Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh Trung học Phổ thông tại TP. Hồ Chí Minh

Tài liệu Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh Trung học Phổ thông tại TP. Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 208 TẦN SUẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH VI TỰ LÀM TỔN THƯƠNG Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Vân Thảo*, Nguyễn Phương Thảo*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6 quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nh...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tần suất và mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh Trung học Phổ thông tại TP. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 208 TẦN SUẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÀNH VI TỰ LÀM TỔN THƯƠNG Ở HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Vân Thảo*, Nguyễn Phương Thảo*, Thái Thanh Trúc* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) bao gồm nhiều hành vi tự gây thương tích lên cơ thể chính mình. HVTLTT có thể gây ảnh hưởng trước mắt và lâu dài cho người thực hiện. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu về vấn đề này ở vị thành niên tại Việt Nam. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tần suất của các loại hành vi và các mục đích của hành vi tự làm tổn thương ở học sinh trung học phổ thông (THPT) tại thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 36 lớp trong 6 trường tại 6 quận/huyện TP.HCM vào tháng 5 năm 2019 với sự tham gia của 1316 học sinh thỏa tiêu chí chọn mẫu. Học sinh trả lời bộ câu hỏi tự điền được soạn sẵn gồm thông tin cá nhân, gia đình, môi trường học tập, rối loạn sức khỏe tâm thần bằng thang đo DASS-21 và hành vi tự làm tổn thương bằng thang đo FASM. Kết quả: Trong số 1316 học sinh tham gia nghiên cứu thì nữ chiếm đa số (63,3%) và phân bố gần như nhau ở các khối lớp (35,3% khối 10; 35,3% khối 11 và 29,4% khối 12). Tỉ lệ học sinh có HVTLTT trong nghiên cứu là 46,5%. Các hành vithường được học sinh THPT sử dụng là tự đánh mình, chọc phá vết thương, tự cắn và kéo giật tóc của mình. Nam có tỉ lệ kéo giật tóc và làm bỏng da cao hơn nữ (p<0,05). Mục đích phổ biến nhất khi thực hiện hành vi là ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư giãn. Sự khác biệt về các mục đích giữa nam và nữ, khối lớp cũng được xác định. Kết luận: Các học sinh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Hành vi tự làm bỏng da và kéo giật tóc có sự khác biệt giữa nam và nữ. Một số mục đích thực hiệnHVTLTT có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. Từ khóa: hành vi tự làm tổn thương, học sinh ABSTRACT FREQUENCY OF AND REASONS FOR SELF-INJURY BEHAVIOR IN HIGH SCHOOL STUDENTS IN HO CHI MINH CITY Pham Van Thao, Nguyen Phuong Thao, Thai Thanh Truc * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 208 – 215 Background: Self-injury behaviors (SIB) include many self-harm activities that cause injury to one’s own body. SIB can result in both short term and long term affect on the doers' health. However, little is known about this in adolescents in Vietnam. Therefore, this study was to determine the frequency of and reasons for SIB in high school students in Ho Chi Minh City. Methods: A cross-sectional study was conducted at 36 classes in 6 schools in 6 districts within Ho Chi Minh City on May 2019 with the participation of 1316 eligible students. Students completed a self-reported questionnaire which included information about demographic characteristics, family environment, school environment, mental health measured by the DASS-21 and SIB assessed by the FASM. *Khoa Y tế Công Cộng, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS. Phạm Vân Thảo ĐT: 0343661112 Email: phamvanthao4394@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 209 Results: Among 1316 students participated in this study, the majority were