Tài liệu Tăng cường tự chủ chương trình đào tạo - Yếu tố căn bản nâng cao chất lượng đào tạo của các trường Đại học Việt Nam: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 96-99; 123
96
TĂNG CƯỜNG TỰ CHỦ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
- YẾU TỐ CĂN BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Nguyễn Việt Phương - Trường Đại học Vinh
Ngày nhận bài: 02/04/2019; ngày sửa chữa 20/04/2019; ngày duyệt đăng: 27/04/2019.
Abstract: Academic freedom in general and autonomy of training curriculum in particular is an
indispensable feature of universities. In autonomy curriculum, lectuers are entitled to design, build
and implement curriculum that meet the social needs as well as students' competencies. Learners
and lectuers have the right to decide on the teaching content, to be free to explore, experience and
create. The article focuses on research the current status of curriculum autonomy in the world and
in Vietnam; thereby propose some suitable solutions for the autonomy of training curriculum that
still exists in Vietnam.
Keywords: Autonomy, autonomy of curriculum, curriculu...
5 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tăng cường tự chủ chương trình đào tạo - Yếu tố căn bản nâng cao chất lượng đào tạo của các trường Đại học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 96-99; 123
96
TĂNG CƯỜNG TỰ CHỦ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
- YẾU TỐ CĂN BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Nguyễn Việt Phương - Trường Đại học Vinh
Ngày nhận bài: 02/04/2019; ngày sửa chữa 20/04/2019; ngày duyệt đăng: 27/04/2019.
Abstract: Academic freedom in general and autonomy of training curriculum in particular is an
indispensable feature of universities. In autonomy curriculum, lectuers are entitled to design, build
and implement curriculum that meet the social needs as well as students' competencies. Learners
and lectuers have the right to decide on the teaching content, to be free to explore, experience and
create. The article focuses on research the current status of curriculum autonomy in the world and
in Vietnam; thereby propose some suitable solutions for the autonomy of training curriculum that
still exists in Vietnam.
Keywords: Autonomy, autonomy of curriculum, curriculum development, education quality.
1. Mở đầu
Vấn đề tự chủ của các trường đại học trên thế giới đã
được đề cập và quan tâm từ rất sớm. Theo các nhà nghiên
cứu, trường đại học cần có mức độ tự chủ cần thiết đủ để
thực hiện các sứ mệnh của mình một cách tốt nhất. Tự chủ
là một khái niệm thường được sử dụng trong các cơ sở
giáo dục đại học (GDĐH), tự chủ có thể được định nghĩa
như là sức mạnh của các trường đại học trong việc quản trị
nhà trường mà không bị chi phối và tác động của thế lực
bên ngoài nhà trường. Mức độ tự chủ của các trường có
thể khác biệt tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa
phương cũng như tuỳ từng thời điểm [1]. Tự chủ đại học,
một mặt giúp cho nhà trường có thể giao tiếp và đàm phán
có hiệu quả với xã hội; mặt khác, cũng cho thấy tầm quan
trọng của tính dân chủ trong nội tại các trường đại học.
Những cơ sở GDĐH muốn chuyển dịch theo hướng tự chủ
cần nhận thức được trách nhiệm của mình đối với việc đáp
ứng và làm tròn một số chức năng xã hội.
