Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - Lý luận và thực tiễn - Hoàng Xuân Sơn

Tài liệu Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - Lý luận và thực tiễn - Hoàng Xuân Sơn: 22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TĂNG TRƯỞNG XANH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Hồng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc∗∗ TĨM TẮT Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên... đang ảnh hưởng tới sự ổn định mơi trường sống của lồi người, khiến các quốc gia phải nghĩ tới việc phát triển bền vững. Khơng nằm ngồi mục tiêu trên, Việt Nam đang hướng tới phát triển theo hướng tăng trưởng xanh. Mặt khác, trong thời gian qua sự bùng nổ cơng nghệ đang hiện ra ngày càng rõ nét, cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau vượt lên, rượt đuổi và bắt kịp các nước đi trước. Do đĩ, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam cĩ thể thực hiện thành cơng những mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Từ khố: Tăng trưởng xanh, kinh tế tri thức, lý luận, thực tiễn GREEN DEVELOPMENT CONNECT CLOSELY KNOWLEDGE ECONOMY – THOERY AND REALITY ABSTRACT Climat...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng trưởng xanh gắn với phát triển kinh tế tri thức - Lý luận và thực tiễn - Hoàng Xuân Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TĂNG TRƯỞNG XANH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Hồng Xuân Sơn∗, Hồ Thị Thanh Trúc∗∗ TĨM TẮT Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên... đang ảnh hưởng tới sự ổn định mơi trường sống của lồi người, khiến các quốc gia phải nghĩ tới việc phát triển bền vững. Khơng nằm ngồi mục tiêu trên, Việt Nam đang hướng tới phát triển theo hướng tăng trưởng xanh. Mặt khác, trong thời gian qua sự bùng nổ cơng nghệ đang hiện ra ngày càng rõ nét, cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước đi sau vượt lên, rượt đuổi và bắt kịp các nước đi trước. Do đĩ, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Việt Nam cĩ thể thực hiện thành cơng những mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Từ khố: Tăng trưởng xanh, kinh tế tri thức, lý luận, thực tiễn GREEN DEVELOPMENT CONNECT CLOSELY KNOWLEDGE ECONOMY – THOERY AND REALITY ABSTRACT Climate change, resource depletion ... are affecting the stability of the human habitat, causing the countries to think about sustainable development. Not falling outside the above, purposes Vietnam is aiming to develop towards green growth. On the other hand, in recent years the technology boom is appearing increasingly clear, rare historical opportunity that era created to go after the countries ahead, chase and catch up with the advanced countries. Therefore, taking advantage of opportunities that are created by international context, combined with the favorable internal resources initially on developing knowledge economy, Vietnam can successfully implement the goals of green growth and sustainable development. Key words: Green development, knowledge economy, thoery and reality * Trường ĐH Kinh tế TP.HCM * * Trường Cao đẳng Tài chính – Hải quan 1. Tăng trưởng xanh và kinh tế tri thức Theo chương trình Mơi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) thì “kinh tế xanh” là một nền kinh tế nhằm cải thiện hạnh phúc con người, cơng bằng xã hội và giảm thiểu đáng kể những nguy cơ kiệt quệ về mơi sinh. Chuyển dịch sang nền kinh tế xanh sẽ làm chậm lại sự gia tăng của hàm lượng các-bon và ngăn chặn biến đổi khí hậu. Sẽ cĩ lợi cho sức khỏe con người, đảm bảo tính chịu đựng của hành tinh và sự sống cịn của nhân loại. Thị trường tồn cầu hĩa sẽ đi theo những chuỗi giá trị cung cầu xanh, với các dịng chảy mậu dịch và đầu tư được quy định nghiêm ngặt theo những nguyên lý bền vững. Cịn “tăng trưởng xanh” là định hướng 23 Tăng trưởng xanh . . . mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những mơ hình tiêu thụ và sản xuất bền vững, nhằm đảm bảo nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những nguồn lực và dịch vụ sinh thái mà đời sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ này cũng như cho những thế hệ mai sau. Ngân hàng Thế giới (WB) thì cho rằng: “Tăng trưởng xanh là quá trình tăng trưởng sử dụng tài nguyên hiệu quả, sạch hơn và tăng cường khả năng chống chịu mà khơng làm chậm quá trình này”. Vậy, để phát triển nền kinh tế xanh nhằm tăng trưởng xanh đạt được mục tiêu, thiết nghĩ khơng thể khơng gắn nĩ với nền kinh tế tri thức, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay và hồn cảnh của Việt Nam. Chỉ cĩ gắn tăng trưởng xanh với nền kinh tế tri thức mới cĩ thể bảo đảm được tăng trưởng bền vững. Từ giữa thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đĩ là một nền kinh tế mà trong đĩ việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đĩ là nền “kinh tế tri thức” và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng Thế giới (WB). Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trị thứ yếu. Trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất cĩ năng lực sáng tạo tri thức, do đĩ biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu. Hiện nay, trên thế giới, khái niệm “kinh tế tri thức” cĩ nhiều cách diễn đạt khác nhau. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đĩ sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trị quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lược cuộc sống”; cịn Viện Ngân hàng Thế giới (WBI) lại cho rằng: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Là nền kinh tế trong đĩ tri thức được lĩnh hội, sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy phát triển”. Cũng cĩ cách nêu ngắn gọn hơn là: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà tri thức là “đầu vào” (input) cơ bản của quá trình phát triển kinh tế”. Tuy cách diễn đạt cĩ khác nhau, nhưng đều cho thấy điểm chung nhất trong nền kinh tế tri thức là cơng nghệ và tri thức đĩng vai trị quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế. Tĩm lại, cĩ thể hiểu kinh tế tri thức là nền kinh tế mà sự phát triển của nĩ dựa chủ yếu vào tri thức, trên nền tảng tri thức; tri thức chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), sự phát triển của nền kinh tế tri thức của một quốc gia dựa trên bốn trụ cột sau: lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao; hệ thống sáng tạo và ứng dụng cơng nghệ cĩ hiệu quả; hệ thống cơ sở hạ tầng, thơng tin, tin học hiện đại; hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại. Ngồi ra, kinh tế tri thức cịn được xác định dựa trên bốn tiêu chí cơ bản: ≥ 70% GDP do đĩng gĩp của các ngành kinh tế tri thức: ≥ 70% giá trị gia tăng do lao động trí ĩc mang lại: ≥ 70% lực lượng lao động xã hội là lao động trí ĩc: ≥ 70% vốn sản xuất là vốn về con người. Dù được định nghĩa thế này hay thế khác, 24 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật song kinh tế tri thức cĩ những đặc trưng cơ bản sau: tri thức, nhất là cơng nghệ cao trở thành nhân tố chủ yếu nhất của sự phát triển kinh tế; trong nền kinh tế tri thức, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển; ứng dụng rộng rãi cơng nghệ thơng tin trở thành một nhân tố quan trọng nhất trong phát triển kinh tế tri thức; nền kinh tế tri thức gắn liền với xã hội học tập; kinh tế tri thức thúc đẩy phát triển nền kinh tế tồn cầu hĩa; kinh tế tri thức tạo cơ sở để nền kinh tế phát triển bền vững; hệ thống thể chế hiện đại thúc đẩy sáng tạo. Để cụ thể hĩa trong việc đánh giá trình độ phát triển kinh tế tri thức của các nước trên thế giới, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra chỉ số kinh tế tri thức KEI (Knowledge Economy Index), với thang điểm thấp nhất là 0 và cao nhất là 10. Theo đĩ, chỉ số KEI của Việt Nam năm 2012 cịn rất thấp, chỉ là 3,4 xếp thứ 104/145 quốc gia được xếp loại, tăng 9 bậc so với năm 2000, trong khi các nước cĩ thu nhập trung bình chỉ số này là 4,1. Thêm vào đĩ, năng suất lao động của nước ta rất thấp, chỉ bằng 38% Trung Quốc và 27% Thái Lan1. Các nước phát triển đi tới kinh tế tri thức là một quá trình tự nhiên, phù hợp quy luật. Các nước đi sau mới bắt đầu quá trình cơng nghiệp hĩa khơng thể chuyển ngay sang nền kinh tế tri thức với đầy đủ cơ cấu, đặc trưng, cách thức hoạt động của nĩ, nhưng cĩ cơ hội nắm bắt, tiếp thu tri thức mới (về cơng nghệ, tổ chức quản lý, sản xuất, kinh doanh), từng bước phát triển kinh tế tri thức để đẩy nhanh quá trình phát triển. Nhưng phát triển kinh tế tri thức cũng là thách thức rất lớn. Song song với quá trình biến đổi cơng nghệ, thế giới cũng đang chịu những áp lực thay đổi cấu trúc và mơ hình phát triển. Quá trình phát triển nền kinh tế tồn cầu với khối lượng hàng hĩa làm ra