Tài liệu Tài liệu thi cao học môn triết học Mác: Tài liệu thi cao học môn triết học Mác
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học
1. Đặt vấn đề:
Triết học xuất hiện từ khi con người có sự phân công lao động. Khi đó các ngành khoa học còn nằm trong triết học gọi là triết học tự nhiên. Sau nhiều thế kỷ chúng mới phát triển thành các ngành khoa học độc lập với triết học.
Khái niệm triết học dù ở phương Tây hay phương Đông, dù biến đổi trong lịch sử như thế nào đều bao gồm hai yếu tố:
- Yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết của con người về vũ trụ và con người giải thích hiện thực bằng tư duy.
- Yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động.
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới; là quy luật của những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tính cách là một hình thái ý thức quan trọng nhất và cổ xưa nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên với sự phát t...
47 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu thi cao học môn triết học Mác, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu thi cao học môn triết học Mác
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học
1. Đặt vấn đề:
Triết học xuất hiện từ khi con người có sự phân công lao động. Khi đó các ngành khoa học còn nằm trong triết học gọi là triết học tự nhiên. Sau nhiều thế kỷ chúng mới phát triển thành các ngành khoa học độc lập với triết học.
Khái niệm triết học dù ở phương Tây hay phương Đông, dù biến đổi trong lịch sử như thế nào đều bao gồm hai yếu tố:
- Yếu tố nhận thức: Sự hiểu biết của con người về vũ trụ và con người giải thích hiện thực bằng tư duy.
- Yếu tố nhận định: Đánh giá về mặt đạo lý để có thái độ và hành động.
Theo quan điểm Mác xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới; là quy luật của những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Với tính cách là một hình thái ý thức quan trọng nhất và cổ xưa nhất. Vai trò của triết học ngày càng tăng lên với sự phát triển tri thức của nhân loại.
Trong sự phát triển của mình. Triết học dần dần hình thành các trường phái khác nhau cùng giải quyết một vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy, giữa tự nhiên và tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau. Đó chính là vấn đề cơ bản của triết học, không có một trường phái triết học nào lại không giải quyết vấn đề này, vì việc giải quyết nó sẽ chi phối việc giải quyết các vấn đề khác của triết học. Nó là điểm xuất phát của mọi tư tưởng, mọi quan điểm của mọi hệ thống triết học trong lịch sử.
2. Vấn đề cơ bản của triết học: Gồm hai mặt là bản thể luận và nhận thức luận.
2.1. Bản thể luận: Trả lời câu hỏi giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta biết lập trường triết học của người nói và duy vật, duy tâm hay nhị nguyên.
* Trường phái triết học duy vật cho rằng vật chất có trước ý thức, vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và quyết định ý thức, ý thức phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người.
Trong LSTH có khá nhiều loại hình chủ nghĩa duy vật khác nhau:
* Chủ nghĩa duy vật cổ dại Hy Lạp - La Mã với những đại diện nổi tiếng từ hơn 2000 năm, nhiều trường phái hiện nay đã được bắt nguồn từ trường phái triết học này. Chủ nghĩa duy vật trực quan thô sơ mộc mạc dựa trên những quan sát trực tiếp.
- Đêmôcrit: Học thuyết về nguyên tử cho rằng nguyên tử là thành phần nhỏ bé nhất của vật chất.
- Hêraclit: Ông được coi là nhà biện chứng vĩ đại thời cổ đại.
- Epi quya: Người phát triển học thuyết nguyên tử. Ba đại diện này đã tạo thành đường lối triết học. Đêmôcrit trong triết học cổ đại.
* Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII: Là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Thời trung cổ khoa học cũng như triết học không phát triển dưới sự kìm kẹp của nhà thờ.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh, không vận động, không phát triển trong trạng thái cô lập, không liên quan đến các sự vật hiện tượng khác, nó đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình có 3 trung tâm lớn là: Anh (với các đại diện như: F.Bêcơn, T.Hopxơ, G.Lôcơ); Hà Lan (B.xpinoda); Pháp (Hênnntiuyt, Điđrô, Lemetri).