Trong gần một thập kỉ qua, vấn đề tự chủ trong
GDĐH Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ
chỗ toàn thể hệ thống GDĐH Việt Nam như một trường
đại học lớn, chịu sự quản lí nhà nước chặt chẽ về mọi mặt
thông qua Bộ GD-ĐT, các trường đại học đã dần được
trao quyền tự chủ. Theo quy định của Luật Giáo dục Việt
Nam, trường đại học có quyền tự chủ trong 5 lĩnh vực:
1) Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng
dạy; 2) Tổ chức tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt
nghiệp; 3) Tổ chức bộ máy; 4) Huy động, quản lí, sử
dụng nguồn lực; 5) Hợp tác trong và ngoài nước [2; tr
34]. Căn cứ vào Luật Giáo dục, tác giả Nguyễn Trọng
Hoài cũng chỉ ra rằng: các cơ sở GDĐH cần tập trung và
4 khía cạnh chính: học thuật, nhân sự, tài chính, quản trị
tổ chức [3]. Tuy nhiên, mức độ tự chủ chưa được quy
định cụ thể. Mặc dù Nhà nước và Bộ GD-ĐT đã hết sức
chú trọng vấn đề tự chủ và đã cố gắng tạo ra hành lang
pháp lí cho quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH, nhưng
các quyền tự chủ đó vẫn chưa thật sự phát huy hết tác
dụng vì tính chất chưa triệt để, thiếu nhất quán, đồng bộ
trong các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Các cơ
sở GDĐH mong muốn được tăng thêm quyền tự chủ, đặc
biệt trong các lĩnh vực quản lí tài chính, bộ máy, nhân sự,
tuyển sinh, trang thiết bị, cơ sở vật chất...
Trong những năm trở lại đây, chương trình đào tạo
(CTĐT) ở tất cả các bậc học đang được các cơ quan quản
lí Nhà nước về GDĐT, GV, giáo viên cũng như toàn thể
xã hội quan tâm. Ví dụ điển hình nhất cho sự thay đổi căn
bản, toàn diện về mặt CTĐT đó là sự ra đời của Chương
trình giáo dục phổ thông tổng thể, cũng như việc định
hướng lại và thiết kế chương trình theo hướng tiếp cận
năng lực ở các cơ sở GDĐH. Trong các khía cạnh về tự
chủ, tự chủ về học thuật nói chung, tự chủ về CTĐT nói
riêng đóng vai trò làm nền tảng cho sự phát triển về mặt
chất lượng của cơ sở giáo dục.
Bài viết tập trung nghiên cứu: 1) Kinh nghiệm tự chủ
học thuật nói chung và tự chủ CTĐT nói riêng ở trên thế
giới; 2) Thực trạng về việc xây dựng CTĐT ở các cơ sở
GDĐH tại Việt Nam; 3) Đề xuất giải pháp về tự chủ
CTĐT cho các trường đại học Việt Nam.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tự chủ học thuật và tự chủ chương trình đào tạo
trên thế giới
Theo Reehana Raza [4], tự chủ đại học có thể chia
thành 2 nhóm: tự chủ thực chất (substantive autonomy)
và tự chủ thủ tục (procedural autonomy). Tự chủ thực
chất bao gồm các hoạt động nghiên cứu học thuật và đào
tạo; đặc biệt chú trọng tới quản trị, thiết kế chương trình,
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 96-99; 123
97
chính sách nghiên cứu, chuyên ngành đào tạo... Tự chủ
thủ tục chú trọng tới các lĩnh vực phi học thuật, liên quan
chủ yếu tới các vấn đề về tài chính (xem bảng 1).
Bảng 1. Phân loại các hình thức tự chủ
Tự chủ thực chất Tự chủ thủ tục
Thiết kế chương trình
Chính sách nghiên cứu
Điều kiện nhập học
Bổ nhiệm GV
Chuyên ngành đào tạo
Ngân sách
Quản lí tài chính
Bổ nhiệm chuyên viên
hành chính
Mua - Bán
Hợp đồng
Bên cạnh đó, việc gia tăng mức độ tự chủ của các cơ
sở GDĐH cũng diễn ra dưới các hình thức đa dạng.
Reehana Raze [4] đã cung cấp các lựa chọn chính sách
khác nhau trong môi trường tự chủ khác nhau, trong đó
có chính sách tự chủ về CTĐT (xem bảng 2):
Bảng 2. Lựa chọn chính sách trong môi trường tự chủ
Mục tiêu
Cách thức đạt được
Môi trường
tập trung
Môi trường
tự chủ
Chất lượng Đánh giá ngoài Đánh giá ngoài
Sự phù hợp
của CTĐT
Định hướng quốc
gia
Tự chủ học
thuật
Một cơ sở giáo dục tự chủ sẽ có quyền quyết định cơ
cấu tổ chức của nhà trường; đề ra những ưu tiên phát
triển, quản lí ngân quỹ của nhà trường, tuyển dụng nhân
sự và tuyển sinh; quyết định nội dung và hình thức tổ
chức dạy học, nghiên cứu trong nhà trường. Mức độ tự
chủ thường được định nghĩa và quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật của quốc gia và có thể bị giới
hạn đối với một số hoặc tất cả các cơ sở GDĐH và sau
đại học trên cả nước.
