Tạo lập, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai

Tài liệu Tạo lập, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ46 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G 1. Tiếp cận thuật ngữ tài sản trí tuệ và tài sản trí tuệ địa phương 1.1. Tài sản trí tuệ Cùng với sự phát triển của chế định sở hữu trí tuệ (SHTT), thuật ngữ “tài sản trí tuệ” ngày càng được sử dụng phổ biến và hiện diện trong các văn bản pháp luật của Việt Nam, kể cả các văn bản quy phạm pháp luật. Điển hình như quy định về khái niệm “quyền SHTT” trong Luật SHTT với việc lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tài sản trí tuệ”một cách có chủ định: “Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” (Điều 4.1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009). Tuy nhiên, Luật SHTT lại không làm rõ khái niệm “tài sản trí tuệ” để làm cơ sở cho việc hiểu về quyền SHTT và có vẻ như đây là một khái niệm được thừ...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo lập, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ46 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G 1. Tiếp cận thuật ngữ tài sản trí tuệ và tài sản trí tuệ địa phương 1.1. Tài sản trí tuệ Cùng với sự phát triển của chế định sở hữu trí tuệ (SHTT), thuật ngữ “tài sản trí tuệ” ngày càng được sử dụng phổ biến và hiện diện trong các văn bản pháp luật của Việt Nam, kể cả các văn bản quy phạm pháp luật. Điển hình như quy định về khái niệm “quyền SHTT” trong Luật SHTT với việc lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tài sản trí tuệ”một cách có chủ định: “Quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” (Điều 4.1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009). Tuy nhiên, Luật SHTT lại không làm rõ khái niệm “tài sản trí tuệ” để làm cơ sở cho việc hiểu về quyền SHTT và có vẻ như đây là một khái niệm được thừa nhận chung. Thực tế không đơn giản như vậy vì từ khái niệm quyền SHTT nêu trên có thể nhận thấy quyền SHTT và tài sản trí tuệ là hai phạm trù Tạo lập, bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai ThS. PHẠM ANH VĂN Sở Khoa học và Công nghệ Gia Lai Gia Lai là tỉnh có vị trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng của vùng Tây Nguyên. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh phong phú, đa dạng; có nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vỹ, nhiều thắng cảnh đẹp; khí hậu mát mẻ, trong lành và có nền văn hóa bản địa đặc sắc với “Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên”... Các tài sản trí tuệ địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra điểm khác biệt của Gia Lai, đồng thời là cách thức bảo tồn và khai thác nguồn tài sản vô hình này một cách hợp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, chỉ một số ít các tài sản trí tuệ địa phương đó mới được đăng ký và khai thác hiệu quả trong kinh tế cũng như phát triển du lịch. Bài viết phân tích thực trạng đăng ký và khai thác tài sản trí tuệ địa phương đồng thời gợi mở một số hướng đi để gắn kết chiến lược khai thác tài sản trí tuệ địa phương và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội - du lịch ở Gia Lai. liên quan mật thiết đến nhau nhưng không phải là sự đồng nhất, tài sản trí tuệ là khái niệm tổng quát và bao trùm quyền SHTT [6]. Tài sản trí tuệ (intellectual asset) thường được hiểu là tất cả các sản phẩm của hoạt động trí tuệ: các ý tưởng, các tác phẩm sáng tạo văn học/ nghệ thuật, các công trình khoa học, các sáng chế,phần mềm máy tính,... Có thể nói, tài sản trí tuệ là một dạng tài sản vô hình. Ngoài các đặc tính chung như các dạng tài sản vô hình khác, các tài