female (63.3%) and the number of participants was approximately equal in each grade (33.5% grade 10; 35.3% grade 11 and 29.4% grade 12). The prevalence of self-injury in the students was 46,5%. The most commonly used behaviors were hitting yourself, picking at a wound, bitting yourself, pulling your hair out. Males were more likely to involve in pulling their hair out and burning their skin as compared to females (p <0.05). The most common reasons for having SIB were to stop bad feelings, followed by to punish yourself, to get control of a situation and to feel relaxed. The differences in reasons for SIB between males and females, among different grades were found. Conclusion: Students use various types of SIB for different reasons. and Behaviors such as self-burning skin and pulling out hair were dissimilar between male and female. There were associations between SIB, reasons for SIB with sex and grade. The findings revealed the necessity of an intervention strategy and management to avoid consequences of SIB in high school students. Keyword: self-injury behavior, reason, student ĐẶT VẤN ĐỀ Hành vi tự làm tổn thương (HVTLTT) được hiểu là hành động có chủ ý, trực tiếp tự gây thương tích lên da thịt trên các bộ phận của cơ thể. HVTLTT được ghi nhận tỉ lệ nhiều nước trên thế giới từ 7,5 – 46,5% ở vị thành niên, 38,9% sinh viên đại học(6). Ở thanh thiếu niên các nước như Trung Quốc là 46,4%(2), 33,8% ở Ấn Độ(4), 16,8% ở Nhật Bản(22), 25,2% ở Hoa Kì(14), tỉ lệ chung các nước châu Âu là 27,6%(5). Tại Việt Nam, điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) lần 2 năm 2010 báo cáo tỉ lệ HVTLTT là 7,5%(20), của Huỳnh Văn Sơn trên đối tượng THCS là 31,6%(10). Mỗi cá nhân tham gia vào những hành vi này với kỳ vọng rằng tổn thương sẽ gây ra đau đớn thể chất để điều chỉnh cảm xúc. Các HVTLTT phổ biến thường được báo cáo bao gồm cắt tay, rạch da, tự đánh chính mình, đập đầu, tự cắn mình, tự xăm mình, làm bỏng da, kéo giật tóc, chà sát lên da và một số hành động làm tổn thương khác được biểu hiện theo nhiều cách khác nhau(11). Mục đích để điều tiết cảm xúc là mục đích được sử dụng rộng rãi nhất để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực như căng thẳng, buồn bã, tức giận(13) hay đơn giản muốn gây sự chú ý hoặc gây tổn thương chỉ để cảm thấy được thư giãn. Thêm vào đó, những người thực hiện HVTLTT có thể vì nhiều mục đích khác nhau tùy theo vấn đề gặp phải hay khoảng thời gian trải qua vấn đề chứ không nhất định chỉ phục vụ một mục đích duy nhất(2). HVTLTT thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên(21) và tỉ lệ hành vi có xu hướng tăng theo độ tuổi(3), tuy nhiên cũng có nghiên cứu chỉ ra rằng một số thanh thiếu niên không còn thực hiện HVTLTT theo thời gian(1,8). Nói cách khác, những thay đổi trong HVTLTT của mỗi cá nhân có thay đổi theo thời gian trong từng độ tuổi khác nhau. Trong khi đó, sự khác biệt về giới tính cũng gây tranh cãi khi các y văn cho thấy có sự khác biệt giữa nam và nữ khi thực hiện các loại hành vi khác nhau(5,6), nhưng nghiên cứu của Lang và cộng sự(15) hay Swannel và cộng sự(23) cho kết quả rằng các HVTLTT như nhau ở nam và nữ. Đồng thời Hilt và cộng sự cũng cho thấy, nữ giới thực hiện HVTLTT có liên quan với mục đích điều chỉnh cảm xúc hay thư giãn nhiều hơn(9). Tại Việt Nam, nghiên cứu của Savy chú trọng tìm hiểu tỉ lệ của HVTLTT và các yếu tố liên quan thông qua câu hỏi khá đơn giản “Bạn có bao giờ tự gây thương tích cho mình không?” hay trong nghiên cứu của Huỳnh Văn Sơn khảo sát mức độ biểu hiện và ảnh hưởng của các loại hành vi hủy hoại bản thân ở học sinh trung học cơ sở (THCS) trong đó có tự làm tổn thương mà chưa thực sự khai thác sâu về các loại HVTLTT cũng như các mục đích khi thực hiện hành vi có hay không liên quan tới giới tính cũng như sự khác biệt trong độ tuổi trung học phổ thông (THPT). Bên cạnh đó, tác giả Dương Thị Thu Hương(7) phát hiện 95% học sinh THPT từng có hành vi nguy hại sức khỏe, cũng như nhiều Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 210 hành vi không lành mạnh thường liên kết với nhau. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm khu vực phía Nam với gần 2000 trường học trên 24 quận/huyện cùng với số lượng học sinh chiếm tỉ lệ cao trên cả nước. Chính vì thế nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu tỉ lệ học sinh THPT có HVTLTT, tần suất và mục đích của HVTLTT, cũng như sự khác biệt giữa các yếu tố này theo giới và theo các nhóm tuổi khác nhau trên học sinh THPT tại TP. Hồ Chí Minh với mong muốn kết quả sẽ làm tiền đề để đưa ra cách phòng ngừa, biện pháp can thiệp, quản lí và tư vấn kịp thời cho các em học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học tại nhà trường, giúp xã hội, gia đình có những nhìn nhận rõ ràng và cụ thể hơn về HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ học sinh THPT có HVTLTT, tần suất và mục đích của HVTLTT, và sự khác biệt giữa các yếu tố này theo giới và theo các nhóm tuổi khác nhau trên học sinh THPT tại TP. Hồ Chí Minh. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Được tiến hành trên học sinh THPT tại 6 quận/huyện thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 5 năm 2019, bao gồm các quận/huyện sau: quận 5, Tân Bình, Bình Tân, Bình Chánh, Cần Giờ, Hóc Môn. Tiêu chí đưa vào Tất cả học sinh đang học tại các trường được chọn và đồng ý tham gia nghiên cứu, trả lời bộ câu hỏi. Tiêu chí loại trừ Học sinh không được sự đồng ý của PHHS/người giám hộ, học sinh không có mặt tại thời điểm thu thập dữ liệu và học sinh không trả lời cho phần HVTLTT trong bộ câu hỏi. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Cỡ mẫu Được tính theo công thức ước lượng một tỉ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 0,05, sai số của ước lượng là 0,05, tỉ lệ 29% thanh thiếu niên có ít nhất một lần HVTLTT theo nghiên cứu của Tang tại Trung Quốc được chọn là tỉ lệ ước lượng kết cuộc trong dân số(24), hệ số thiết kế là 2. Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành thu thập mẫu qua 2 bước, xác nhận bằng văn bản có chữ ký đồng ý của phụ huynh học sinh (PHHS)/người giám hộ, sau đó mới tiến hành phát bộ câu hỏi tự điền về nhà trên những học sinh được sự đồng ý, theo các nghiên cứu trước đây thì khả năng mất mẫu lớn(4). Dự phòng mất mẫu 20% nên cỡ mẫu cần lấy ít nhất là 1585 người. Phương pháp chọn mẫu Áp dụng kĩ thuật chọn mẫu nhiều bậc, tại mỗi quận/huyện chọn ngẫu nhiên ra một trường THPT. Tại từng trường chọn ngẫu nhiên mỗi khối 2 lớp. Tất cả học sinh trong lớp được mời tham gia nghiên cứu. Trong tổng số 36 lớp được chọn có tổng số học sinh là 1707 học sinh. Phương pháp thực hiện Sau khi nhận được đồng ý của ban giám hiệu nhà trường tiến hành tại địa điểm nghiên cứu, nghiên cứu viên đến lớp cung cấp thông tin về nghiên cứu và gửi xác nhận cho phép các học sinh được tham gia nghiên cứu có chữ kí của PHHS/người giám hộ cho tất cả học sinh có mặt tại lớp khi đó. Có 327 PHHS/người giám hộkhông đồng ý cho học sinh tham gia nghiên cứu. Các học sinh được phép tham gia nghiên cứu hoàn thành bộ câu hỏi tự điền đượcbỏ trong phong bì dán kín tại nhà và gửi lại cho nghiên cứu viên vào hôm sau. Đồng thời thông tin hỗ trợ tư vấn tâm lí và giải đáp những thắc mắc cũng được gửi đến những người tham gia. Sự tham gia của các học sinh là hoàn toàn tự nguyện và mọi thông tin được giữ riêng tư và bí mật. Sau khi thu lại bộ câu hỏi, kiểm tra và rà soát, nghiên cứu loại 64 bộ câu hỏi không hoàn chỉnh thì 1316 bộ câu hỏi hợp lệ được đưa vào Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 211 phân tích. Bộ câu hỏi tự điền bao gồm các thông tin về đặc điểm cá nhân, gia đình, môi trường học tập, các vấn đề sức khỏe tâm thần và hành vi tự làm tổn thương. Hiện nay có nhiều thang đo được đưa ra để đánh giá HVTLTT, các thang đo đều được áp