Về mặt lí thuyết, “tự chủ đại học” và “tự do học thuật”
là hai khái niệm không đồng nhất, mặc dù có thể được sử
dụng luân phiên để nói đến cùng một hiện tượng và quá
trình. Mối quan hệ giữa hai khái niệm này tương đối phức
tạp. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một ngăn cách
khá mong manh giữa tự chủ đại học và tự do học thuật, dù
tự do học thuật là một tiêu chí rất quan trọng nhằm đánh
giá mức độ tự chủ của các cơ sở GDĐH. Tự chủ đại học
không đồng nhất với tự do học thuật và ngược lại. Một số
đặc trưng của tự chủ học thuật [5] bao gồm: - Có quyền
quyết định về tổng số người học; - Có năng lực lựa chọn
người học (hệ cử nhân và thạc sĩ); - Có năng lực giới
thiệu/dừng chương trình học; - Có năng lực lựa chọn ngôn
ngữ giảng dạy; - Có khả năng lựa chọn công cụ đảm bảo
chất lượng (QA) và cơ quan cung cấp QA.
Năm 2017, Bồ Đào Nha chính thức công bố Sắc lệnh
5908/2017 cho phép các trường học ở quốc gia này tham
gia (trên cơ sở tự nguyện) vào dự án “Tự chủ và đa dạng
CTĐT” -PACF. Dự án này mang lại cho các cơ sở giáo
dục những điều kiện cần thiết trong việc quản lí chương
trình; đồng thời tích hợp được các hoạt động nâng cao
chất lượng học tập của người học. PACF không chỉ cho
phép nhà trường thực nghiệm những phương pháp giảng
dạy mới, mà còn hỗ trợ cơ sở phát triển các công cụ và
phương pháp đánh giá mới.
Hội đồng giám sát và cựu sinh Hoa Kì [6] cho rằng:
trường đại học cần phải tự do dạy, tự do học và thống nhất
giữa giảng dạy và nghiên cứu. Đây chính là đặc trưng cho
tự chủ đại học của phương Tây. Hiệp hội quốc tế các
trường đại học từ năm 1965 đã định nghĩa: tự chủ đại học
có nghĩa là các trường có quyền ra quyết định về việc ai sẽ
dạy, ai sẽ được học, ai sẽ tốt nghiệp và đề tài nào sẽ được
nghiên cứu. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, các chuyên
gia, các nhà khoa học thực sự làm việc đạt hiệu quả cao
nhất khi họ không bị thúc giục và tính hiệu quả cũng được
nâng lên trong hoạt động giảng dạy khi họ được tự do về
tư tưởng, tự do trong việc nhìn nhận và thiết kế chương
trình phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn [7].
Trong hệ thống GDĐH tại châu Âu, các trường đại học
nhìn chung có quyền quyết định nội dung CTĐT. Ở Italy,
trường đại học có thể thiết kế trình độ đào tạo nếu họ bám
sát hướng dẫn của chương trình khung vốn hạn chế cấu
trúc của hệ thống học thuật và định nghĩa các hoạt động,
mục tiêu và chuẩn đầu ra giáo dục cho mỗi chương trình.