ngày càng lớn đã làm cho chúng ta dễ dàng nhận thấy nguy cơ ngày càng rõ của sự cạn kiệt tài nguyên, của tình trạng ơ nhiễm mơi trường; thêm vào đĩ là xu hướng trái đất nĩng lên và nước biển dâng. Lồi người đã đạt đến giới hạn sinh tồn khi nỗ lực phát huy tối đa cách phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên, tận dụng sự hào phĩng của thiên nhiên theo lối hủy hoại nĩ thay vì phải dựa vào cơng nghệ và trí tuệ con người. Vì vậy trong thời gian tới, lồi người để tiếp tục phát triển bền vững, thì tăng trưởng phải gắn liền với “tăng trưởng xanh”. Tăng trưởng xanh tốt nhất trong bối cảnh hiện nay chính là đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức. 2. Quá trình nhận thức và chủ trương tiếp tục phát triển kinh tế tri thức gắn với tăng trưởng xanh và bền vững của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua. Bước sang thế kỷ mới, tại Đại hội IX (4/2001), Đảng xác định: “Kinh tế tri thức cĩ vai trị ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất” và đề ra định hướng “từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đến Đại hội X (4/2006), để tiếp tục phát triển nền kinh tế gĩp phần thực hiện mục tiêu “đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại”, Đảng xác định: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức” và Đảng khẳng 1 25 Tăng trưởng xanh . . . định: “Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa”2. Từ đĩ, Đại hội đã xác định nội dung cơ bản của quá trình cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức là phải phát triển mạnh các ngành và sản phẩm cĩ giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại; coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội; xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ; giảm chi phí trung gian, nâng cao năng xuất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực cĩ sức cạnh tranh cao. Nhận rõ tầm quan trọng của phát triển kinh tế tri thức trong thời gian qua và trong thời gian tới để đạt được mục tiêu “tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại” hay xa hơn là “từ nay đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước cơng nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và bảo đảm cho tăng trưởng bền vững, Đại hội XI của Đảng (1/2011) khẳng định: “thực hiện cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức”; “chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa học, cơng nghệ làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế tri thức”; “tập trung phát triển các sản phẩm cơng nghệ cao, cĩ giá trị gia tăng lớn trong một số ngành, lĩnh vực”; “xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020”, gắn với đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mặt khác, Đại hội XI (2011) chủ trương: phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, cơng nghệ; xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng khoa học, cơng nghệ, trước hết là cơng nghệ thơng tin, truyền thơng, cơng nghệ tự động, nâng cao năng lực nghiên cứu - ứng dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm cơng nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ cơng nghệ cao, cĩ giá trị gia tăng, dựa nhiều vào tri thức. Phát huy và sử dụng cĩ hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 20203. Về tăng trưởng xanh, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được thơng qua tại Ðại hội Ðảng tồn quốc lần thứ XI xác định: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược... Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ mơi trường, phát triển kinh tế xanh. Tiếp đĩ, Kết luận Hội nghị Trung ương lần thứ ba khĩa XI khẳng định: Ðổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và mơi trường. Như vậy, những định hướng tăng trưởng, phát triển mà Ðảng lựa chọn trùng khớp với những tiêu chí của tăng trưởng xanh và mơ hình kinh tế xanh mà thế giới đang tiến hành. Nhằm hiện thực hĩa chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tri thức bảo đảm phát triển bền vững ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1393/ QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh” với quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ Chiến lược: 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, HN, tr.28-29 3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN, tr.220-221 26 