- Chủ nghĩa duy vật nhân bản: Lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chính, là mục tiêu triết học phải phục vụ. Trường phái sau này được Mác kế thừa và phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường: Khi giải thích về ý thức họ đã tầm thường hoá quan điểm này. ý thức là một dạng của vật chất như là gan và mật vậy (Mô tả Lơ sốt và Bukhơme).
Trường phái triết học duy tâm (khách quan, chủ quan,duy ngã) thừa nhận tinh thần, ý thức là cái có trước, cái quyết định, vật chất là cái có sau -cái bị quyết định. Chủ nghĩa duy tâm được thể hiện qua hai trào lưu chính:
+ Chủ nghĩa duy vật khách quan: coi tinh thần tư duy tồn tại độc lập, bên ngoài con người (Platon, Hêghen).
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận ý thức tồn tại trong trí óc của con người (Beccơli, Hium, Fichtê). Chính tư duy, cảm giác của con người sinh ra sự vật. Beccơli nói: "khi tôi không suy nghĩ vẫn còn người khác suy nghĩ. Khi không có ai suy nghĩ vẫn còn thượng đế suy nghĩ. Thế giới không bao giờ mất đi". Ông đã chuyển dần sang duy ngã.
+ Duy ngã: chủ nghĩa duy tâm chủ quan được phát triển đến tột độ là chủ nghĩa duy ngã "chỉ có tư duy của tôi" (Hium).
* Trường phái nhị nguyên luận: tư duy và tồn tại, vật chất và ý thức không cái nào có trước, không cái nào có sau, không cái nào quy đinkhj cái nào, chúng cùng song song tồn tại với nhau.
2.2. Mặt thứ hai: Nhận thức luận: trả lời câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giới hay không? Việc trả lời câu hỏi này cho chúng ta biết ai là người khả tri và ai là người bất khả tri.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người có thể nhận thức được thế giới.
Các nhà triết học duy vật cho rằng: con người có khả năng nhận thức được thế giới như nó tồn tại.
Các nhà triết học duy tâm cho rằng: nhận thức được thế giới như sản phẩm của tinh thần.
+ Thuyết khả tri: cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới, không thể nhận ra đâu là duy vật, đâu là duy tâm. Số người bất khả tri là nhỏ.
Cantơ: Lúc là nhà duy vật, lúc là nhà duy tâm, lúc là bất khả tri.
Hium: Con người không thể nhận biết được thế giới hoặc chưa nhận biết được hiện tượng của sự vật.
Hơcxli: Thừa nhận vật chất có ý thức, nhưng lại cho rằng con người không thể nhận biết được thế giới.
3. Phương pháp nhận thức thế giới của triết học.
Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, giúp cho việc nhận thức hoạt động và cải tạo thế giới, triết học Mác dựa vào những thành quả của các khoa học cụ thể, nhưng nó không lấy phương pháp của các ngành khoa học cụ thể để làm phương pháp của mình. Phương pháp nhận thức chung nhất, đúng đắn nhất của triết học là phương pháp biện chứng duy vật, nó đối lập với duy tâm và siêu hình.
Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại, vận động và phát triển. Ngược lại, phương pháp siêu hình xem xét sự vật hiện tượng trong sự tác rời không vận động, không phát triển. Cuộc đấu tranh giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình cũng là một nội dung cơ bản của lịch sử triết học.
Phương pháp biện chứng duy vật xuất hiện từ thời cổ đại, chỉ đến khi triết học Mác ra đời. Phương pháp này mới thực sự trở thành phương pháp triết học khoa học. Phương pháp này giúp con người khả năng nhận thức đúng đắn khách quan về giới tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp cho con người đạt được hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Kết luận: Để đánh giá về các trường phái triết học khác nhau thì chúng ta phải trả lời câu hỏi về tính bản thể luận và tính nhận thức luận.
Câu 2: Phạm trù vật chất.
1. Đặt vấn đề:
Lịch sử triết học đã chia triết học làm hai trường phái: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm - vấn đề xuyên suốt trong quá trình phát triển của lịch sử triết học:
- Các trường phái của triết học đều đi đến thống nhất triết học có 2 bộ phận cấu thành và gồm 2 mặt: Vật chất và ý thức.