Ở Latvia, trường đại học phải tuân thủ theo tiêu chuẩn giáo
dục và chuẩn GDĐH; trong đó, có các hướng dẫn chung
cũng như quy định một số khía cạnh nhất định về chương
trình học (thời lượng thực hành, thực tập trong chương
trình nghề). Bên cạnh đó, họ quy định một số module cứng
như các module về kĩ năng doanh nghiệp cho các hệ đào
tạo. Tại Lithuana, cơ quan kiểm định chất lượng sẽ quyết
định một số nội dung như là một phần của quy trình kiểm
định. Các cơ sở giáo dục nhận thức điều này như một trở
ngại tương đối đối với sự đa dạng, tính sáng tạo và tính
cạnh tranh của các trường. Chính quyền Balan không còn
quyết định nội dung của CTĐT ở các trường. Bộ khung
trình độ chuyên môn quốc gia cho phép các trường đại học
nhiều quyền tự do hơn trong việc thiết kế nội dung chương
trình học. Những văn bản trước đây của Chính phủ quy
định về nội dung chương trình giờ được giới hạn lại thành
những yêu cầu chung về Chuẩn đầu ra.
Tại Hàn Quốc, đã có sự sắp xếp lại chức năng, nhiệm
vụ tại các cơ quan quản lí nhà nước về GDĐT các cấp
cũng như các cơ sở giáo dục; trong đó, tập trung nhiều
vào việc thực hiện CTĐT. Quốc gia này tập trung vào
việc “địa phương hoá” CTĐT trên nền tảng bộ khung của
chương trình quốc gia nhằm phát huy hết những đặc
trưng của cộng đồng và nhà trường tại địa phương thể
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 96-99; 123
98
hiện trong nội dung và phương pháp giáo dục [8]. Theo
đó, các cơ sở giáo dục được “cởi trói”, khuyến khích
thoát ra khỏi vai trò bị động trước đây và chuyển sang
thực thi CTĐT mang đậm tính đặc trưng của nhà trường.
Điển hình của sự chuyển dịch này là sự xuất hiện và mở
rộng các học phần tự chọn cũng như những hoạt động tự
chọn được tích hợp trong chương trình. Những hoạt động
này đáp ứng được nhu cầu đa dạng dựa trên sở thích,
năng khiếu của SV; được lồng ghép trong các chương
trình ngoại khoá của nhà trường. Hai thay đổi quan trọng
được thể hiện sự mở rộng tự chủ về CTĐT ở Hàn Quốc
đó là: Khung chương trình quốc gia (sửa đổi năm 2007)
và Kế hoạch quản lí nhà trường nhằm nâng cao tính tự
chủ (2009). Theo đó, những hướng dẫn ở các cấp độ khác
nhau được đưa ra nhằm khuyến khích sự tương tác tốt
hơn đối với sự khác biệt về năng lực, năng khiếu, nhu cầu
cũng như sở thích của học sinh, SV.
2.2. Thực trạng về tự chủ chương trình đào tạo ở các
trường đại học tại Việt Nam
Hiện nay, ở nước ta có khoảng 23 cơ sở GDĐH công
lập thí điểm tự chủ bên cạnh nhóm trường đại học tư thục.
Bước đầu cho thấy: các cơ sở tự chủ đã đạt được những
thành tựu nhất định trên tất cả các lĩnh vực tự chủ; trong
đó có tự chủ CTĐT theo nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên,
do đang trong giai đoạn thí điểm, hệ thống pháp lí chưa
thực sự thống nhất và toàn diện về mặt cơ chế, chính
sách, các cơ sở vẫn còn một số khó khăn chưa thể giải
quyết được. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục trong
năm 2018 đang trong quá trình hoàn thiện; trong đó tập
trung nhiều vào việc hoàn thiện văn bản pháp quy về tự
chủ đại học, hệ thống giáo dục đang hướng tới sự chuyển
mình mạnh mẽ và hiệu quả của các cơ sở đào tạo, tập
trung các nội dung then chốt quyết định chất lượng nhà
trường, trong đó có CTĐT.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về tự chủ đại học, chưa có
nhiều bài viết phân tích sâu về tự chủ chương trình tại các
cơ sở GDĐH, các nghiên cứu hiện nay đang tập trung
nhiều vào tự chủ chương trình giáo dục phổ thông; trong
đó tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học và
sách giáo khoa.
2.2.1. Về mục tiêu đào tạo
Hiện nay, Việt Nam đang vận hành hệ thống GDĐH
mang tính chất tập trung, mặc dù đang có những chuyển
biến tích cực theo chiều hướng phân hoá và đa dạng hơn.
