.: Polarizing
microscopy of partially dissolved gallstone powder, a
simple technique for studying gallstone composition. J.
Gastroenterology. Hepato. Vol 10.N ·3, 1995,241-245.
15. Erlinger S.: Physiopathologie et facteurs de risque
impact medecin-
La lithiase biliaire. 1991,1 No 128, 4-6.
16. Ho K.J., Lin X.Z., Chen J.S., Wu C.Z.: Cholelithiasis in
Taiwan, gallstone characteristics, surgical incidence,
bile lipid composition, and role of glucuronidase.
Digestive diseases and sciences, Vol 40, No 9, 1995,
1963-1973.
17. Kaufman H.S., Magnuson T.H., Pitt H.A., Frasca P.,
Lillemoe K.D.: The distribution of calcium salt
precipitates in the core, periphery and shell of
cholesterol, black pigment and brown pigment
gallstones. Hepatology Vol 19, No 5, 1994, 1125-1132.
18. Keulemans Y.C.A., Mok K.S., Wit L.T., Groen A.K.:
Hepatic bile versus gallbladder bile; A comparision of
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 161
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 1 * 2004
protein in cholesterol gallstone patients. Hepatology Vol
28, No 1 1998 :11-16.
19. Kim M.H., Sekijima J., Park H.Z., Lee S.P.: Structure
and composition of primary intrahepatic stones in
Korean patients. Digestive diseases and sciences , Vol
40, No 10,1995:2143-2151.
20. Karam J., Roslyn J.: Cholelithiasis and
cholecystectomy. Maingot’s Abdominal operations Vol 2,
1997:1717 - 1724.
21. Lin X.Z., Chen C.Y., Chang K.K., Shin J.S., Li P.W.,
Shen C.L.: Gallstone images on plan film and
endoscope retrograde cholangio-pancreatography.
Hepato-gastroenterology, Vol 41, 1994: 388 - 390.
22. Maillard A.E., Nguyễn TDH., Nguyen Quy Dao, Daudon
M., Le Van Cuong, Greff M.: Etude comparative des
lithiases biliaires francaises et Vietnanmiennes par
spectrométrie infrarouge. Journée d’automne de la
Société Francaise d’Endoscopie digestive Acta
Endoscopica Vol28,
No 5, 1998, p624.
23. Maillard A.E.: Etude comparative des lithiases biliaires
francaises et vietnamiennes par spectrométrie
infrarouge. Mémoire, 1995:1-27.
24. Maki T.: Pathogenesis of calcium bilirubinate
gallstones: role of E.coli- glucuronidase and coagulation
by inorganic ions, polyelectrolytes and agitation. Anual
of surgery, Vol 164, No 1, 1996:90.
25. Mendez S.N., Porciano R.G., Jessurun J., Alonso
D.E.P., Romeo A.P., Uribe M.: Gallstone composition in
Mexican patients. Arch. Med. Res. Vol 26, No 1, 1995:
415-419.
26. Nahrwold D.L.: Chronic cholecytitis and cholelithiasis.
Textbook of surgery. 14th Edition W.B. Saunders
Company. 1991: 1057-1059.
27. Sali A.: Gallstones-Aetiology and dissolution. Maingot’s
abdominal operations Vol 2. 1991: 1381-1401.
28. Ti T.K., Wong C.W., Yuen R., Carrunanithy R.: The
chemical composition of gallstones: its relevance to
surgeons in Southeast Asian. Ann. Acad. Med.
Singapore. Vol 25. No 2. 1996: 255-258 (Medline).
29. Yagi T.: Some observations on chemical components of
gallstones in the Sendai district of Japan. Tohoku
Journal of experimental Medecine. Vol 71, No , 1960: 7
- 130 (Medline).
30.
Chuyên đề Hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV. Bình Dân 2004 162
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thanh_phan_hoa_hoc_cua_159_mau_soi_mat_o_nguoi_viet_nam_bang.pdf