sản trí tuệ lại có các đặc tính riêng, đó là tính sáng tạo và đổi mới (là một đối tượng mới được tạo ra hoặc là một đối tượng đã có nhưng được bổ sung cái mới). Đồng thời, tài sản trí tuệ cũng là khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như kế toán, đầu tư, quản trị. Tuy cách tiếp cận khác nhau nhưng tài sản trí tuệ được hiểu một cách chung nhất, “là tài sản vô hình của KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 47 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19doanh nghiệp, có khả năng tạo ra giá trị cho doanh nghiệp được tạo ra bởi hoạt động đổi mới sáng tạo, sáng chế, những thiết kế độc đáo của tổ chức hoặc những hoạt động khác của nhân viên” [3, trang 7]. 1.2. Tài sản trí tuệ địa phương Từ khái niệm về tài sản trí tuệ của UNESCO, Lê Thị Thu Hà đã phát triển thêm khái niệm tài sản trí tuệ địa phương, “là tri thức do con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo có mối liên hệ chặt chẽ với điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội và con người của một vùng đất hoặc khu vực địa lý, có khả năng ứng dụng và tạo ra giá trị từ việc sử dụng tri thức đó” [4]. Từ tiếp cận về TSTT gắn với tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn của địa phương, Lê Thị Thu Hà đã phân chia TSTT thành các nhóm sau: - Thương hiệu (Brand): Thuật ngữ thương hiệu được hiểu theo nghĩa hẹp nhất là các tên gọi gắn liền với điểm du lịch một địa phương nhưng lại là yếu tố quan trọng nhất đối với thương hiệu địa phương trong phát triển du lịch hay là yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của du lịch địa phương đó. Các thương hiệu này thường được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu tập thể để tạo ra công cụ quản trị hữu hiệu đối với các thương hiệu địa phương và thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm dựa vào văn hóa. Các thương hiệu du lịch sẽ đạt được sự nhận biết rộng rãi trên phạm vi quốc tế khi được chứng nhận bởi các tổ chức quốc tế như di sản văn hóa thế giới của UNESCO. - Các đặc sản địa phương: Đặc sản địa phương là cách gọi chung dành cho những sản phẩm, mặt hàng mang tính chất đặc thù, có những đặc điểm riêng do điều kiện tự nhiên, con người và truyền thống nơi xuất xứ. Các đặc sản địa phương thường được quản lý tập thể dưới dạng các nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận hoặc chỉ dẫn địa lý, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của địa phương và trong phát triển du lịch. - Tri thức truyền thống và văn hóa dân gian: Là sản phẩm sáng tạo của nhiều thế hệ và cộng đồng xã hội phản ánh và xác định lịch sử, văn hóa, bản sắc và các giá trị xã hội của cộng đồng đó. Sau nhiều thế kỷ phát triển, các tri thức truyền thống này có những hình thức thể hiện mới và được chuyển thành hàng hóa, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng. Cũng giống như các sản phẩm đặc sản địa phương, các tri thức truyền thống này dù được gọi dưới nhiều tên khác nhau nhưng thường vẫn gắn với thương hiệu địa phương, như Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, chợ tình Sapa... Có thể thấy, trong ba nhóm đối tượng trên, thương hiệu gắn với điểm đến thường là yếu tố trung tâm, kết hợp với các yếu tố đặc trưng khác của địa phương như sản phẩm đặc sản và văn hóa truyền thống, tạo thành dấu hiệu nhận biết tổng thể về địa phương đó, hay còn gọi là thương hiệu địa phương. 