dụng rộng rãi, cho độ tin cậy cao trong nhiều nghiên cứu. Chúng tôi quyết định chọn thang đo FASM (Functional Assessment of Self- Mutilation) của Lloyd (1997) do đây là thang đo được sử dụng phổ biến trên thế giới và bởi vì đặc điểm nội dung của thang đo đánh giá ngắn gọn hơn so với các thang đo khác, đồng thời khái niệm hành vi trong thang đo cũng phù hơp với tiêu chí đánh giá trong nghiên cứu hiện tại(6,16). Thang đo bao gồm 2 phần: Phần thứ nhất bao gồm 11 hành vi được liệt kê như cắt/khắc trên da, tự đánh mình, kéo giật tóc, tự xăm, chọc phá một vết thương trên cơ thể, làm bỏng da, nhét vật lạ dưới móng tay, tự cắn, tự đâm vào một vùng trên cơ thể đến mức chảy máu, cạo da, chà sát mạnh lên da và một câu “khác” với hệ số Cronbach’s alpha là 0,86(17). Phần thứ hai là 22 câu hỏi về mục đích của HVTLTT, các lí do được đưa ra để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau khi thực hiện hành vidẫn đến Cronbach’s alpha cho phần này chỉ đạt 0,66(17), phần này được đánh giá theo dạng Likert từ 0 (Không bao giờ) đến 3 (Thường xuyên). Các mục đích này được chúng tôi phân thành nhị giá là có (≥1) và không (0). Thang đo DASS-21 (Depression Anxiety and Stress Scales) là phiên bản rút gọn của DASS phiên bản gốc khảo sát 3 vấn đề sức khỏe tâm thần stress, lo âu, trầm cảm gồm 7 câu cho mỗi phần. Thang đo đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới và chuẩn hóa tại Việt Nam(26) với hệ số Cronbach’s alpha 0,88. Xử lý dữ liệu Dữ liệu được tổng hợp và nhập bằng phần mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm Stata 14.2. Tần số và tỉ lệ phần trăm được dùng để mô tả các biến đặc điểm cá nhân, gia đình, môi trường học tập, hành vi tự làm tổn thương. Kiểm định Chi bình phương hoặc Fisher được sử dụng để so sánh tỉ lệ các hành vi và lý do giữa các phân nhóm giới và khối lớp. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Y đức Nghiên cứu đã được sự chấp thuận của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh theo số 136/ĐHYD-HĐĐĐ vào ngày 28/03/2019. KẾT QUẢ Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu (n=1316) Đặc điểm n % Giới tính Nam 483 36,7 Nữ 833 63,3 Khối lớp Khối 10 464 35,3 Khối 11 465 35,3 Khối 12 387 29,4 Học lực Giỏi 700 53,2 Khá 470 35,7 TB/Dưới TB 146 11,1 Hạnh kiểm Tốt 1218 92,5 Khá 77 5,9 TB/Dưới TB 21 1,6 Sống chung với ai Cha và mẹ 1059 80,5 Cha hoặc mẹ 153 11,6 Cha/mẹ+cha/mẹ kế 46 3,5 Khác 36 2,7 Từ chối trả lời 22 1,7 Cảm nhận kinh tế gia đình Khó khăn 102 7,7 Bình thường 1135 86,3 Khá giả 79 6,0 Bạo hành gia đình Không 1133 86,1 Có 86 6,5 Từ chối trả lời 97 7,4 Áp lực học tập Có 895 68,0 Không 421 32,0 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 212 Trong 1316 học sinh THPT tại thành phố Hồ Chí Minh, học sinh nữ chiếm đa số (63,3%). Tỉ lệ học sinh gần như tương đương nhau ở khối 10 và 11, khối 12 có tỉ lệ thấp hơn so với hai khối còn lại. Hầu hết các học sinh có học lực khá giỏi trở lên và hạnh kiểm tốt. Các học sinh sống chung với cha và mẹ là chủ yếu. Đa số đều cho rằng kinh tế gia đình bình thường. Có 6,5% học sinh trả lời mình từng bị bạo hành gia đình. Hơn một nửa số học sinh tham gia được ghi nhận mình có áp lực về học tập (Bảng 1). Hành vi tự làm tổn thương trong tổng số học sinh được ghi nhận là 46,5%. Trong các hành vi tự làm tổn thươngthì tự đánh mình được sử dụng nhiều nhất, tiếp đó là chọc phá vết thương và tự cắn mình, kéo giật tóc của mình. Chỉ có kéo giật tóc (p <0,05) và tự làm bỏng da của mình (p<0,01) là có khác biệt giữa hai giới. Học sinh nam có tỉ lệ hành vi kéo giật tóc và làm bỏng da mình cao hơn nữ. Các loại hành vi khác thì không có khác biệt giữa nam và nữ cũng như các khối lớp (Bảng 2). Bảng 2: Các loại hành vi tự làm tổn thương theo giới tính và khối lớp (n=1316) Hành vi tự làm tổn thương Chung n (%) Nam n (%) Nữ n (%) Khối 10 n (%) Khối 11 n (%) Khối 12 n (%) Tự đánh mình 328 (24,9) 118 (24,5) 210 (25,2) 121 (26,1) 115 (24,8) 92 (23,8) Chọc phá vết thương đang lành 249 (18,9) 97 (20,1) 152 (18,3) 94 (20,3) 94 (20,3) 61 (15,8) Tự cắn mình 242 (18,4) 76 (15,8) 166 (19,9) 94 (20,3) 79 (17,0) 69 (17,8) Kéo giật tóc 209 (15,9) 91 (18,9) 118 (14,2)* 79 (17,0) 72 (15,5) 58 (14,9) Cắt/khắc da 86 (6,5) 28 (5,8) 58 (6,9) 33 (7,1) 24 (5,2) 29 (7,5) Cạo da 64 (4,9) 27 (5,6) 37 (4,4) 21 (4,5) 19 (4,1) 24 (6,2) Làm bỏng da mình 58 (4,4) 32 (6,6) 26 (3,1)** 28 (5,6) 18 (3,9) 14 (3,6) Tự đâm/chọc các vùng trên cơ thể đến chảy máu 57 (4,3) 21 (4,4) 36 (4,3) 25 (5,4) 19 (4,1) 13 (3,4) Tự xăm mình 50 (3,8) 16 (3,3) 34 (4,1) 14 (3,0) 23 (4,9) 13 (26,0) Nhét vật lạ dưới móng/da 47 (3,6) 19 (3,9) 28 (3,4) 23 (4,9) 13 (2,8) 11 (2,8) Chà sát trên da 28 (2,1) 9 (1,9) 19 (2,3) 12 (2,6) 10 (2,2) 6 (1,6) **p<0,01; *p<0,05 Bảng 3: Mục đích của hành vi tự làm tổn thương (n=570) Mục đích của HVTLTT Chung n (%) Đặc điểm Nam n (%) Nữ n (%) Khối 10 n (%) Khối 11 n (%) Khối 12 n (%) Để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực 330 (58,0) 117 (57,1) 213 (58,5) 131 (63,3) 102 (49,3) 97 (62,6)** Để trừng phạt chính mình 287 (50,4) 92 (44,9) 195 (53,6)* 99 (47,8) 94 (45,4) 94 (60,6)* Để kiểm soát được tình hình 259 (45,4) 94 (45,9) 165 (45,2) 100 (48,3) 92 (44,4) 67 (42,9) Để cảm thấy thư giãn 251 (44,2) 90 (43,9) 161 (44,4) 99 (47,8) 87 (42,2) 65 (41,9) Để cảm nhận một cái gì đó kể cả khi đó chỉ là đau 241 (42,3) 90 (43,9) 161 (44,4) 93 (44,9) 79 (38,2) 69 (44,2) Để tránh phải làm điều gì đó khó chịu mà bạn không muốn làm 233 (40,9) 78 (38,0) 155 (42,5) 89 (43,0) 82 (39,6) 62 (39,7) Để giảm cảm giác trống rỗng hoặc “tê liệt” 215 (37,7) 77 (37,6) 138 (37,8) 80 (38,6) 73 (35,3) 62 (39,7) Để cho bản thân cái gì đó để làm khi một mình 166 (29,2) 64 (31,2) 102 (28,0) 60 (29,0) 58 (28,0) 48 (31,0) Để nhận được sự thấu hiểu và quan tâm từ cha mẹ 164 (28,8) 60 (29,3) 104 (28,6) 68 (32,9) 55 (26,6) 41 (26,5) Để tránh trường học, công việc hoặc các hoạt động khác 158 (27,7) 57 (27,8) 101 (27,7) 59 (28,5) 60 (29,0) 39 (25,0) Để nhận được nhiều sự chú ý hơn từ cha mẹ hoặc bạn bè của bạn 158 (27,7) 60 (29,3) 98 (26,8) 61 (29,5) 55 (26,6) 42 (26,9) Để cố gắng có được phản ứng từ ai đó, thậm chí đó là phản ứng tiêu cực 157 (27,5) 61 (29,8) 96 (26,3) 61 (29,5) 44 (21,3) 52 (33,3)* Để người khác biết bạn tuyệt vọng như thế nào 154 (27,1) 55 (26,8) 99 (27,2) 49 (23,7) 62 (30,0) 43 (27,7) Để người khác đối xử với bạn khác đi hoặc thay đổi cách đối xử trước đó của họ 135 (23,7) 47 (22,9) 88 (24,2) 45 (21,7) 48 (23,2) 42 (27,1) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 213 Mục đích của HVTLTT Chung n (%) Đặc điểm Nam n (%) Nữ n (%) Khối 10 n (%) Khối 11 n (%) Khối 12 n (%) Để tránh tiếp xúc với mọi người 122 (21,4) 43 (21,0) 79 (21,7) 45 (21,7) 41 (19,8) 36 (23,2) Để nhận được sự giúp đỡ 113 (19,9) 48 (23,4) 65 (17,9) 39 (18,8) 43 (20,8) 31 (20,0) Để gây sự chú ý 91 (16,0) 36 (17,6) 55 (15,1) 31 (15,0) 34 (16,4) 26 (16,7) Để cảm nhận nhiều hơn mình là một phần của một nhóm 91 (16,0) 35 (17,1) 56 (15,4) 37 (17,9) 33 (15,9) 21 (13,5) Để làm người khác tức giận 81 (14,2) 36 (17,6) 45 (12,4) 28 (13,5) 32 (15,5) 21 (13,5) Để tránh sự trừng phạt hoặc sự lãnh chịu hậu quả 89 (15,6) 39 (19,0) 50 (13,7) 32 (15,5) 40 (19,3) 17 (11,0) Để cho bản thân một việc phải làm khi ở bên người khác 69 (12,1) 32 (15,6) 37 (10,2) 28 (13,5) 25 (12,1) 16 (10,3) Để cho giống như một người mà bạn tôn sùng 28 (4,9) 18 (8,8) 10 (2,7)** 11 (5,3) 12 (5,8) 5 (3,2) **p<0,01; *p<0,05 Kết quả từ Bảng 3 cho thấymức độ phổ biến và tần suất của mục đích khi thực hiện HVTLTT. Mục đích phổ biến nhất là để ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực, để trừng phạt chính mình, kiểm soát tình hình hoặc để thư giãn. Mục đích thực hiện HVTLTT có khác biệt theo giới là nhằm trừng phạt chính mình (nữ cao hơn nam) và nhằm giống một người mà các em tôn sùng (nam cao hơn nữ). Có mối liên quan giữa các khối lớp và mục đích khi thực hiện HVTLTT. Trong đó học sinh khối 12 có tỉ lệ cao hơn về các mục đích như để trừng phạt chính mình, hoặc để cố gắng có được phản ứng từ ai đó (thậm chí đó là phản ứng tiêu cực). Học sinh khối 10 lại có tỉ lệ mục đích thực hiện HVTLTT cao nhất so với các khối 11 và 12 là nhằm ngăn chặn những cảm xúc tiêu cực. BÀN LUẬN Tại Việt Nam, HVTLTT đang là vấn đề dần trở nên phổ biến, thu hút sự chú ý từ xã hội cũng như trở thành mối quan tâm từ các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu này là một trong số ít nghiên cứu tại Việt Nam cũng như tại TP. Hồ Chí Minh tìm hiểu chi tiết về các loại hành vi và mục đích khi thực hiện HVTLTT của học sinh THPT cũng như sự phân bố của các tỉ lệ này theo phân nhóm giới và khối lớp. Từ tổng mẫu ban đầu 1707 học sinh tham gia nghiên cứu, nghiên cứu loại ra 391 học sinh theo như tiêu chí, tỉ lệ phản hồi là 77,1%. Tuy nhiên, trong số này có tới 327 học sinh không được sự đồng ý của PHHS/người giám hộ thuộc tiêu chí loại ra và chiếm phần lớn tỉ lệ mất mẫu (19,2%). Các nghiên cứu trước đây, hình thức lấy đồng thuận được tiến hành chủ yếu dưới dạng “bị động” trong đó phụ huynh được thông báo và phụ huynh nào không muốn học sinh tham gia thì gửi phản hồi cho nhà trường, nếu không phản hồi thì xem như đồng ý và khi đó tỉ lệ mất mẫu thấp. Trong nghiên cứu hiện tại, theo yêu cầu của hội đồng đạo đức, chúng tôi tiến hành lấy đồng thuận “chủ động”, trong đó học sinh tham gia nghiên cứu phải có chữ ký đồng ý của PHHS/người giám hộ trước khi được phép tham gia trả lời bộ câu hỏi. Điều này dẫn đến tỉ lệ mất mẫu cao hơn và khá tương đồng với nghiên cứu có hình thức lấy đồng thuận tương tự(4). Từ kết quả phân tích, có thể nhận thấy các học sinh sử dụng khá nhiều phương pháp để tự làm tổn thương. Tần suất sử dụng các hành vi có khác so với trong bài phân tích tổng hợp của Cipriano và cộng sự(6) khi các hành vi tự cắt/khắc trên da, tự đánh và làm bỏng da mình là nhiều nhất.Trong khi đó, kết quả của chúng tôi lại khá tương đồng khi so với quốc gia có nền văn hóa và điều kiện phát triển tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc với hành vi tự đánh mình là nhiều nhất (16,7), kéo giật tóc (11,2%) và tự cắn mình (7,0%).Về các mục đích khi thực hiện HVTLTT, tương tự như trong nghiên cứu gộp của Taylor và cộng sự(25), những mục đích phổ biến nhất là kiểm soát tình hình (63,8%), ngăn chặn cảm xúc tiêu cực (62,8%), trừng phạt mình (41,6%) hay để thư giãn (30,5%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 214 Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có một số khác biệt giữa nam và nữvới các loại hành vi cũng như mục đích khi thực hiện HVTLTT. Thống kê từ nhiều y văn trên các quốc gia khác nhau cho thấy(3,6,15,23), giới tính là yếu tố không hằng định trong các mối liên quan với HVTLTT. Nghiên cứu của Tang và cộng sự(24), các loại hành vi đều có sự khác nhau giữa nam và nữ nhưng nghiên cứu của Lang và cộng sự(15) lại không tìm thấy sự khác biệt trong nghiên cứu và ở nghiên cứu của Bresin cũng chỉ ra rằng chỉ có một số hành vi là đưa đến sự khác biệt, như kéo giật tóc, đập đầu vào tường. Theo Tổ ChứcY Tế Thế Giới(27), sự khác biệt giữa giới tính được tìm thấy trong các rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, rối loạn ăn uống có xu hướng thiên về nữ giới, tuy nhiên ở nam giới, họ có xu hướng gặp nhiều vấn đề dễ gây nên sự tức giận cũng như có nhiều hành vi có ý nghĩ nguy hiểm táo bạo hơn. Nói cách khác, cả nam và nữ đều có nhu cầu điều tiết cảm xúc của mình, nhưng mục đích của HVTLTT có thể khác nhau. Mặc dù tỉ lệ các HVTLTT là cao ở các khối lớp nhưng nghiên cứu của chúng tôi không thấy sự khác biệt về các HVTLTT giữa các khối lớp. Tuy nhiên, một số mục đích thực hiện HVTLTT lại có sự khác nhau giữa các khối lớp. Các nghiên cứu trước thường không đề cập đến khối