Tài liệu Tên đường phố ở Đà Lạt thời Pháp thuộc từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
74
Tên đường phố ở Đà Lạt thời Pháp thuộc
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954
Dalat’s street names during the French colonial period
from early 20
th
century to 1954
ThS. Lê Thị Nhuấn,
Trường Đại học Đà Lạt
Le Thi Nhuan, M.A.,
Da Lat University
Tóm tắt
Bài viết tập trung mô tả hệ thống tên đường phố Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954. Thời gian này,
người Pháp đã xây dựng thành phố Đà Lạt với dáng dấp và bộ mặt đến nay vẫn còn thể hiện khá rõ nét
trên phương diện kiến trúc, giao thông, trong đó có tên đường phố bằng tiếng Pháp. Bên cạnh hệ thống
chỉ loại được sử dụng hoàn toàn theo quy định của Pháp, các yếu tố định danh được cấu tạo theo hai
kiểu ý nghĩa cơ bản: ý nghĩa mang tính đăng ký và ý nghĩa mang tính mô tả. Bằng các số liệu và dẫn
chứng cụ thể, bài viết giúp người đọc hình dung một hệ thống tên đường phố Đà Lạt với những điều
kiện lịch sử và chính trị, văn hóa khá đặc thù ở thời...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tên đường phố ở Đà Lạt thời Pháp thuộc từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
74
Tên đường phố ở Đà Lạt thời Pháp thuộc
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954
Dalat’s street names during the French colonial period
from early 20
th
century to 1954
ThS. Lê Thị Nhuấn,
Trường Đại học Đà Lạt
Le Thi Nhuan, M.A.,
Da Lat University
Tóm tắt
Bài viết tập trung mô tả hệ thống tên đường phố Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954. Thời gian này,
người Pháp đã xây dựng thành phố Đà Lạt với dáng dấp và bộ mặt đến nay vẫn còn thể hiện khá rõ nét
trên phương diện kiến trúc, giao thông, trong đó có tên đường phố bằng tiếng Pháp. Bên cạnh hệ thống
chỉ loại được sử dụng hoàn toàn theo quy định của Pháp, các yếu tố định danh được cấu tạo theo hai
kiểu ý nghĩa cơ bản: ý nghĩa mang tính đăng ký và ý nghĩa mang tính mô tả. Bằng các số liệu và dẫn
chứng cụ thể, bài viết giúp người đọc hình dung một hệ thống tên đường phố Đà Lạt với những điều
kiện lịch sử và chính trị, văn hóa khá đặc thù ở thời kỳ này.
Từ khóa: tên đường phố, đô thị Đà Lạt.
Abstract
The article focuses on describing the street name system in Dalat from early 20
th
century to 1954.
During that period, French people built Dalat city with the appearance which has been still under French
colonial’s influence in terms of architecture, traffic, including streets named in French. Besides the
system used completely in accordance with the stipulation of the French, the elements of naming were
structured in two ways of fundamental significance: the significance of registry nature and the
significance of description character. Via specific figures and evidences, the article helps the readers to
imagine the system of Dalat street names with the specific historical, cultural and political conditions of
this period.
Keywords: street names, Dalat city.
Đà Lạt nằm ở vị trí trung tâm của cao
nguyên Lang Bian, được bao bọc bởi
huyện Lạc Dương ở phía Bắc; phía Đông
và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương;
phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện
Lâm Hà và Đức Trọng. Đà Lạt được hình
thành từ năm 1893, khi bác sĩ A. Yersin1
đặt chân lên cao nguyên này. Trong
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ
nhất (1897 - 1914), người Pháp đã chủ
trương xây dựng nơi đây thành một trung
tâm nghỉ dưỡng của họ ở Viễn Đông.
Thông qua các bản đồ án quy hoạch của
kiến trúc sư, kĩ sư người Pháp, Đà Lạt đã
LÊ THỊ NHUẤN
75
có những bước chuyển mình trên nhiều
phương diện như hoạch định đô thị, thiết
lập bộ máy hành chính, xây dựng cơ sở hạ
tầng theo mô hình đô thị châu Âu. Lâu nay,
khi nhắc đến Đà Lạt, các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước chủ yếu đề cập đến
mảng kiến trúc ở Đà Lạt, còn tên đường
phố thời đó ít được các học giả quan tâm.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi
chỉ dừng lại khảo sát về tên đường phố ở
Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954.