Luật Giáo dục đã đề cập rõ việc phân cấp quản lí giáo dục,
tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại
học, cơ chế đảm bảo quyền tự chủ về học thuật ở Việt Nam
nhưng vẫn tồn tại một số bất cập, hạn chế. Luật Giáo dục
vẫn còn những quy định cứng nhắc mang tính kiểm soát
rất lớn từ phía cơ quan quản lí Nhà nước, chưa đem lại
nhiều sự tự do cho các trường vận hành các hoạt động học
thuật. Bên cạnh một số bất cập, rõ ràng rằng mục tiêu đào
tạo của các trường đại học Việt Nam đã dần đi thẳng vào
trọng tâm, yêu cầu của xã hội cũng như thị trường lao
động. Theo đó, mục tiêu của chương trình tập trung chủ
yếu vào việc phát triển năng lực của người học.
2.2.2. Về cấu trúc chương trình
Hiện nay, việc tự chủ về cấu trúc chương trình của
các trường đại học đã có sự chuyển biến mạnh mẽ. Việc
đổi mới CTĐT theo hướng tiếp cận năng lực đã dẫn đến
một thực trạng là nhiều học phần trước đây bị loại khỏi
khung chương trình, thay thế bởi những môn học mới, có
tính ứng dụng cao, hỗ trợ tốt trong việc phát triển kĩ năng
cho SV. Việc thay đổi khung chương trình thường xuyên
của các trường vẫn đảm bảo nguyên tắc giữ lại những
học phần then chốt, trong khi vẫn dành chỗ cho các học
phần liên môn, có sự hỗ trợ phát triển năng lực cho nhau;
đồng thời giảm tải dung lượng chương trình học, hỗ trợ
tốt hơn, chuyên sâu hơn cho việc học của tất cả SV. Bên
cạnh những điểm đạt được, CTĐT tại các cơ sở GDĐH
công lập đang còn tồn tại bất cập; tuy nhiên, các trường
đang hướng tới việc thay đổi và điều chỉnh về dung lượng
cũng như số lượng các học phần cơ bản, vừa đáp ứng
được yêu cầu phát triển con người, vừa thích ứng với
những yêu cầu khắt khe của thị trường lao động.
2.2.3. Về kiểm tra, đánh giá
Trong các trường đại học thí điểm tự chủ, GV được
trao nhiều quyền linh hoạt hơn trong kiểm tra, đánh giá
SV. Hệ thống kiểm tra, đánh giá của nhà trường được
thiết kế nhằm đáp ứng được sự đa dạng về các bài đánh
giá học phần của GV. Việc tương tác với GV được SV
thực hiện đa dạng hơn căn cứ trên các dạng bài kiểm tra
khác nhau. Điều này không chỉ thể hiển những điểm đạt
được trong việc tự chủ chương trình của các trường, mà
còn tăng khả năng cũng như ý thức tự học của SV, nhằm
đáp ứng được yêu cầu của môn học, hình thành các kĩ
năng cần thiết cho tương lai.
Nhiều chuyên gia nghiên cứu đều đồng ý rằng, tự chủ
về CTĐT trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 là
khía cạnh quan trọng nhất trong quá trình tự chủ của các
trường đại học. Thực tế đặt ra một bất cập, đó là các
trường đại học ở Việt Nam có xu hướng tập trung nhiều
vào tự chủ tài chính, trong khi ngân sách chỉ là điều kiện
góp phần phát triển toàn diện hơn quá trình tự chủ của
nhà trường. Yếu tố căn bản, được cho là gốc rễ tạo nên
sự đột phá về mặt chất lượng của nhà trường chính là
CTĐT; do đó, việc điều chỉnh và cập nhật chương trình
đáp ứng nhu cầu thực tế cần được các cơ sở giáo dục chú
trọng nhiều hơn.