2. Công tác quản lý về tài sản trí tuệ ở Gia Lai những năm qua 2.1. Kết quả thực hiện về sở hữu trí tuệ Từ năm 2008 đến 2019, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai đã tổ chức 12 lớp tập huấn về Sở hữu trí tuệ cho các đơn vị doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh với các chuyên đề: “Xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tại TP. Pleiku”; “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các đặc sản mang tên địa danh địa phương”; “Bảo hộ và khai thác nhãn hiệu”; “Thực thi quyền SHTT”... với số lượng khoảng 80 học viên/lớp. Tính tới thời điểm hiện nay, Sở đã hướng dẫn hơn 800 cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu hàng hoá; 20 cơ sở đăng ký kiểu dáng công nghiệp; 02 sáng kiến kỹ thuật; 01 nhãn hiệu tập thể và 02 nhãn hiệu chứng nhận. Đồng thời, đã có 350 nhãn hiệu được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ và 700 nhãn hiệu được chấp nhận đơn hợp lệ. Về công tác tuyên truyền, Sở đã phát hành 2.000 cuốn Sổ tay hướng dẫn đăng ký sáng chế/ giải pháp hữu ích; 2.000 KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ48 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G quyền Sổ tay hướng dẫn đăng ký kiểu dáng công nghiệp; 2.000 quyển Sổ tay hướng dẫn đăng ký nhãn hiệu; 350 cuốn Đăng bạ Nhãn hiệu trên địa bàn tỉnh Gia Lai; phát hành Cẩm nang hướng dẫn đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế/giải pháp hữu ích với số lượng 3.000 cuốn. Trong giai đoạn 2010- 2019, tuyên truyền và phát sóng truyền hình về “Nâng cao nhận thức xây dựng thương hiệu cho nông sản Gia Lai”. Sở cũng phối hợp với Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh vận động tuyên truyền các cơ sở kinh doanh, các doanh nghiệp tham gia Hội thi Sáng tạo kỹ thuật. 2.2. Những thuận lợi và khó khăn Các chương trình hỗ trợ sở hữu trí tuệ đã có tác động rất lớn trong việc nâng cao nhận thức của xã hội và cộng đồng về sở hữu trí tuệ. Các tin, bài tuyên truyền, phổ biến kiến thức về sở hữu trí tuệ đã được triển khai, duy trì thường xuyên, liên tục và có chiều sâu trên các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần tạo chuyển biến tích cực nhận thức của các cấp, ngành, địa phương và toàn xã hội về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, bên cạnh những hiệu ứng tích cực mà các chương trình SHTT mang lại, trong quá trình triển khai cũng còn những tồn tại, ở cả yếu tố chủ quan và khách quan, như: Sự tham gia, vào cuộc của các doanh nghiệp việc. Trong 04 hình thức trên, thì làm việc tại địa phương và thông qua kênh tập huấn cho thấy hiệu quả hơn những cách thức khác. 3. Đăng ký và khai thác tài sản trí tuệ địa phương TSTT địa phương mang bản chất là sáng tạo trí tuệ, được quản trị theo quy trình quản trị tài sản trí tuệ, theo đó TSTT được tạo ra, xác lập quyền, khai thác và bảo vệ (WIPO, 2014): Thương hiệu gắn với địa danh, các sản phẩm đặc sản và tri thức truyền thống và văn hóa. 3.1. Việc đăng ký bảo hộ các thương hiệu gắn liền với địa danh Các tên gọi trở thành thương hiệu du lịch khi gắn với thắng cảnh tự nhiên hoặc công trình kiến trúc của điểm đến như Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, chùa Một Cột... và các biểu tượng, hình ảnh đi kèm. Tuy nhiên, qua tra cứu trên dữ liệu điện tử tại Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT), hiện nay phần lớn tên địa danh ở Gia Lai đều chưa được đăng ký bảo hộ cho các sản phẩm hay dịch vụ du lịch. Ngay cả các địa danh nổi tiếng như Biển Hồ, Chư Đăng Ya, Chùa Minh Thành, hồ Ayun Hạ, thác Phú Cường, Phở khô Gia Lai..., các tên gọi này đang sử dụng rộng rãi trong hoạt động du lịch mà không có kèm theo bất kỳ thông điệp hay chứng nhận nào. Vì vậy, việc khai thác các dấu hiệu đó là không quản lý và kiểm soát được. còn hạn chế dẫn tới việc chưa tạo ra được liên kết bền vững giữa nhà sản xuất và doanh