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Về quan điểm: Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và gĩp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng mơi trường, qua đĩ kích thích tăng trưởng kinh tế; Đồng thời, là sự nghiệp của tồn Đảng, tồn dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương, các doanh nghiệp và tổ chức xã hội... Trên cơ sở đĩ, Chiến lược hướng tới ba mục tiêu cụ thể: Tái cấu trúc và hồn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hĩa các ngành hiện cĩ và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao; Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi cơng nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, gĩp phần ứng phĩ hiệu quả với biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với mơi trường, tạo nhiều việc làm từ các ngành cơng nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Để đạt được 3 mục tiêu nêu trên, Chiến lược đề ra 3 nhiệm vụ quan trọng: Thứ nhất, giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Theo đĩ, giai đoạn 2011- 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8-10% so với mức 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP là 1-1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10-20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đĩ mức tự nguyện khoảng 10%, 10% cịn lại mức phấn đấu khi cĩ thêm hỗ trợ quốc tế; Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5-2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20-30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đĩ mức tự nguyện khoảng 20%, 10% cịn lại là mức khi cĩ thêm hỗ trợ quốc tế; Định hướng đến năm 2050: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm 1,5-2%. Thứ hai, xanh hĩa sản xuất. Thực hiện một chiến lược “cơng nghiệp hĩa sạch” thơng qua rà sốt, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện cĩ, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển cơng nghiệp xanh, nơng nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, cơng nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với mơi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ơ nhiễm. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành cơng nghệ cao, cơng nghệ xanh trong GDP là 42-45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về mơi trường là 80%, áp dụng cơng nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ mơi trường và làm giàu vốn tự nhiên đạt 3 - 4% GDP. Thứ ba, xanh hĩa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Kết hợp nếp sống đẹp truyền thơng với những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đơ thị hĩa nhanh, bền vững, duy trì lối sống hịa hợp với thiên nhiên ở nơng thơn và tạo thĩi quen tiêu dùng bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới tồn cầu. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: tỷ lệ đơ thị loại III cĩ hệ thống thu gom và và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 27 Tăng trưởng xanh . . . 60%, với đơ thị loại IV, loại V và các làng nghề: 40%, cải thiện mơi trường khu vực bị ơ nhiễm nặng 100%, tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo quyết định 2149/QĐ -TTg, diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đơ thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải cơng cộng ở đơ thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đơ thị lớn và vừa đạt tiêu chí đơ thị xanh phấn đấu đạt 50%4. 3. Kinh tế tri thức từng bước khẳng định vai trị trong quá trình tăng trưởng xanh và bền vững ở Việt Nam Thực hiện chủ trương trên trong thực tiễn, về phía các doanh nghiệp, để phát triển bền vững, địi hỏi các sản phẩm, dịch vụ phải đáp ứng nhu cầu thân thiện với mơi trường của xã hội. Muốn vậy doanh nghiệp cần tiếp cận được với nhiều cơng nghệ mới, hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên thách thức khơng nhỏ cũng được đặt ra đối với doanh nghiệp là phải xác định các nhân tố trong mơ hình cạnh tranh - phát triển thay đổi đồng thời phải đảm bảo tuân thủ các quy định về mơi trường, nâng cao trách nhiệm xã hội. Ví dụ: Giảm phát thải; Bảo vệ mơi trường; Loại bỏ ngành nghề kinh doanh khơng phù hợp; Cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngồi Trong thời gian qua, doanh nghiệp và Nhà nước đã đạt được một số kết quả bước đầu trong việc gắn phát triển kinh tế tri thức với tăng trưởng xanh và bền