1. Quá trình hình thành và phát triển
đô thị Đà Lạt từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1954
Trước khi người Pháp thám hiểm Đà
Lạt, đã có một nhóm người Lạch2 sinh sống
ở đó từ lâu đời, lập nên từng cộng đồng theo
huyết thống (bòn hoặc bon) quanh khu vực
con suối mang tên “Đạ Lạch” (từ khu vực
Học viện Lục quân (ngày nay) men theo
con suối đổ vào hồ Xuân Hương sau đó
chảy đến thác Cam Ly). Tên của bon3
thường được đặt theo tên của dòng họ
chiếm ưu thế, như: Bon Yồ, Bon Đờng, Bon
Đa Góut, Bon Nơr, Bon Lâm Biêng Sinh
hoạt kinh tế truyền thống của họ chủ yếu là
trồng lúa nước. Do đó, tên gọi Đà Lạt đã có
từ trước khi người Pháp tìm ra cao nguyên
Lang Bian. Cho đến nay, mặc dù có nhiều
cách lý giải khác nhau về địa danh này;
song, phần lớn đều thống nhất với cách
hiểu: Đạ là nước/sông/suối, Lạt là Lạch
(con suối của người Lạch). Cũng theo Phạm
Khắc Hòe, “Đà theo tiếng Cơ Ho là
nước/suối, Lạt là tên một bộ tộc ở dưới chân
núi Lang Bian. Đà Lạt là suối của người
Lạt[] Những người rởm chữ bảo
rằng, Đà Lạt là tên cấu thành từ 5 chữ cái
đứng đầu của mỗi chữ trong câu latin: Dat
Aliis Laetitiam Aliis Temperiem có nghĩa là
cho người này niềm vui cho người kia sức
khỏe. Đó là một cách hiểu sai đi ý nghĩa thật
của danh xưng Đà Lạt”4. Quan điểm của
Phạm Khắc Hòe khá trùng hợp với Cunhac
– trắc địa viên, công sứ đầu tiên của Đà Lạt
từ tháng 6 năm 1916 - “ở tại chỗ cái hồ
nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc
người Lạch chảy qua và người ta đã gọi suối
này là Đà Lạt (Da hay Dak tiếng Thượng5
nghĩa là nước) và không hiểu lý do gì mà
người ta đã thay thế danh xưng Việt Nam và
Cam Ly
6. Do đó có thể khẳng định, tên gọi
thành phố Đà Lạt cũng bắt nguồn từ đó: Đạ
Lạch (suối của người Lạch).
Với mục đích muốn tìm một nơi nghỉ
dưỡng dành cho binh lính Pháp tránh được
nắng nóng ở đồng bằng, theo đề nghị của
bác sĩ A. Yersin, toàn quyền Pháp là Paul
Doumer
7
đã chọn cao nguyên Lang Bian
làm nơi nghỉ dưỡng. Đây là dấu mốc quan
trọng, quyết định vị trí và diện mạo của Đà
Lạt ngày nay. Việc phát hiện Đankia của
Yersin hội đủ yếu tố phát triển đô thị là một
tầm nhìn lớn, vĩ đại, có giá trị.
Gắn liền với quá trình tìm và xây dựng
Đà Lạt, những người Việt đầu tiên có mặt
tại cao nguyên Lang Bian (Đà Lạt) là
những người tham gia đoàn thám hiểm của
Yersin
8
. Năm 1905, bác sĩ Vassal, J.J đã
viết về những người Việt lên Đà Lạt:
“người Việt chưa thành công trong việc
định cư ở miền núi cao trên dãy Trường
Sơn. Ở Đà Lạt, có một nhóm khoảng 60
đến 80 người. Hầu hết, họ là những người
đi buôn chuyến, sống trong những điều
kiện gian khổ, mặc quần áo như ở đồng
bằng, bị lạnh, ăn uống thiếu thốn và không
có gia đình. Họ đến từ Phan Rang hay
Phan Thiết với đôi quang gánh, trước khi
đến được cao nguyên họ đã đi ngang qua
ngôi làng rất độc, những vùng nguy hiểm
và bị bệnh sốt rét”9. Cuộc sống của người
Việt đầu tiên ở vùng đất mới khá khó khăn,
gian khổ. Họ phải đối phó với khung cảnh
TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954
76
thiên nhiên còn hoang sơ. Nhưng sự có mặt
của họ đã góp phần làm cho Đà Lạt biến
đổi, mở đầu cho sự ra đời của một đô thị
trên cao nguyên Lang Bian. Cũng trong
năm này, Paul Champoudry - thị trưởng
đầu tiên của đô thị Đà Lạt - “không thị
dân”10 đã trực tiếp phác thảo đồ án quy
hoạch Đà Lạt theo phương pháp quy hoạch
phân khu chức năng (zonning), kèm theo
dự án chỉnh trang và phân lô đất.
Năm 1906, Đà Lạt không thay đổi
nhiều do giao thông đi lại khó khăn và kinh
phí đầu tư còn hạn chế. Năm 1908, trong
một chuyến lên Đà Lạt, một người Pháp đã
mô tả Đà Lạt như sau: “Đà Lạt! Tám hay
mười nóc nhà tranh của người Việt, một
nhà sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách,
một vòi nước, quảng trường, chợ, một nhà
bưu điện đơn sơ và trên ngọn đồi, sau hàng
rào và giữa rặng thông xanh vào cái nhà
gạch của trung tâm thành phố Đà Lạt11.