nghiệp, theo đó hiệu quả bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa cao. Về phía các doanh nghiệp, trong những năm gần đây các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã có nhận thức đúng đắn hơn về vai trò của tài sản trí tuệ, vai trò của việc đăng ký xác lập và bảo vệ quyền SHTT đối với chiến lược kinh doanh dài hạn, vươn ra thị trường khu vực và quốc tế. Từ đó, các doanh nghiệp đã chủ động tiến hành đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ của mình tạo ra. Số lượng đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ được cấp của tỉnh năm sau luôn cao luôn hơn năm trước, trung bình tăng 2 - 3 %/năm. Theo thống kê của Cục SHTT, từ năm 2012-2019, trung bình mỗi năm tỉnh Gia Lai có khoảng 120 đơn đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp, trong đó: ½ tổng số đơn được hướng dẫn xác lập quyền tại Sở KH&CN, số đơn còn lại được tư vấn thủ tục tại Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ tại hoặc các tổ chức dịch vụ SHTT. Việc triển khai chương trình phát triển tài sản trí tuệ của tỉnh Gia Lai được tiến hành chủ yếu dưới 04 hình thức: Hướng dẫn trực tiếp các đối tượng có nhu cầu đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu đến liên hệ tại Sở KH&CN Gia Lai; tuyên truyền qua báo đài và tập huấn, đến tận địa bàn các huyện thị xã, thành phố trong tỉnh doanh nghiệp để làm KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 49 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19 3.2. Việc đăng ký bảo hộ các đặc sản địa phương Tính đến hết tháng 12/2017, theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, Việt Nam có tổng cộng 971 nhãn hiệu tập thể, 253 nhãn hiệu chứng nhận, 60 chỉ dẫn địa lý của các sản phẩm, dịch vụ gắn liền với địa danh. Tính đến thời điểm tháng 2/2019, trên địa bàn tỉnh Gia Lai có 320 nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đã được cấp văn bằng bảo hộ độc quyền. Tỉnh Gia Lai hiện có 01 nhãn hiệu chứng nhận gắn với tên địa danh là Hồ tiêu Chư Sê. Hiện có 04 nhãn hiệu chứng nhận đang được tỉnh xúc tiến bảo hộ là Rau an toàn An Khê, Gạo Phú Thiện, Rau An Sơn - Đak Pơ và Hồ tiêu Lệ Chí - Đăk Đoa. Ngoài ra, hiện nay đã có 20 nhãn hiệu thông thường được cấp văn bằng bảo hộ liên quan đến tên địa danh Gia Lai như: Xi Măng Pooclăng hỗn hợp Gia Lai, Café Gia Lai, Cà 12/2015, Việt Nam có 6 di sản văn hóa thế giới và 10 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận, trong đó có di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Có thể thấy, các chứng nhận di sản văn hóa thế giới và di sản văn hóa phi vật thể luôn gắn liền với các địa danh, vì vậy là yếu tố quan trọng gắn với thương hiệu du lịch. - Đối với văn hóa vật thể: Nhóm này có thể bao gồm các di tích khảo cổ, các di tích lịch sử, các di tích văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh gắn liền với truyền thống văn hóa, các công trình văn hóa, xây dựng và thành tựu quan trọng. Trên địa bàn tỉnh Gia Lai hiện nay có 21 di tích lịch sử được xếp hạng là di tích lịch sử, văn hóa. Trong đó có 13 di tích đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh có 8 di tích đã được xếp hạng là di tích cấp tỉnh [8, tr 10] phê Gia Lai, Hoàng Anh Gia Lai, Quốc Cường Gia Lai, Quốc Duy Gia Lai, Bò Gia Lai, Vĩnh Hiệp Gia Lai... 04 nhãn hiệu thông thường được cấp văn bằng bảo hộ liên quan đến địa danh Pleiku như: Pleiku Lifter, Hoàng Anh Pleiku, Một thoáng Pleiku, một chút cà phê Thu Hà... 3.3. Việc đăng ký bảo hộ các tài sản trí tuệ địa phương về văn hóa và tri thức truyền thống Hiện nay, trên cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng chưa có