lớp nhưng thay vào đó là độ tuổi, trong đó thể hiện mối liên hệ giữa độ tuổi và HVTLTT cũng như các mục đích của nó là không rõ ràng. Hành vi có thể tăng hoặc giảm theođộ tuổi(2) cũng như cách nhìn nhận về hành vi sẽ thay đổi theo thời gian(1,8). Đồng thời dù ở độ tuổi nào, mọi người đều có nhu cầu sử dụng hành vi để điều chỉnh những áp lực, căng thẳngvà những người thực hiện HVTLTT có thể sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau(18). HVTLTT được xem là hành vi đối phó không lành mạnh bởi mức độ tổn thương thể chất để lại cũng như mối liên quan với tự tử vẫn đang là vấn đề tranh cãi khi có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng HVTLTT là những bước đầu ở những người có ý định tự tử về sau(12,19). Từ kết quả phân tích kết hợp với bằng chứng hiện có trên y văn cho thấy cần có những chương trình can thiệp, phòng ngừa các HVTLTT của học sinh. Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi bổ sung phần nào những hiểu biết chưa đầy đủ về HVTLTT ở học sinh THPT; cung cấp bằng chứng khoa học cho nhà trường, các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe tâm thần, tâm lí hành vi cho trẻ vị thành niên ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này có một số điểm hạn chế cần cân nhắc khi ứng dụng. Thứ nhất, đây này là một trong những nghiên cứu đầu tiên nên chủ yếu dựa vào thang đo đánh giá FASM vốn chỉ được dịch sang tiếng Việt mà chưa có nghiên cứu đánh giá tính giá trị và tính tin cậy trên vị thành niên Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến một số sai lệch thông tin. Thứ hai, tỉ lệ phụ huynh từ chối tham gia nghiên cứu là cao. Có khả năng những học sinh mà phụ huynh từ chối cho tham gia nghiên cứu là những đối tượng có HVTLTT. Vì vậy, nghiên cứu này có thể có sai lệch trong chọn mẫu. Tuy nhiên, điều này là không tránh khỏi vì hội đồng đạo đức yêu cầu phải có sự đồng ý của phụ huynh trước khi học sinh được phép trả lời bộ câu hỏi. Trong khi đó các nghiên cứu trước thường lấy thông tin trực tiếp từ học sinh và đồng ý tham gia hay không là do chính học sinh. KẾT LUẬN Các học sinh THPT tại thành phố Hồ Chí Minh sử dụng nhiều phương pháp tự làm tổn thương khác nhau để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Một số HVTLTL và lý do của nó có liên quan đến giới và khối lớp. Kết quả cho thấy cần có sự hỗ trợ can thiệp và quản lí để tránh những hậu quả từ HVTLTT trên đối tượng học sinh THPT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Andrews T, Martin G, Hasking P, Page A (2013). "Predictors of continuation and cessation of nonsuicidal self-injury". J Adolesc Health, 53(1):40-46. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 215 2. Barrocas AL, Giletta M, Hankin BL, Prinstein M, Abela JRZ (2014). "Nonsuicidal Self-Injury in Adolescence: Longitudinal Course, Trajectories, and Intrapersonal Predictor". J Abnorm Child Psycho, 43(2):369-380. 3. Barrocas AL, Hankin BL, Young JF, Abela JR (2012). "Rates of nonsuicidal self-injury in youth: age, sex, and behavioral methods in a community sample". Pediatrics, 130(1):39-45. 4. Bhola P, Manjula M, Rajappa V, Phillip M (2017). "Predictors of non-suicidal and suicidal self−injurious behaviours, among adolescents and young adults in urban India". Asian Journal of Psychiatry, 29:123-128. 5. Brunner R, Kaess M, Parzer P, Fischer G, Carli V, Hoven CW, et al (2013). "Life-time prevalence and psychosocial correlates of adolescent direct self-injurious behavior: A comparative study of findings in 11 European countries". Journal of Child Psychology and Psychiatry, 55(4):337–348. 6. Cipriano A, Cella S, Cotrufo P (2017). "Nonsuicidal Self-injury: A Systematic Review". Front Psychol, 8:1946. 7. Dương Thị Thu Hương (2017). Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông. Luận án Tiến sĩ, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 8. Hamza C, Willoughby T (2014). "A Longitudinal Person- Centered Examination of Nonsuicidal Self-injury Among University Students". Journal of Youth and Adolescence, 43(3):671– 685. 