Năm 1910, ngoài cư dân tại chỗ còn có số
ít người Việt là nhân viên đo đạc. Họ cư trú
tập trung ở hai bên suối Cam Ly – con suối
chính của Đà Lạt. Một số người ở Mỏ Cày
(Bến Tre) đã đến Phan Rang (Ninh Thuận)
thành lập sở muối Cà Ná và lên Đà Lạt mở
lò làm gạch tại suối Cam Ly giữa Hồ Xuân
Hương ngày nay. Thời gian này, những
người Việt được đưa lên cao nguyên Lang
Bian là những tù nhân tham gia phong trào
kháng thuế ở Trung kỳ, họ là những người
thay vì phải lưu đày ở Lao Bảo hay Côn
Lôn đã bị đưa lên Ðà Lạt để khai phá đất
hoang, xây dựng nhà cửa, đường sá. Ngoài
ra, một bộ phận những người giúp việc
trong các phái đoàn nghiên cứu, những
người đi buôn... cũng tìm đến Đà Lạt.
Những nguyên nhân dẫn đến sự thay
đổi nhanh chóng kể trên của Đà Lạt trước
hết phải kể đến sự tác động của tình hình
chính trị trên thế giới. Hai cuộc chiến tranh
thế giới (1914-1918 và 1939-1945) đã làm
cho những người Pháp ở Đông Dương
không thể về Pháp nghỉ hè.
Một điều kiện thuận lợi là về giao
thông như đường ô tô, đường sắt từ Sài
Gòn và các tỉnh miền Trung lên Đà Lạt đã
được hoàn thiện. Nhờ đó, sự giao lưu giữa
Đà Lạt với các vùng khác khá thuận tiện.
Từ năm 1914, những công trình công cộng
đầu tiên được xây dựng, các trục đường
chính trong thành phố cũng được hình
thành dưới thời Thị trưởng Đà Lạt là
Canlvey (1909-1916). Trục đường chính
phía Nam suối Cam Ly nơi đặt địa điểm
của khu trung tâm hành chính gồm các
đường Paul Doumer, Yersin, Jean O’Neill.
Về hành chính, Đà Lạt trở thành một
tỉnh lỵ của tỉnh Lang Bian sau quyết định
ngày 6/1/1916 của toàn quyền Paul
Doumer. Tiếp đến, vào tháng 3 năm Bính
Thìn tức năm 1916, vua Duy Tân cho thiết
lập thị xã Lâm Viên. Sách “Đại Nam thực
lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên”, mục
thứ 2032 cho biết: “Lúc đầu, vì địa thế
Lâm Viên rộng rãi, khí hậu mát mẻ, tương
lai có thể thành nơi đô hội đông đúc, đã đặt
riêng làm một tỉnh. Lúc ấy, nghĩ đặt thêm ở
xứ Đà Lạt một thị xã và dinh thự nhà cửa,
cùng công sảnh biện sự Đông Dương đều
lần lượt xây dựng, còn nhân dân như ai
muốn tới ở đất quan phòng quanh thành,
xây dựng nhà cửa làm ăn sinh sống cũng
cho, chuẩn theo lời nghị mới tuân hành12.
Vua Duy Tân còn chuẩn bàn cấp cho tri
huyện người Việt ở tỉnh Lâm Viên ấn,
kiếm đều một quả, ấn khắc chữ Lâm Viên
Nam Tri Huyện, kiếm khắc hai chữ Lâm
Viên
13. Có thể thấy rằng, sách “Đại Nam
chính biên đệ lục kỷ phụ biên” đã có những
ghi chép cụ thể về việc đặt tri huyện người
Việt đầu tiên cho tỉnh lỵ mới Lâm Viên
cùng với chỉ dụ của vua Duy Tân cho
LÊ THỊ NHUẤN
77
thành lập thị xã Lâm Viên ở xứ Đà Lạt.
Về quy hoạch đô thị, gồm các đồ án
quy hoạch của các kiến trúc sư, kĩ sư như
Jean O’Neill, Ernest Hébrard Jean
O’Neill đã đưa ra đồ án quy hoạch vào năm
1919. Ông bố trí 1 khu cho người Việt gọi
là “làng người An Nam” tại khu vực ấp
Ánh Sáng ngày nay, nhằm đảm bảo nguồn
nhân công ổn định cho các công trường
đang triển khai ồ ạt tại Đà Lạt. Ernest
Hébrard đã đưa ra bản đồ án quy hoạch vào
năm 1923. Trong đồ án của Hébrard là
muốn xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ liên
bang Đông Dương với khoảng 300.000
dân. Trong bản đồ án này, Đà Lạt gồm 3
khu đô thị lớn là: Khu đô thị của người Việt
(284 ha); khu đô thị cho người Âu (280 ha);
và 02 khu trung tâm hành chính
14
... (người
dân tộc tại chỗ như người Lạch gần như
không được di dân về đô thị).
Từ năm 1923, dưới thời Thị trưởng
Ganier (1920-1926) thành phố được quy
hoạch theo đồ án của kiến trúc sư Ernest
Hébrard. Từ các trục đường chính của
thành phố đã phát triển thêm những đường
khu vực gồm đường cấp 1 khu dân cư và
đường cấp 1 khu thương mại như đường
Pasteur; Gia Long, Đồng Khánh,
Maréchal Foch, Cầu Quẹo, Hôpital, Gare.