một thống kê đầy đủ và toàn diện liên quan đến các tài sản trí tuệ địa phương tồn tại dưới dạng các tài sản văn hóa và tri thức truyền thống. Do đó, các số liệu được công bố chủ yếu liên quan đến một số loại tài sản văn hóa và tri thức truyền thống vật thể và phi vật thể dưới đây: - Các tài sản trí tuệ địa phương đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới: Tính đến cuối tháng KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ50 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G Có thể thấy, 21 di tích kể trên đều là các tài sản trí tuệ có khả năng được khai thác nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế hay du lịch [8, tr 11]. - Đối với nhóm văn hóa phi vật thể: Nhóm này có thể được chia thành nhiều loại như: các lễ hội; các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian, các phong tục tập quán truyền thống; tôn giáo; ẩm thực... Ở Gia Lai hiện có 3 loại hình văn hóa dân gian đã được các cấp công nhận là di sản văn hóa phi vật thể gồm: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại năm 2005), Sử thi Bahnar (Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục di sản văn hóa góp phần hình thành những tài sản trí tuệ địa phương gắn liền với các lễ hội đó: Lễ Giáng sinh, Lễ Phật đản... Về các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian, ngoài những loại hình đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đã được liệt kê ở trên, nhiều loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian của Gia Lai cũng có thể tạo ra những tài sản trí tuệ địa phương. Có thể kể đến các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian như: Các loại hình ca múa nhạc dân tộc (Múa Xoang, kể chuyện sử thi); các làn điệu dân ca cổ, các điệu múa dân gian, múa cung đình, các bản nhạc được chơi bằng các nhạc cụ truyền thống như đàn goong, đàn tơ-rưng,... Về các TSTT địa phương gắn liền với tôn giáo, đây cũng phi vật thể quốc gia 4-2015) và Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui (Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia 6-2015). Đây là 3 loại hình trong nhiều những di sản văn hóa phi vật thể ở đây đã được công nhận, bên cạnh đó còn những di sản độc đáo khác như các lễ hội truyền thống liên quan đến vòng đời và nông nghiệp, câu đố, dân ca, truyện cổ, múa... Nhiều lễ hội kể trên có khả năng tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng, như Lễ hội Hoa Dã quỳ Chư Đăng Ya, Lễ hội Plơi Ơi, Lễ hội Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa... Ngoài ra, nhiều lễ hội đi kèm với yếu tố tôn giáo, được tổ chức trong thời gian dài cũng có khả năng KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 51 S Ố 0 6 N Ă M 2 0 19là nguồn có thể tạo ra nhiều loại TSTT địa phương. Các cuộc hành hương về Hương Sơn, Yên Tử, điện Hòn Chén, Núi Bà - Tây Ninh,... đều là những cuộc hành hương lớn, gắn liền với một loại hình tôn giáo, tín ngưỡng nhất định là gợi ý cần thiết để Gia Lai có thể phát triển loại hình tài sản trí tuệ này. Chính quyền địa phương những nơi có các công trình tôn giáo đó đều có thể đề ra các chiến lược, chính sách để tạo ra những sản phẩm trí tuệ phù hợp phục vụ du khách, từ đó tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế địa phương. 4. Giải pháp bảo tồn và phát triển tài sản trí tuệ địa phương tại Gia Lai Việc khai thác các tài nguyên TSTT địa phương tại Gia Lai có thể được thực hiện thông qua một trong ba mô hình: mô hình quản lý tập trung; mô hình khai thác tập thể và mô hình xã hội hóa [8]. 