vững: Về năng lượng xanh: trên thực tế, Việt Nam đã và đang thử nghiệm một số mơ hình năng lượng xanh như mơ hình phân loại rác tại nguồn 3R (giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng). Đồng thời để giảm thiểu ơ nhiễm mơi trường, đảm bảo an ninh năng lượng lâu dài, Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu sử dụng nhiên liệu sinh học (xăng/diesel pha ethanol và diesel sinh học), thay thế một phần xăng, dầu khống, tiến tới xây dựng ngành “xăng dầu sạch” . Về năng lượng tái tạo: tiềm năng của Việt Nam rất lớn cần cĩ các giải pháp khai thác tiềm năng này. Các chuyên gia Việt Nam đã tiến hành phân vùng năng lượng bức xạ mặt trời trên lãnh thổ Việt Nam. Theo sơ đồ phân vùng đĩ, nguồn năng lượng mặt trời ở Việt Nam khoảng 1.300-2.200kwh/m2/năm, tương đối nhiều ở các khu vực phía Nam, nhiều nhất ở Nam Bộ và vùng Nam Trung Bộ và tương đối ít ở các khu vực phía Bắc, ít nhất ở đồng bằng Bắc Bộ. Cụ thể năng lượng mặt trời ở Việt Nam hiện được sử dụng dưới một số dạng tiêu biểu là: Giàn đun nước. Giàn đun nước hộ tập thể với mặt thu 10-50m2 đun được 1.000-5.000 lít nước nĩng 50-700oC mỗi ngày và 1 số giàn đun hộ gia đình với mặt thu 1-3m2 đun được 100-300 lít nước nĩng 45-600oC mỗi ngày. Tuy nhiên, do vận hành phức tạp, khơng sản sinh nước nĩng vào những ngày thiếu nắng và do giá thành cao nên chưa được lắp đặt rộng rãi. Giàn pin mặt trời. Giàn pin mặt trời được sử dụng sớm ở miền Nam. Hiện cĩ khoảng 40 trạm điện mặt trời cơng suất 500 - 1.000 Wp được lắp đặt ở các xã và 800 giàn cĩ cơng suất 22.5 - 50 Wp phục vụ các bệnh viện, trạm xá, nhà văn hố,.. Ngồi ra, Việt Nam cĩ tiềm năng lớn để phát triển điện giĩ, lớn hơn cả các nước láng giềng trong khu vực Đơng Nam Á. Theo Ngân hàng thế giới thì tiềm năng lý thuyết là 500 GW ở độ cao 65m với tốc độ giĩ trung bình ≥ 6m/s. Theo Tổng cơng ty điện lực Việt Nam (EVN) thì tiềm năng kỹ thuật là 1.785 MW (miền Bắc: 50MW; miền Trung: 880MW và 4 Quyết định số 1393/QÐ-TTg ngày 25-9-2012 28 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 5 81m-n%C4%83ng-kinh-t%E1%BA%BF-xanh-%E1%BB%9F-m%E1%BB%99t-s%E1%BB%91-l%C4%A9nh-v%E1%BB% B1c-%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam.html miền Nam: 855MW) ở độ cao 60m với tốc độ giĩ trung bình ≥ 6m/s. Hiện nay chúng ta đang triển khai khá thành cơng mơ hình điện giĩ ở Cà Mau, Bình Thuận... Tiềm năng thuỷ điện nhỏ (≤ 30 MW) cũng rất lớn, với hơn 2.200 sơng suối cùng chiều dài hơn 10km. Tiềm năng lý thuyết: 300 tỉ kWh/năm tiềm năng kỹ thuật: 12 triệu kWh/ năm (> 4.000 MW). Hiện nay đã cĩ 319 dự án thuỷ điện nhỏ ở 31 tỉnh thành phố với tổng cơng suất lắp đặt khoảng 3.443 MW. Từ sau năm 1990, nhiều hộ gia đình đã tự đầu tư lắp đặt các tổ máy thuỷ điện cực nhỏ, loại cơng suất 0.1 - 1KW với giá thành thấp. Tính đến năm 2008 đã xây dựng và đưa vào khai thác hơn 500 trạm thuỷ điện cơng suất 5kW - 10MW/trạm với tổng cơng suất 97273kW. Ngồi ra, cịn cĩ 110-130 nghìn trạm và tổ máy thủy điện cực nhỏ 5 - 20W/trạm. Tiềm năng năng lượng khí sinh học xấp xỉ 10 tỉ m3/năm từ các nguồn rác thải, chất thải gia súc và phế phụ phẩm nơng nghiệp. Đến nay cĩ khoảng 1.000.000 hầm khí sinh học, trong đĩ cĩ vài chục nghìn túi chất dẻo, cịn lại là các hầm xây kiên cố. Cơng nghệ sinh học đã được phổ cập ở nhiều nơi và đã xuất hiện nhiều tổ chức dịch vụ làm cơng nghệ khí sinh học5. Trên cơ sở nghiên cứu về quá trình phát triển của kinh tế tri thức trên thế giới và thực tế phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam cùng với Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua và định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tri thức, chúng tơi nhận thấy để phát triển bền vững, tăng trưởng xanh cần gắn với phát triển kinh tế tri thức và phải đảm bảo được các giải pháp: Một là, khẩn trương xây dựng một chương trình phát triển kinh tế tri thức mang tầm cỡ chiến lược quốc gia, coi đây là trục của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp hiện đại gắn với tăng trưởng xanh. Hai là, cần đầu tư vào những ngành mũi nhọn của quốc gia nhưng đảm bảo được “xanh” như: cơng nghệ thơng tin, nhất là cơng nghệ phần mềm; cơng nghệ số hố, cơng nghệ năng lượng mới, vật liệu mới, cơng nghệ sinh học... Phát triển các khu cơng nghiệp – cơng nghệ cao quy mơ cấp vùng, với hạt nhân là các vườn ươm cơng nghệ - vườn ươm