Một số tuyến nhánh chính cũng được hình
thành: Robinson, Rue des Missions, Prenn,
Jean O’Neill, Bourgery
Trong những năm đầu thập niên 30 của
thế kỷ XX, Đà Lạt đã thu hút được nguồn
tài chính lớn để phát triển, tiếp tục được
đầu tư và trở thành một thành phố nghỉ mát
nổi tiếng. Cùng với các công trình xây dựng
và tuyến đường giao thông trong khu vực
nội thành được mở rộng dưới thời các Thị
trưởng Darles Auguste, Champoudry,
Lucien Auger. Các đường cấp 2 khu trung
tâm thương mại quanh chợ; đường khu dân
cư như Bellevue, Cité des Pics, đường René
Robin, đường Trại Hầm15.
Theo Nghị định ngày 2-9-1941, Toàn
quyền Decoux đã giao cho Nha Quy hoạch
đô thị và Kiến trúc Đông Dương nghiên
cứu và hoàn thành đồ án. Năm 1942,
Jacques Lagisquet đã thiết lập đồ án chỉnh
trang và phát triển Đà Lạt. Đà Lạt sẽ được
tổ chức thành một thể thống nhất tập trung
ở hai trục đường khung sườn của thành phố
và sự phát triển được dự tính sẽ về Nam
suối Cam Ly, theo hướng Tây và Tây
Bắc16. Đồ án này đã làm rõ và nổi bật các
đặc tính riêng của Đà Lạt: trung tâm nghỉ
dưỡng, thành phố học đường, trung tâm văn
hóa, du lịch... Các phân khu chức năng
được tổ chức hợp lý, phù hợp với thực tế và
xác định cụ thể phạm vi của những không
gian trống, những khu vực bất kiến tạo để
bảo vệ cảnh quan thiên nhiên Đà Lạt thời
kỳ bước vào đỉnh cao của thực dân Pháp.
Các đồ án của mỗi kiến trúc sư, kĩ sư
tuy có nhiều khác biệt, nhưng luôn mang
tính kế thừa lẫn nhau và được điều chỉnh
để phù hợp với điều kiện thực tế của từng
thời kỳ. Theo đó, các điểm cao, sườn đồi và
thung lũng được khai thác để xây dựng
công trình với những quy định nghiêm ngặt
về quy mô và khoảng cách hợp lý, hòa
nhập và làm tăng thêm giá trị địa hình và
cảnh quan tự nhiên cho Đà Lạt.
Cùng với việc xây dựng đô thị, dân số
ở Đà Lạt gia tăng khá nhanh. Năm 1923 là
1.500 người và năm 1930, Đà Lạt có
khoảng 350 người châu Âu, 10.000 người
Việt, 1.700 cư dân từ Sài Gòn lên nghỉ
mát
17
. Quá trình tập trung dân số trong nội
thành đô thị đã khiến Đà Lạt phát triển các
loại hình dịch vụ để phục vụ cho sinh hoạt
của một tầng lớp thị dân như rạp hát, rạp
chiếu bóng, khu vui chơi, giải trí... Điều
này chứng tỏ lối sống thị dân ở đô thị Đà
TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954
78
Lạt đã hình thành.
2. Tên đường phố Đà Lạt từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1954
2.1. Từ 1915 đến trước năm 1945
2.1.1. Yếu tố chỉ loại
Giống như mọi đơn vị định danh, mỗi
tên đường (74 con đường thời kỳ này) là
một phức thể địa danh gồm hai phần chỉ
loại và phần định danh. Trên “Sơ đồ Đà
Lạt” (Plan de Dalat) do Tòa Thị chính Đà
Lạt ấn hành trước năm 1954, Đà Lạt có 3
loại đường: đại lộ (boulevard, avenue),
đường nhựa (rue), đường trải đá (route).
- Boulevard Lamartine
- Avenue: Paul Doumer, Pierre
Pasquier, Albert Sarraut, Roume, René Robin,
Graffeuil, Docteur Yersin, Jean O’Neil
- Rue: Pasteur, Calmette, Champoudry,
Cunhac, Gia Long, Minh Mạng,...
- Route de Dankia, Prenn, Robinson, Route
fédérale N
o
11 (Đường Liên bang số 11),...
Với phương thức sử dụng từ chỉ loại
này, chính quyền Pháp đã áp đặt hoàn toàn
ý nghĩa của các từ tiếng Pháp vào khi xây
dựng tên cho đường phố Đà Lạt. Giữa phần
chỉ loại và phần định danh thường được nối
bằng phân từ sở hữu là de, des khi phần
định danh là một danh từ.