4.1. Mô hình quản lý tập trung Mô hình quản lý tập trung được áp dụng tại nhiều địa phương của Việt Nam đối với việc khai thác TSTT địa phương cho phát triển kinh tế nói chung và cho phát triển du lịch nói riêng. Theo mô hình này, một cơ quan nhà nước sẽ được giao trách nhiệm quản lý, khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị của các TSTT địa phương. Cơ quan nhà nước này có thể là: - Ban quản lý di tích/di phát huy giá trị của chính TSTT địa phương mà mình sở hữu. Mô hình này thường được áp dụng cho các làng nghề, các đặc sản địa phương cũng như một số nhãn hiệu tập thể đã được đăng ký bảo hộ dưới dạng đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Trên toàn quốc, nhiều làng nghề đã được khai thác cho phát triển du lịch. Các sản phẩm đặc trưng của làng nghề đều được khai thác một cách tập thể bởi chính các thành viên của làng nghề. Một trong những trường hợp điển hình là làng gốm Bát Tràng của Hà Nội. Các làng nghệ nổi tiếng ở Gia Lai như dệt thổ cẩm làng Nghe Lớn (thị trấn Kông Chro), Hợp tác xã (HTX) mây tre đan ở 2 làng Hà Tiên, Nhang Lớn (xã Đak Kơ Ning, huyện Kông Chro), làng nghề dệt thổ cẩm kết hợp với du lịch ở làng Đê Ktu (huyện Mang Yang) hay HTX sản xuất nhạc cụ dân tộc ở làng Choét (phường Thắng Lợi , TP. Pleiku)... có thể xây dựng và bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu thông thường để phát triển tốt mô hình này. Mô hình khai thác tập thể TSTT địa phương cho phát triển du lịch là sẽ huy động được trí tuệ và công sức của tập thể vào khai thác, bảo tồn và phát huy giá trị của TSTT địa phương cho phát triển kinh tế nói chung và cho phát triển du lịch nói riêng. Tuy vậy, cần lưu ý mô hình này dễ dẫn đến xung đột về quyền lợi giữa các thành sản: đây là việc quản lý tập trung được áp dụng đối với di sản đã được xếp hạng. Tuy nhiên, để tạo thuận lợi cho quá trình quản lý, các cơ quan này có thể thành lập nên các ban quản lý di tích, di sản ở các cấp độ khác nhau, như ban quản lý di tích, di sản cấp tỉnh; cấp huyện hay cấp xã. Sau khi được thành lập, ban quản lý di tích/di sản là cơ quan chịu trách nhiệm trong việc khai thác các giá trị của di tích/di sản. - Ủy ban nhân dân các cấp: Ngoài các TST T địa phương tồn tại dưới dạng là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể thường được quản lý, khai thác bởi ban quản lý di sản/di tích, Ủy ban nhân dân các cấp có thể tham gia vào quản lý và khai thác một số TSTT địa phương khác, nhất là trong việc đăng ký bảo hộ cho một số nhãn hiệu chứng nhận và chỉ dẫn địa lý. Sự tham gia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, quản lý, bảo tồn cũng như phát huy giá trị của TSTT địa phương nhờ vào khả năng kết hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan khác để thực hiện các công việc đó. 4.2. Mô hình khai thác tập thể Đây là mô hình thứ hai có thể sử dụng để khai thác các TSTT địa phương để phát triển du lịch. Theo mô hình này, tập thể các chủ sở hữu TSTT địa phương là chủ thể đứng ra quản lý, khai thác, bảo tồn và KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ52 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G viên trong tập thể khai thác TSTT địa phương. 4.3. Mô hình xã hội hóa Xã hội hóa phát triển du lịch là một chủ trương, chính sách lớn của Việt Nam trong việc kêu gọi và thu hút mọi nguồn lực cho phát triển du lịch. Cụ thể hóa định hướng này, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 xác định rõ chính sách xã hội hóa du lịch bao gồm hai nội dung quan trọng: - Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch dưới các hình thức như: Góp vốn cổ phần với doanh nghiệp nhà nước, hình thành công ty du lịch dựa trên sở hữu hỗn hợp nhà nước và tư nhân hoạt động kinh doanh theo đúng pháp luật. - Khuyến khích thực hiện xã hội hóa đầu tư, bảo vệ, tôn tạo di tích, thắng cảnh; bảo tồn và phục dựng các lễ hội, hoạt động văn hóa dân gian, các làng nghề phục vụ phát triển du lịch [1]. 