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất là cái có trước (tính thứ nhất), ý thức là cái có sau (tính thứ hai) vật chất quy định ý thức - vật chất là một trong những phạm trù cơ bản, là nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng
2. Quan điểm của các nhà triết học duy vật trước Mác.
Quan niệm về vật chất của các nhà duy vật cổ đại: Khuynh hướng chung của các nhà duy vật cổ đại là đi tìm một vật ban đầu nào đó và coi đó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới. Tất cả đều bắt nguồn từ đó và cũng tan biến trong đó.
Nhưng nói chung các nhà duy vật cổ đại hiểu vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một vật cụ thể cố định, ví dụ:
- Triết học ấn Độ cổ đại - Phái Charơ và coi cơ sở đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí.
- Triết học Hi Lạp cổ đại coi cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại là nước.
- Những nhà nguyên tử luận cổ đại có hai cơ sở tồn tại đó là nguyên tử và trống rỗng.
Thuyết nguyên tử cổ đại là một bước phát triển của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật chất triết học - cơ sở khoa học của nhận thức khoa học sau này.
* Thế kỷ XIX:
- Khoa học phát hiện ra nguyên tử các tư tưởng của Lơxíp, Đêmôcrít đã được Galilê, Đềcáctơ, Niutơn… khẳng định và phát triển, nhưng họ vẫn đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc vật chất với một thuộc tính phổ biến của các vật thể đó là khối lượng.
* Cuối TK XIX đầu TK XX:
Trên thế giới đã diễn ra cuộc cách mạng khoa học tự nhiên, nó được đánh giá bằng một loạt những phát minh quan trọng.
- Rơnghen: Phát hiện ra tia X.
- Béccơren: Phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của một số nguyên tố hoá học nặng.
- Tômsơn: Phát hiện ra điện tử.
- Hau phnam: Đã phát hiện ra điện tử tăng khi vận tốc nó tăng.
Những phát minh đó là một bước tiến của loài người trong việc nhận thức và làm chủ giới tự nhiên, đem lại cho con người những hiểu biết mới sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất.
Tóm lại: Triết học duy vật trước Mác có những đóng góp và hạn chế.
Đóng góp: Vật chất được coi là thực thể cơ sở đầu tiên ban đầu của các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy vật coi ý thức là cái có trước.
Hạn chế: Sự đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất với những thuộc tính của vật chất làm căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng chống lại chủ nghĩa duy vật bảo vệ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy tâm cho rằng "Vật chất là cái tiêu tan".
3. Định nghĩa vật chất của Lênin.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học, ông đã viết tác phẩm "CNDT và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" ông đã định nghĩa về vật chất như sau:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Phân tích: Lênin dòi hỏi cần phải phân tích vật chất với tính cách là một phạm trù triết học. Nó chỉ tất cả những tác động vào ý thức của chúng ta giúp hiểu biết về sự vật, hiện tượng, chuyển biến từ dạng này sang dạng khác bằng khắc phục sai lầm của CNDT (vật chất có sau, ý thức có trước và quan điểm siêu hình của các nhà triết học duy vật trước Mác).
- Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan siêu hình, máy móc và những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư sản hiện đại. Do đó DN này cũng đã giải quyết được sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học về khoa học theo quan điểm của CNDV siêu hình.
- Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng vô tận, luôn vận động và phát triển không ngừng nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất làm phong phú hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 3: Vật chất và vận động:
Khái niệm vận động: Không phải chỉ sự di chuyển nói chung trong không giam mà là sự biến đổi nói chung.
- Định nghĩa: Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
1. Vận động là thuộc tính hữu cơ của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Là thuộc tính không tách rời của vật chất.
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình, không thể có vật chất không có vận động và ngược lại.
Vận động của vật chất là sự tự thân vận động, bởi vì tất cả các dạng vật chất bao giờ cũng là một kết cấu bao gồm các yếu tố các mặt, các quá trình trong sự tác động qua lại dẫn đến sự biến đổi nói chung. Vận động ở đây là sự tự vận động.