Bảng 1. Tên đường phố mang phân từ sở hữu
STT Tên cũ (trước năm 1945) Tên mới (thay đổi về sau)
1 De Gaulle (quảng trường) Diên Hồng
2 De Lattre de Tassigny Trình Minh Thế, Khởi nghĩa Bắc Sơn
3 Louat de Boart Cô Giang + Phó Đức Chính
4 Cité des Pics Bảo Long, Vạn Kiếp
5 Rue de la Gare Nguyễn Trãi
6 Rue des Missions Nhà Chung
7
Place de Saint Nicolas (Quảng
trường Thánh Nicolas)
Công trường Cộng Hòa
Nguồn: Tác giả tổng hợp và phân loại
2.1.2. Cấu tạo phức thể tên đường phố
Đà Lạt
Từ góc độ ngữ nghĩa, nhà địa danh học
người Nga Superanskaja đã chia địa danh
làm 5 loại, tương ứng với các phương thức
cấu tạo địa danh ý nghĩa là địa danh kí
hiệu, địa danh mô tả, địa danh đăng ký, địa
danh thể hiện ước vọng và địa danh do yếu
tố lịch sử18. Tuy nhiên, trong quá trình
khảo sát tên đường phố Đà Lạt chúng tôi
nhận thấy ở đây chỉ có các lớp địa danh
đăng ký, địa danh mô tả.
a. Lớp tên mang ý nghĩa đăng ký
Khi người Pháp đến Đà Lạt đặt tên cho
các đường phố và những công trình xây
dựng đều được ghi bằng tiếng Pháp. Hệ
thống tên đường phố Đà Lạt giai đoạn
Pháp thuộc chiếm vị trí hết sức đặc biệt, bị
quy định bởi điều kiện chính trị, lịch sử đặc
thù của giai đoạn này đó là lớp địa danh sử
dụng loại tên có giá trị đăng ký theo hệ
thống phân loại của các nhà địa danh học.
Với mục đích khẳng định hơn nữa vị
trí, quyền lực của mình tại Việt Nam,
LÊ THỊ NHUẤN
79
khẳng định ý tưởng xây dựng một đô thị
thuộc địa của Pháp, chính quyền thực dân
đã ra quy định về việc sử dụng nhân danh
và lựa chọn tên cho đường phố: Tên của
toàn quyền Đông Dương; tên của thống
chế, đô đốc, tướng Pháp; tên của thị trưởng
Đà Lạt; tên của các đoàn truyền giáo; tên
của các nhân vật lịch sử Việt Nam...
Từ quy định này, việc sử dụng nhân
danh trở thành khuynh hướng chủ yếu
trong việc đặt tên các con phố ở Đà Lạt.
Phần lớn, tên của các nhà chính trị, quân sự
có liên quan hoặc có công trong công cuộc
xâm lược và bình định Việt Nam như: Paul
Doumer - nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính
Pháp đồng thời là tác giả của “Chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất” và
cũng là người thiết kế cho chế độ thuộc địa
Pháp ở Đông Dương. Chính Paul Doumer
đã đánh đòn quyết định vào chủ quyền
thống nhất vốn có của Việt Nam, thắt chặt
các quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam
so với “Hiệp ước 1884”.
Tiếp đến, tên của các toàn quyền Đông
Dương như Albert Pierre Sarraut – toàn
quyền lần thứ nhất từ năm 1911 – 191419;
toàn quyền Ernest Nestor Roume từ năm
1915-1916
20
; toàn quyền Đông Dương
Eugène Jean Louis René Robin từ năm
1930 - 1932; toàn quyền Đông Dương Jean
Decoux từ năm 1940 – 194521 Bên cạnh
đó, tên của khâm sứ Pháp như Graffeuil
(nay là đường Hùng Vương); tên của thống
chế, đô đốc, tướng Pháp: Maréchal Foch
(nay là đường Ba Tháng Hai)...; tên của các
thị trưởng Đà Lạt: Champoudry làm thị
trưởng từ 1901-1908 (nay là đường Lê
Hồng Phong), Cunhac làm thị trưởng từ
1916-1920, Helgouach từ 1926-1930,
Auguste Darles từ 1930-1934; tên của
kiến trúc sư, kĩ sư thiết kế Đà Lạt như Jean
O’Neill (nay là Hoàng Văn Thụ); tên của
đoàn truyền giáo như Missions (nay là Nhà
Chung); tên của một số nhà bác học, bác sĩ
nổi tiếng, nhà thơ... cũng được xuất hiện
trên một số đường phố như Pasteur (đường
Hai Bà Trưng ngày nay), đường Calmette –
mang tên bác sĩ đã tìm ra thuốc phòng bệnh
lao cho trẻ sơ sinh (nay được đổi thành
đường Ngô Quyền), đường Yersin (nay là
đường Trần Phú), đường Lamartine (nay là
đường Bà Huyện Thanh Quan). Ngoài ra,
tên của doanh nhân Pháp cũng được đặt tại
Đà Lạt như đường Bourgery. Trong những
năm 1930, ông Robert Clément Bourgery
là doanh nhân người Pháp đã xây dựng
ngôi biệt thự ở Đà Lạt. Con đường từ biệt
thự này đến đường Graffeuil mang tên
Bourgery, sau đó Bảo Đại đã mua lại biệt
thự Bourgery và đặt tên là Dinh Gia Long.