2.2.4. Thực trạng bồi dưỡng năng lực, phát triển chuyên
môn nghề nghiệp cho giảng viên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 96-99; 123
99
Bất kì sự thay đổi nào về CTĐT cũng cần được thông
báo và tập huấn rõ ràng, nghiêm túc và chuyên sâu đối với
GV. Raja Roy Singh đã chỉ ra rằng: “Thành công của các
cuộc cải cách giáo dục phụ thuộc dứt khoát vào ý chí muốn
thay đổi cùng với chất lượng của giáo viên. Không một hệ
thống giáo dục nào có thể vươn cao quá đầu những giáo
viên làm việc cho nó” [9]. Do đó, việc bồi dưỡng phát triển
chương trình cũng như ứng dụng CTĐT mới cần được các
cơ sở GDĐH quan tâm thoả đáng, nghiêm túc trên nền
tảng kế hoạch thường xuyên trong nhiều năm. Kế hoạch
bồi dưỡng cũng cần được dựa trên nguyên tắc sao cho GV
có thể phát triển xa hơn về chuyên môn từ một nền tảng cơ
bản, an toàn và vững chắc.
Hiện nay, GV đã có nhiều ý kiến về sự bất cập về
CTĐT cũng như cách thực hiện CTĐT. Nhận thức của
GV thay đổi bởi một số vấn đề xảy ra trong quá trình cải
cách và thực thi những CTĐT mới: 1) GV không được
cung cấp đầy đủ những chương trình bồi dưỡng hỗ trợ
cho họ trong việc thiết kế, xây dựng và thực hiện chương
trình; 2) Không có nhiều cơ hội cho GV được thực hành,
thực tế thông qua việc giải quyết những vấn đề thực tiễn;
3) Yếu tố văn hoá và bối cảnh làm hạn chế việc thực hiện
đổi mới CTĐT.
2.3. Một số giải pháp tăng cường tự chủ chương trình
đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
2.3.1. Nâng cao sự nhận thức của giảng viên về tự chủ
chương trình đào tạo
Cần nâng cao nhận thức của GV về việc thay đổi
CTĐT theo hướng tự chủ, góp phần vào quá trình hoàn
thành tự chủ ở một trường đại học. Trước bối cảnh về một
sự thay đổi toàn diện về lượng và chất, các cơ sở GDĐH
cần hỗ trợ GV trong việc nhận thức được tầm quan trọng
của việc tự chủ CTĐT; thấy sự thay đổi về chương trình là
điều cần thiết, tự thân, thay vì tác nghiệp trong sự bắt buộc,
cưỡng ép, làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo chung
của toàn trường, cũng như ảnh hưởng tới chất lượng nguồn
nhân lực trong tương lai của xã hội.
GV cần được cung cấp đầy đủ các khoá tập huấn chuyên
sâu, có chất lượng về thiết kế, xây dựng và vận hành CTĐT
mới, theo hướng tiếp cận năng lực. Các khoá bồi dưỡng, tập
huấn cần được tổ chức trên quy mô vừa và nhỏ, có thể kết
hợp giữa người có nhiều kinh nghiệm và người mới bắt đầu
trong các lớp, đảm bảo được sự tập trung, nghiêm túc của
cả người dạy và người học. Trong quá trình tự chủ CTĐT,
cơ sở giáo dục cần lưu ý rằng: nhận thức của GV phụ thuộc
vào số lượng thành viên tham gia vào quá trình phát triển
CTĐT; đồng thời cũng là cầu nối quan trọng giữa họ với
đồng nghiệp, với tiêu chuẩn của cơ quan quản lí Nhà nước
về GDĐT và với yêu cầu của xã hội.