5. Kết luận Tài sản trí tuệ là một phạm trù rộng và ngày càng phát triển mạnh, nhất là ý nghĩa của nó trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước ngày càng tăng. Nhiều nghiên cứu gần đây đã đề xuất trực tiếp về sự phát triển của loại tài sản này[2]. Điều này đòi hỏi một sự tiếp cận mới đối với tài sản trí tuệ để ngày càng đảm bảo tốt hơn lợi ích cho người tạo ra hay nắm loại tài sản này nhằm sử dụng một cách hiệu quả nhất vào công cuộc phát triển đất nước. Nhìn chung, hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nói chung và việc tạo lập, bảo hộ, phát triển tài sản trí tuệ, nhất là tài sản trí tuệ địa phương trên địa bàn tỉnh Gia Lai những năm gần đây được duy trì ổn định và có những bước chuyển biến tích cực. Sở Khoa học và Công nghệ Gia Lai đã phối hợp với Cục SHTT và các địa phương trong tỉnh thực hiện nhiều biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển trong lĩnh vực này và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Việc đưa vào sử dụng Thư viện số trực tuyến về sở hữu công nghiệp trên website của Cục SHTT đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ của Sở tư vấn chính xác hơn và hoạt động tư vấn, xác lập và bảo vệ quyền SHTT đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Gia Lai cũng đã triển khai nhiều hoạt động để đưa SHTT đến gần người dân, các doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa công tác đầu tư cho bảo hộ và phát triển tài sản trí tuệ, cũng như nâng cao nhận thức của người dân về đổi mới sáng tạo và sở hữu trí tuệ. Hy vọng trong thời gian tới, công tác quản lý nhà nước về tài sản trí tuệ và tài sản trí tuệ địa phương sẽ được tiến hành sâu rộng hơn nhằm góp phần mang lại những tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tạo ra giá trị gia tăng cho các sản phẩm, dịch vụ, du lịch, nâng cao thu nhập của doanh nghiệp và người dân Gia Lai./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Tổng cục Du lịch (2013), Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội. 2. Luật Sở hữu trí tuệ ngày 29/11/2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 19/6/2009. 3. Lev B. (2001), Intangibles, B r o o k i n g s I n s t i t u t i o n P r e s s , Washington. 4. Lê Ngọc Lâm, Lê Thị Thu Hà (2016), Đăng ký và khai thác tài sản trí tuệ địa phương trong phát triển du lịch ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 5. Lê Thị Thu Hà (2016), Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ địa phương ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Bộ. 6. Lê Thị Thu Hà, Phạm Văn Chiến (2016), Tác động của tài sản trí tuệ địa phương đến sự hài lòng của du khách tại Việt Nam, tạp chí Kinh tế đối ngoại, số tháng 5/2016. 7. Trần Lê Hồng, Một số vấn đề về tài sản trí tuệ nhìn từ góc độ khoa học pháp lý và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam, https://thegioiluat.vn/ bai-viet-hoc-thuat/mot-so-van-de- ve-tai-san-tri-tue-nhin-tu-goc-do- khoa-hoc-phap-ly-va-van-de-hoan- thien-phap-luat-viet-nam-6313 8. UBND tỉnh Gia Lai, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Gia Lai đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Gia Lai, 2015. 9. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch (2013), Giải pháp phát triển thương hiệu du lịch Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2013, tr. 57.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf35_9881_2207541.pdf
Tài liệu liên quan