Mặt khác, thực dân Pháp còn đặt tên một
số địa danh như Annam (Trung Kỳ22),
France (nước Pháp) ở Đà Lạt để nhằm mục
đích tôn vinh.
Cùng với các tên đường phố mang tên
người Pháp, tên đường phố mang tên người
Việt cũng xuất hiện trên một số con phố.
Theo thống kê tên phố của Đà Lạt trước
năm 1945 cho thấy, ở Đà Lạt chỉ có một số
ít con đường mang tên người Việt Nam.
Ngoài tên của một số nhân vật lịch sử như
Gia Long (đường Lê Đại Hành ngày nay),
Minh Mạng (nay là Trương Công Định),
Đồng Khánh (nay là Nguyễn Chí Thanh),
Khải Định (nay là Nguyễn Văn Cừ); tên
một số người Việt thân với Pháp cũng
được sử dụng như Quận Công Long Mỹ
(nay là đường Thủ Khoa Huân); Hà Văn
Ký (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa).
b. Lớp địa danh có ý nghĩa mô tả
Cùng với hệ thống địa danh mang tính
đăng ký bằng tên người, sự tồn tại của
nhóm địa danh mang tính mô tả đã tạo nên
nét đặc thù của đô thị Đà Lạt từ đầu thế kỷ
TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954
80
XX đến năm 1954.
Trước hết, lớp địa danh này được thể
hiện qua tên phố chỉ nghề nghiệp như Lò
Gạch (nay là Hoàng Diệu) – khu vực có
nhiều người ở Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Thừa Thiên – Huế và Nam Bộ đến Đà Lạt
đốt lò làm gạch.
Tiếp đó, cùng với địa danh mang ý
nghĩa mô tả nghề nghiệp, đối với một số
phố khác, phương thức mô tả vẫn được sử
dụng như một phương thức rất thuận lợi và
hữu hiệu. Đối tượng sử dụng để mô tả
tương đối đa dạng. Dưới đây là những loại
đối tượng chủ yếu được lựa chọn:
Thứ nhất, chọn một địa điểm có tính
đặc trưng nhất như Cité des Pics (Cư xá
Đỉnh núi)23 (Vạn Kiếp ngày nay); Prenn
(Nguyễn Tri Phương24 + Đặng Thái Thân +
Trần Nhân Tôn) – tiếng Thượng với nghĩa
là cây cà đắng, là một món ăn được đồng
bào các dân tộc tại chỗ ở đây ưa thích và
mọc khá nhiều dọc theo con suối cùng tên;
Hôpital (nay là đường Hải Thượng) vì gần
bệnh viện, Dốc Nhà Bò (ngày xưa, ở cuối
dốc có một trại nuôi bò của người Pháp)
(nay là đường Đào Duy Từ); Gare (nhà
ga); Jardins (vườn rau)...
Thứ hai, chọn đặc điểm về hình dạng
địa lý của phố như trường hợp Clémenceau
(ngã tư); Dốc Trại Hầm (nay là đường
Hoàng Hoa Thám); Dankir là một hồ nước
gần nơi cư trú của người Lạch ở huyện Lạc
Dương; Cầu Quẹo để chỉ con đường bị
cong. Basse du Camly (Cam Ly Hạ) -
người Lạch gọi thác Cam Ly là Liang Tô
Sra (Thác ông Tô, bà Sra). Khi chuyên
viên trắc địa người Pháp vẽ bản đồ hỏi
trưởng buôn thác nước tên gì, ông tưởng
hỏi tên ông nên trả lời: “K’Mlơi”. Người
Pháp ghi K’Mlơi là Camly. Từ đó, từ
Camly được dùng để gọi tên thác Liang Tô
Sra và dòng suối Cam Ly.
Thứ ba, dùng tên các loài hoa để đặt
tên đường như đường Rue des Roses
(đường Hoa Hồng, nay là đường Huỳnh
Thúc Kháng), Rue des Glaieuls (đường
Hoa Lay – ơn)
2.2. Từ năm 1945
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đà Lạt
được giao cho người Việt Nam quản lý.