2.3.2. Xây dựng chính sách về tự chủ chương trình đào tạo
Xây dựng chính sách về tự chủ CTĐT nhằm tăng tính
tự chủ của GV, nhà trường trong việc xây dựng và thiết
kế CTĐT; kiểm soát chất lượng giảng dạy và thực hiện
chương trình của GV; cũng như đảm bảo chất lượng của
SV đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc xây dựng chính sách
cần có sự tham gia của nhiều bên liên quan, gồm: Hiệu
trưởng các trường đại học, cao đẳng; đại diện của GV;
công đoàn, Bộ GD-ĐT, chuyên gia nghiên cứu, tổ chức
phi chính phủ, đại diện phụ huynh và SV. Sự tham gia
của các cá nhân/nhóm cá nhân đa dạng trong việc thiết
lập chính sách tự chủ chương trình nhằm giúp các bên
liên quan hiểu được tầm nhìn quốc gia về GD-ĐT; hiểu
rõ hơn và đóng góp nhiều hơn cho quá trình tự chủ của
một trong những khía cạnh then chốt, quyết định chất
lượng của cơ sở giáo dục - tự chủ chương trình.
Xây dựng, hoàn thiện các bộ khung về chương trình
chung của quốc gia, hình thức đảm bảo chất lượng, chuẩn
(theo cấp bậc) về nghề nghiệp cho GV và SV trên cơ sở
tham vấn của các chuyên gia trong và ngoài nước.
2.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lí chuyên trách về
tự chủ chương trình đào tạo
Hiện nay, quy trình về thiết kế, xây dựng chương trình
mới ở Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng bởi cơ chế “trình -
duyệt”, dẫn đến bất cập lớn về việc “xin - cho” vẫn có thể
xảy ra. Cơ quan quản lí Nhà nước cần triệt để “cởi trói” cho
các trường đại học, mang lại quyền tự do và trách nhiệm giải
trình lớn hơn từ phía các trường. Đội ngũ cán bộ quản lí phụ
trách mảng GDĐH tại cơ quan Nhà nước cũng như các
trường cần được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, chuyên
sâu; được trải nghiệm thực tế nhiều về hoạt động quản lí học
thuật, quản lí chương trình, nhằm hỗ trợ cho các trường một
cách tối đa trong quá trình tự chủ CTĐT.
3. Kết luận
Tự chủ CTĐT được coi là yếu tố quan trọng trong tự
chủ đại học, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nói riêng,
danh tiếng nhà trường nói chung. Tự chủ CTĐT cũng là
một khía cạnh của tự do học thuật - một lĩnh vực vốn rất
khó khi biến lí thuyết trở thành các hành động thực tiễn.
Do tính chất quan trọng của CTĐT, chúng tôi cho rằng
việc “cởi trói” cũng như “giới hạn linh hoạt” là rất cần
thiết, nhằm tăng tính ứng dụng, cập nhật cho chương
trình, thu hút GV và trao cho họ nhiều quyền tự chủ hơn
cho chương trình mà mình đảm nhiệm, tăng tính tự giác
và góp phần nâng cao năng lực cho SV. Nội dung chương
trình cần được giảm tải, trong đó vẫn duy trì những học
phần mang tính chất đặc thù. Cách kiểm tra, đánh giá
cũng như hình thức, phương pháp dạy học cần đa dạng,
linh hoạt hơn, nhằm giúp GV dành hết tâm huyết, phát
huy tối đa tính sáng tạo trong việc giảng dạy, thay vì lo
lắng, áp lực bởi việc thanh, kiểm tra.
(Xem tiếp trang 123)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2019, tr 120-123
123
tác quản lí lực lượng ra nước ngoài đào tạo. Quản lí chặt
chẽ, có hiệu quả việc đưa TNQS ra nước ngoài học tập,
có chính sách lưu học sinh tự túc, quản lí lưu học sinh ở
nước ngoài, không để xảy ra hiện tượng “chảy máu chất
xám” của nước ta như đã xảy ra trong thời gian vừa qua.
Quan tâm sử dụng nguồn nhân lực cao được đào tạo từ
nước ngoài; làm tốt công tác thu hút tri thức Việt kiều và
các học giả hàng đầu trên thế giới đến Việt Nam, vào quân
đội tham gia giảng dạy. Quản lí chặt chẽ các nội dung kí
kết hợp tác song phương và đa phương về GD-ĐT. Trên
cơ sở hành lang pháp lí của Nhà nước và những quy định
của quân đội, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện cơ chế,
chính sách thu hút các nhà giáo, nhà khoa học nước ngoài
tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo
dục trên cả nước nói chung và lĩnh vực quân đội nói riêng.