Vận động là hình thức tồn tại của vật chất, thông qua vận động các dạng vật chất mới được bộc lộ - các dạng vật chất được nhận thức thông qua vận động.
Vật chất không do ai sáng tạo ra và nó không thể bị tiêu diệt đi, mà vận động là thuộc tính của vật chất vận động cũng không do ai sáng tạo ra và cũng không mất đi.
2. Tính mâu thuẫn của vận động:
Có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới: ở sự di chuyển vị trí của các vật thể.
- Vận động vật lý: vận động của các phân tử, các hạt cơ bản các quá trình nhiệt điện.
- Vận động hoá học: của các nguyên tử, quá trình phân giải và hoà hợp của các chất.
- Vận động sinh vật: ở hoạt động của cơ chế, ở sự trao đổi giữa cơ thể sống.
- Vận động xã hội: là quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái KTXH.
Tuy có sự khác nhau về chất nhưng cách thức vận động của sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, từ hình thức thấp đến cao.
Thế giới vật chất không chỉ ở trong quá trình vận động mà còn đứng im tương đối có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật hiện tượng phong phú và đa dạng.
- Vì đứng im là tương đối lớn thể hiện ở các mặt sau đây:
+ Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
+ Sự đứng im của vật thể chỉ trong một thời gian xác định và chúng trong thời gian này đã nảy sinh nhân tố dẫn đến sự đứng im tạm thời.
- Vận động của thế giới vật chất bao hàm cả tính biến đổi và tính ổn định.
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất: biểu hiện những thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính nhưng các sự vật lại tồn tại trong độ nhanh chậm khác nhau, kế tiếp và chuyển hoá > thời gian > không gian - thời gian cùng biến đổi với vật chất.
- Tính thống nhất của thế giới vạt chất được biểu hiện ở chỗ là cơ sở, thực thể duy nhất, phổ biến tồn tại vĩnh viễn và vô tận… và nó gần liền với sự liên hệ tác động qua lại giữa các yếu tố ở bên trong thế giới > vận động và phát triển.
3. ý nghĩa của quan điểm triết học duy vật biện chứng về vận động.
Chống lại quan điểm duy tâm và siêu hình về vận động không đi tìm nguồn gốc của vận động ở trên trong bản thân sự vật và quy nguồn gốc ấy về tinh thần hoặc vào chủ thể của nhận thức.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, bằng tư tưởng về sự khác biệt và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản của vật chất là cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức. Quy hình thức vận động cao và hình thức vận động thấp và ngược lại.
Quan điểm sự thống nhất không tách rời giữa không gian và thời gian và vật chất vận động của chủ nghĩa duy vật biện chứng hoàn toàn bác bỏ quan điểm siêu hình tác rời không gian, thời gian với vật chất vận động.
Tóm lại: Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận, tuy thế giới vật chất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều là vật chất, đều thống nhất ở tính vật chất của nó.
Câu 4: Phạm trù ý thức:
I. Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về ý thức.
Giải quyết một cách duy vật và biện chứng về ý thức, đặt tư duy trong mối quan hệ với tồn tại, dựa trên quan điểm duy vật biện chứng về vấn đề cơ bản của triết học để xem ý thức (tính thứ hai)
II. Nguồn gốc và biện chứng của ý thức.
1. Nguồn gốc có hai loại: Tự nhiên và xã hội.
a. Nguồn gốc tự nhiên: ý thức ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của các hình thức phản ánh của thế giới vật chất.
Phản ánh: Là thuộc tính chung của vật chất, được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Ví dụ: Nước là ôxy tác động vào kim loại gây ra sự han gỉ, sự han gỉ của kim loại phản ánh đặc điểm của nước và ôxy.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất tương ứng với sự phát triển của các hình thức của vật chất thì thuộc tính của vật chất cũng phát triển, phản ánh có hai loại cơ bản, đó là:
+ Phản ánh thế giới vô cơ. Phản ánh vật lý được biểu hiện qua những biến đổi cơ lý hoá dưới những hình thức biểu hiện cụ thể như thay đổi vị trí, biến dạng và phá huỷ.