Ngày 25-8-1945, Ủy ban Cách mạng lâm
thời Thị xã Đà Lạt được thành lập, báo
hiệu thời kỳ độc chiếm nơi đây của người
Pháp sắp kết thúc. Nhưng sau đó, Bảo Đại
đã ký thỏa hiệp với Pháp về vấn đề Đà Lạt
và Tây Nguyên vào năm 1949. Theo thỏa
hiệp này, Pháp nhìn nhận Việt Nam là một
quốc gia “độc lập và thống nhất”, nhưng
trên thực tế là một sự mặc cả giữa Bảo Đại
và Bollaert. Pháp đã khuyên Bảo Đại nên
tách Tây Nguyên thành một đơn vị hành
chính riêng. Theo đó, ngày 14-4-1950, Bảo
Đại ra Dụ số 6-QT/TD lập nên “Hoàng
triều cương thổ” và chọn Đà Lạt làm trung
tâm. Sau đó, ngày 10-11-1950, Bảo Đại
tiếp tục ra Dụ số 4-QT/TD với nội dung
sửa đổi địa giới hành chính thị xã Đà Lạt
và sáp nhập một phần tỉnh Lâm Viên vào
tỉnh Đồng Nai Thượng25. Bởi sự thay đổi
đó, kể từ đây, người Việt không còn tự do
lên định cư ở Đà Lạt như trước. Năm 1952,
trước tình hình thất bại của quân đội Pháp,
chính phủ Pháp đã cố bám lấy giải pháp
“trung lập” ở Đà Lạt bằng cách bàn với
Bảo Đại cho phép dân di cư lên Đà Lạt để
thực hiện chương trình kiến thiết “Hoàng
triều cương thổ”26.
Năm 1953, nhà báo Nguyễn Vỹ - Chủ
nhiệm kiêm Chủ bút báo Dân chủ, Dân ta
xuất bản ở Đà Lạt, Chủ tịch Hội đồng Thị
xã Đà Lạt đã đổi hầu hết tên đường tiếng
Pháp ở Đà Lạt sang tiếng Việt, chỉ giữ lại
tên nhà bác học Pasteur, các bác sĩ:
Calmette, Yersin. Các tên đường Gia Long,
LÊ THỊ NHUẤN
81
Khải Định, Duc de Long Mỹ được đổi
thành Lê Đại Hành, Cường Để, Thủ khoa
Huân; Cầu Quẹo thành Phan Đình Phùng,
Lò Gạch thành Hoàng Diệu, đường
Bourgery thành Lý Thái Tổ, đường
Graffeuil thành đường Lê Thái Tổ... và đặt
thêm nhiều con đường mới như Tăng Bạt
Hổ, Trần Nhật Duật, Cô Bắc27... Tại làng
Đa Thành (nay là Phường 7) ở Đà Lạt
trước năm 1953 có 5 con đường làng mang
tên: Đệ nhất lộ, Đệ nhị lộ, Đệ tam lộ, Đệ tứ
lộ, Đệ ngũ lộ. Sau năm 1953, đã có sự thay
đổi từ đường mang tên Pháp sang đường
mang tên Việt.
Bảng 2. Tên đường làng Đa Thành Đà Lạt năm 195328
Tên đường cũ Tên Pháp Tên đường mới từ năm 1953
Đệ nhất lộ Première route de Da Thanh Cao Bá Quát
Đệ nhị lộ Deuxième route de Da Thanh Nguyễn Siêu
Đệ tam lộ Troisième route de Da Thanh Đinh Công Tráng
Đệ tứ lộ Quatrième route de Da Thanh Bạch Đằng
Đệ ngũ lộ Cinquième route de Da Thanh Cao Thắng
Tóm lại, các tên đường phố ở Đà Lạt từ
đầu thế kỷ XX đến trước năm 1945 chủ yếu
mang tên người Pháp, chỉ có một số ít là
người Việt. Việc đặt tên đường phố mang
tên Pháp của các nhà cầm quyền Pháp ở Đà
Lạt với mục đích muốn biến nơi đây thành
xứ “tự trị” trong liên bang Đông Dương
thuộc Pháp. Những dấu ấn người Pháp để
lại cho Đà Lạt như kiến trúc và giao thông
đô thị đều nằm ngoài ý muốn chủ quan của
họ. Cố nhiên, do những biến động của tình
hình chính trị ở thế giới và Việt Nam, nên
những chủ đích của chính quyền thực dân
đều không thể thực hiện được. Do đó, năm
1945 – thời điểm kết thúc giai đoạn phát
triển đỉnh cao của đô thị Đà Lạt. Sau 1953,
hầu hết tên đường phố ở Đà Lạt mang tên
người Pháp đều được đổi thành tên người
Việt. Từ việc nghiên cứu tên đường phố Đà
Lạt, chúng tôi hy vọng góp phần nhận diện
bước chuyển mình của Đà Lạt từ mô hình
nông thôn sang mô hình đô thị phương Tây
hiện đại.
Chú thích
1
Alexandre John Émile Yersin (1863-1943) - bác
sĩ, Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang, đã đặt
chân lên cao nguyên Lang Bian ngày 21-6-1893.
2
Người Lạch là một trong 6 nhóm địa phương của
dân tộc Cơ Ho (Làc/Lạch, Cil, Srê, Cơ-dòn, Nộp,
T’ring).
3
Bòn là đơn vị tổ chức xã hội cơ bản của nhiều dân
tộc thuộc nhóm Môn – Khmer. Từ bon có nghĩa
tương tự như làng trong tiếng Việt.
4
Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế đến
chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội, tr.226-227.
5
Thượng/thượng du, những người ở vùng dưới
thường gọi những cư dân ở khu vực Trường Sơn –
Tây Nguyên là người Thượng.