3. Kết luận
Phát triển TNQS là vấn đề cực kì quan trọng trong
xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Vì vậy, để hoạt động trên đạt được mục tiêu, yêu cầu
và phát huy tốt nhất những phẩm chất, năng lực của
TNQS, đòi hỏi các cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy ở các nhà
trường quân đội cần thực hiện đồng bộ, thường xuyên
các biện pháp cơ bản nêu trên, để các TNQS phát huy
được hết khả năng của mỗi tài năng cho việc sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Tuyên giáo Trung ương (2012). Tài liệu nghiên
cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI
(Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên). NXB
Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2] Nguyễn Trọng Bảo (1993). Tuổi trẻ nhân tài và tài
năng quân sự. NXB Quân đội nhân dân.
[3] Bộ Quốc phòng (2013). Chiến lược phát triển giáo
dục, đào tạo trong quân đội giai đoạn 2011 đến
2020. NXB Quân đội nhân dân.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[5] Nguyễn Ngọc Phú (chủ biên, 2010). Thực trạng
nguồn nhân lực, nhân tài của đất nước hiện nay:
Những vấn đề đặt ra - Giải pháp. NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[6] Nguyễn Vĩnh Thắng (2008). Quá trình hình thành,
phát triển tài năng, tài năng quân sự ở Việt Nam.
Tạp chí Nhà trường quân đội, số 2, tr 134-136.
[7] Đặng Hữu Thi (2014). Mấy ý kiến về đào tạo tài
năng quân sự trong các học viện, trường sĩ quan.
Tạp chí Nhà trường quân đội, số 1, tr 25-27.
[8] Nguyễn Huy Tú (2004). Tài năng: Quan niệm, nhận
dạng và đào tạo. NXB Giáo dục.
[9] Trần Văn Tùng (2005). Đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng nguồn nhân lực tài năng. NXB Thế giới.
[10] Đức Vượng (1995). Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo
cán bộ. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
TĂNG CƯỜNG TỰ CHỦ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO...
(Tiếp theo trang 99)
Tài liệu tham khảo
[1] European Centre for Higher Education (1992).
Academic freedom and University Autonomy.
Proceedings of the International Conference.
[2] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2010). Luật Giáo dục. NXB Lao động - Xã hội.
[3] Nguyễn Trọng Hoài (2018). Tự chủ tài chính đại
học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách
cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Tạp chí
Giáo dục, số 439(1), tr 12-16.
[4] Reehana Raza (2009). Examining Autonomy and
Accountability in Public and Private Tertiary
Instituitions. Human Development Network.
[5] Estermann T. - Pruvot E.B (2017). University
Autonomy in Europe III. The Scorecard 2017.
[6] ACTA (2013). Free to teach, Free to Learn -
Understanding and Maintaining Academic
Freedom in Higher Education. New York.
[7] Altbach P.G (2011). The Past, Present, and Future
of the Research University: The Road to Academic
Excellence. Washington DC: The World Bank.
[8] Lee K. (2014). Competency based curriculum and
curriculum autonomy in the Republic of Korea.
Geneva: UNESCO International Bureau of Education.
[9] Raja Roy Singh (1994). Nền giáo dục cho thế kể XXI
- Những triển vọng của các nước vòng cung châu Á
- Thái Bình Dương. Viện Khoa học giáo dục Hà Nội.
[10] Lauridsen D.A (2003). What are teachers’
perceptions of the curriculum development process?
Doctor of Philosophy, School of The Ohio State
University.
[11] Park M. - Sung Y.K (2013). Teachers’ perceptions
of the recent curriculum reforms and their
implementation: what can we learn from the case of
Korean elementary teachers? Asia Pacific Journal
of Education, Vol. 33(1), pp. 15-33.
[12] SASCO (2009). Education Transformation. 16th
National Congress Discussion Document. The South
African Constituition, Bill of Rights, 1996, 16(1) d.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20nguyen_viet_phuong_9911_2148353.pdf