9. Hilt LM, Cha CB, Nolen-Hoeksema S (2008). "Nonsuicidal self- injury in young adolescent girls: moderators of the distress- function relationship". J Consult Clin Psychol, 76(1):63-71. 10. Huỳnh Văn Sơn và cộng sự (2018). Hiện tượng tự hủy hoại bản thân của học sinh trung học cơ sở (THCS) và biện pháp phòng ngừa. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Viện chiến lược và chính sách tài chính, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 24 trang. 11. International Society for the Study of Self Injury (ISSS) (2018). What is Nonsuicidal Self-injury? URL: https://itriples.org/category/about-self-injury/. 12. Klonsky ED, May AM, Glenn CR (2013). "The relationship between nonsuicidal self-injury and attempted suicide: converging evidence from four samples". J Abnorm Child Psychol, 122(1):231-237. 13. Klonsky ED (2007). "The functions of deliberate self-injury: a review of the evidence". Clinical Psychology Review, 27(2):226-239. 14. Klonsky ED, Olino TM (2008). "Identifying clinically distinct subgroups of self-injurers among young adults: a latent class analysis". J Consult Clin Psychol, 76(1):22-27. 15. Lang J, Yao YS (2018). "Prevalence of nonsuicidal self-injury in chinese middle school and high school students: A meta- analysis". Medicine (Baltimore), 97(42):e1916. 16. Lloyd EE, Kelley ML (1997). Self-Mutilation in a Community Sample of Adolescents. Ph.D thesis, Psychology, Louisiana State University and Agricultural & Mechanical College. 17. Lloyd-Richardson EE, Perrine N, Dierker L, Kelley ML (2007). "Characteristics and functions of non-suicidal self-injury in a community sample of adolescents". Psychol Med, 37(8):1183– 1192. 18. Muehlenkamp JJ, Brausch AM, Quicgley K, Whitlock JL (2013). "Interpersonal Features and Functions of Nonsuicidal Self- injury". Suicide and Life-Threatening Behavior, 43(1):67. 19. Müller A, Claes L, Smits D, Brähler E, Zwaan M (2016). "Prevalence and Correlates of Self-Harm in the German General Population". PLoS One, 11(6):e0157928. 20. Nguyễn Thanh Hương (2010). Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2. Báo cáo chuyên đề Sức khỏe tâm thần của vị thành niên và thanh niên Việt Nam, pp.26- 30. 21. Nock MK, Favazza AR (2009). "Nonsuicidal self-injury: Definition and classification". Understanding nonsuicidal self- injury: Origins, assessment, and treatment. American Psychological Association, pp.9-18. 22. Ohira T, Munesue T, Oi M, Suzuki K, Saito D (2018). "Investigation of the reliability and validity of the Japanese DeliberateSelf-HarmInventory". Journal of Brain Science, 48:14-42. 23. Swannell SV, Martin GE, Page A, Hasking P, St John NJ (2014). "Prevalence of nonsuicidal self-injury in nonclinical samples: systematic review, meta-analysis and meta-regression". Suicide Life Threat Behav, 44(3):273-303. 24. Tang J, Li G, Chen B, Huang Z, Zhang Y, Chang H, et al (2018). "Prevalence of and risk factors for non-suicidal self-injury in rural China: Results from a nationwide survey in China". J Affect Disord, 226:188-195. 25. Taylor PJ, Jomar K, Dhingra K, Forrester R, Shahmalak U, Dickson JM (2017). "A meta-analysis of the prevalence of different functions of non-suicidal selfinjury". Journal of Affective Disorders, 227:759-769. 26. Tran DT (2013). "Validation of the depression anxiety stress scales (DASS) 21 as a screening instrument for depression and anxiety in a rural community-based cohort of northern Vietnamese women". BMC Psychiatry, doi: 10.1186/1471-244X- 13-24. 27. WHO (2002). Gender and Mental Health. URL: https://www.who.int/gender/other_health/genderMH.pdf. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftan_suat_va_muc_dich_cua_hanh_vi_tu_lam_ton_thuong_1474_2212159.pdf