6
Xem: Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Địa
chí Đà Lạt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
7
Paul Doumer – Toàn quyền Đông Dương đã lên
cao nguyên Lang Bian vào tháng 3 năm 1899 và
ký Nghị định thành lập trạm hành chính trên Cao
nguyên Lang Bian.
8
Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993), Đà
Lạt thành phố cao nguyên, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 100.
9
J.J. Vassal (1907), “Le Langbian”, Revue
Indochinoise, Hanoi, N
o
53 - 54, page 358 (tài liệu
lưu tại Thư viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh).
TÊN ĐƯỜNG PHỐ Ở ĐÀ LẠT THỜI PHÁP THU C TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1954
82
10
Những năm đầu thế kỷ XX, cư dân tại chỗ là một
số bong làng người Lạch cư trú ở Đà Lạt không
phải là thị dân. Do đó, họ không thuộc cư dân
trong các đồ án quy hoạch của người Pháp. Trong
quá trình xây dựng đô thị Đà Lạt, người Pháp đã
di dời các buôn làng ở quanh hồ Grand Lac (nay
là hồ Xuân Hương) về chân núi Lang Bian.
11
Paul Duclax (1994), Dalat de 1907, A. Chaval
dan la nature Sanvoge, Revue Indochine, N
0
99 –
Dẫn theo Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành
phố hoa Đà Lạt, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.95.
12
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam
thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao Tự
Thanh (dịch), Nxb Văn hóa văn nghệ, tr.240.
13
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr.240.
14
Hébrard, Ernest (1923), Futur plan de Dalat.
15
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Tài
liệu đã dẫn, tr.246-247.
16
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (1993), Tài
liệu đã dẫn, tr.162.
17
Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr.240.
18
Nguyễn Thị Việt Thanh (2014), “Địa danh hành
chính Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XIX”, in
trong 25 năm Việt Nam học theo định hướng
liên ngành, tr.343.
19
Albert Pierre Sarraut đã mua chuộc, tầng lớp
thượng lưu trí thức mới hình thành, bộ máy
chính quyền ấy đã có những điều chỉnh nhất
định cho có vẻ “Pháp – Việt đề huề”.
20
Roume đã quyết định tiếp tục xây dựng Đà Lạt
từ năm 1915.
21
Jean Decoux đã có ý định biến Đà Lạt thành thủ
đô của 3 nước Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia).
22
Theo “hiệp ước Harmand” ký năm 1883, Trung
Kỳ (tiếng Pháp gọi là Annam) kéo dài từ Đèo
Ngang đến phía Bắc tỉnh Bình Thuận.
23
Còn gọi là Decoux.
24
Từ năm 1976, đường Nguyễn Tri Phương đổi
thành đường 3 tháng 4.
25
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Tài
liệu đã dẫn, tr.16.
26
Mộ nhân công lên cao nguyên miền Nam
(1952), Phông Phủ Thủ hiến Trung Việt, Hồ sơ
2479 (Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc
gia IV).
27
Cô Bắc (1908-1943), tên thật là Nguyễn Thị
Bắc, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho
thanh bạch ở phủ Lạng Thương (nay là tỉnh Bắc
Giang). Là đảng viên Việt Nam Quốc Dân
Đảng, bà cùng với em là Nguyễn Thị Giang đảm
nhiệm việc giao liên, tuyên truyền và phát triển
Việt Nam Quốc Dân Đảng trong binh lính. Sau
khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, bà bị bắt,
nhưng vẫn hiên ngang, bất khuất trước Hội đồng
đề hình họp ngày 28-3-1930 tại Yên Bái, lên án
chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam.
28
Nguyễn Hữu Tranh, Tên đường phố Đà Lạt (bản
đánh máy), cung cấp năm 2015.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành phố hoa
Đà Lạt, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bản đồ Thị xã Đà Lạt (1960), Phân cục Địa
dư Đà Lạt.
3. Hébrard, Ernest (1923), Futur plan de Dalat.
4. Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế
đến chiến khu Việt Bắc, Nxb Hà Nội.
5. J.J. Vassal (1907), “Le Langbian”, Revue
Indochinoise, Hanoi, No 53 – 54 (tài liệu tại
Thư viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh).
6. Mộ nhân công lên cao nguyên miền Nam
(1952), Phông Phủ Thủ hiến Trung Việt, Hồ
sơ 2479 (Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ
Quốc gia IV).
7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam
thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao
Tự Thanh (dịch), Nxb Văn hóa văn nghệ.
8. Nguyễn Thị Việt Thanh (2014), “Địa danh
hành chính Thăng Long – Hà Nội thế kỷ
XIX”, in trong 25 năm Việt Nam học theo
định hướng liên ngành, tr.343.
9. Nguyễn Hữu Tranh (2001), Đà Lạt năm xưa,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993),
Đà Lạt thành phố cao nguyên, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
11. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (2008),
Địa chí Đà Lạt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
Ngày nhận bài: 29/9/2015 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 40_8688_2215092.pdf