doanh nghiệp hiện đại, thay thế các khu cơng nghiệp kiểu cũ, đang tỏ ra kém hiệu quả, thậm chí cản trở sự phát triển. Tập trung ưu tiên xây dựng hai trung tâm quốc gia về cơng nghệ cao ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, coi đây là mẫu hình, là đầu tàu phát triển khoa học - cơng nghệ - cơng nghiệp của cả nước. Ba là, coi trọng nguyên tắc phát triển khoa học – cơng nghệ với sự dẫn dắt hỗ trợ của thị trường – doanh nghiệp, được khuyến khích, nuơi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh thị trường lành mạnh. Đặc biệt chú trọng phát triển thị trường cơng nghệ, coi đây là động lực kích thích quan trọng nhất cho sự phát triển của khoa học. Bốn là, Nhà nước thực sự đĩng vai trị bà đỡ, tạo khung pháp lý và hỗ trợ các điều kiện cần thiết để phát triển khoa học – cơng nghệ và cho hoạt động nghiên cứu, triển khai gắn kết chặt chẽ với tăng trưởng xanh theo quyết định của Chính phủ. Năm là, lơi kéo, thu hút các tập đồn xuyên quốc gia, cĩ tiềm lực khoa học – cơng nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào Việt Nam, khuyến 29 Tăng trưởng xanh . . . khích họ xây dựng các trung tâm nghiên cứu – phát triển, tạo kênh để từ đĩ, tri thức, cơng nghệ lan tỏa rộng rãi ra tồn bộ nền kinh tế. 4. Kết luận Thực tiễn phát triển của Việt Nam trong thời gian vừa qua, đã cho phép chúng ta nhận thấy rõ bên cạnh việc mang lại những thành cơng nổi bật, mơ hình tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam đang áp dụng đã bộc lộ những bất cập, khơng đáp ứng được những yêu cầu phát triển mới khi bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước đã thay đổi sâu sắc. Tiếp tục mơ hình đĩ, Việt Nam sẽ phải trả giá đắt về mơi trường, phải hy sinh các cơ sở để tăng trưởng dài hạn, nghĩa là dành phần rủi ro cho các thế hệ tương lai, cho con cháu sau này. Nguy hiểm hơn, sự tiếp tục đĩ khơng cho phép Việt Nam thành cơng trong cạnh tranh và hội nhập vào mạng lưới phát triển tồn cầu, đẩy nền kinh tế tụt hậu và tụt hậu xa hơn, khơng thể thực hiện được mục tiêu tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại hay xa hơn là đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước cơng nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa6. Mặt khác, cũng từ chính thực tiễn phát triển của Việt Nam trong những năm trước đây đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng, Việt Nam cĩ đủ năng lực và điều kiện để thực hiện thành cơng đường lối phát triển kinh tế tri thức, một đường lối táo bạo và đầy tính sáng tạo. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực cơng nghệ thơng tin – viễn thơng, việc chế tạo thành cơng các sản phẩm nanơ, những thành tựu trong cơng nghệ sinh học, cùng với năng lực sáng tạo trong tốn học, vật lý học... cho thấy nếu mạnh dạn, cĩ quyết tâm và nghiêm túc bước vào quỹ đạo phát triển hiện đại, chắc chắn Việt Nam sẽ thành cơng. Niềm tin đĩ sẽ được củng cố thêm khi bên cạnh Việt Nam cĩ những kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức thành cơng của Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Trung Quốc. Niềm tin cịn trở nên mạnh mẽ gấp bội nếu Việt Nam ý thức đầy đủ hơn về lợi thế to lớn của một nước đi sau mà Việt Nam đang sở hữu, do vậy để rút ngắn khoảng cách phát triển và tiếp cận với một nền kinh tế hiện đại, văn minh và phát triển bền vững thì cần phải hướng tới một nền kinh tế xanh, nền kinh tế đĩ phải dựa trên tri thức của nhân dân Việt Nam và tri thức của nhân loại, kinh tế tri thức. 6 Đảng CSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN, 2011, tr.71 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, HN [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, HN [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Tham luận tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG-ST, HN [5]. Nguyễn Văn Thạo – Nguyễn Viết Thơng (2011, đồng chủ biên): Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb.CTQG-ST, HN [6]. Bộ Giáo dục và đào tạo (2011), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.CTQG-ST, HN [7]. GS, TSKH. VŨ ĐÌNH CỰ (số 21-2007), Đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, Tạp chí Cộng sản (điện tử) [8]. www.cpv.org.vn [9]. www.worldbank.org [10]. [11]. [12]. www.monre.gov.vn [13].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf41_7187_2121817.pdf
Tài liệu liên quan