+ Phản ánh thế giới hữu cơ, phản ánh sinh vật, biểu hiện từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Trình độ thấp nhất của phản ánh sinh vật đó là tính kích thích thể hiện ở thực vật và các cơ thể động vật bậc thấp.
ở động vật bậc cao phản ánh được phát triển cao hơn, do việc xuất hiện hệ thần kinh xuất hiện tính cảm ứng do những tác động từ bên ngoài cơ thể lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại - phản xạ không điều kiện.
Phản ánh tâm lý: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện, đã xuất hiện tri giác và hiện tượng - phản ánh tâm lý ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
Phản ánh ý thức: Là một hình thức phản ánh mới đặc trưng của… tổ chức cao nhất - bộ não người.
Là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật.
Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động thần kinh của bộ não người, tinh thần, phản ánh thế giới khách quan, nó diễn ra bằng thần kinh của bộ não người - không có bộ não người và sự tác động của thế giới xung quanh vào bộ não người thì không thể có ý thức.
b. Nguồn gốc xã hội của ý thức: Lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động: Đưa lại cho người dáng đi thẳng đứng bằng hai chân, giải phóng hai tay có để có thể làm được những tác động khéo léo, tinh xảo khác nhau. COn người đã chế tạo ra những công cụ làm biến đổi thế giới, quyết định những đặc điểm khác nhau của các vật phẩm được làm ra. Trong quá trình lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực bằng bộc lộ những đặc tính, những kết cấu, quy luật vận động - tác động vào bộ óc người tạo nên cảm giác tri giác - trong quá trình cải tạo thế giới biến đổi thế giới nảy sinh những hiện tượng khác nhau sinh ra ý thức.
+ Ngôn ngữ: Lao động đã liên kết những con người - thành viên trong xã hội với nhau - nảy sinh nhu cầu trao đổi ngôn ngữ. Là cái vỏ trực tiếp của tư tưởng và chỉ diễn ra bằng phương tiện ngôn ngữ.
2. Bản chất của ý thức:
Định nghĩa: ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan…
ý thức là hình ảnh chủ quan - vì nó không có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh thần, hình ảnh chủ quan không phải được phản ánh tuỳ tiện, xuyên tạc HTKQ. Hiện thực khách quan đã được di chuyển vào bộ não người và được cải biến và nó phụ thuộc vào sự sáng tạo của ý thức trở thành tinh thần, những hình ảnh tinh thần và chủ quan phản ánh đúng đắn quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng.
ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm các yếu tố như: tri thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí. Trong đó tri thức là quan trọng nhất. Tri thức là quá trình phát triển có tính lịch sử về thế giới hiện thực xung quanh vào bộ não người trên cơ sở thực tiễn - việc nhấn mạnh tri thức là quan trọng nhất, giúp chúng ta tránh được quan điểm giản đơn, coi ý thức chỉ là yếu tố như: tình cảm, niềm tin, trừu tượng trong đó của con người.
Tóm lại: ý thức của con người là sản phẩm hoạt động lao động và ngôn ngữ, sự phản ánh ý thức là hình thức phản ánh cao nhất mang tính chất sáng tạo.
Câu 5: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Dưới góc độ nhận thức luận và trong hoạt động thực tiễn.
I. Định nghĩa: Vật chất của Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Phân tích định nghĩa: Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với tính cáhc là một phạm trù triết học, nó chỉ tất cả những gì tác động vào ý thức của chúng ta, giúp hiểu về sự vật hiện tượng.
+ Vật chất được thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người.
+ Định nghĩa ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Bản chất của ý thức:
ý thức là hình ảnh chủ quan, nó không có tính vật chất. Hình ảnh chủ quan này đã được phản ánh vào bộ não người, được cải biến và nó phụ thuộc vào sự sáng tạo của ý thức trở thành tinh thần.
ý thức có kết cấu phức tạp gồm các yếu tố: tri thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí, trong đó tri thức là quan trọng nhất, nó có quá trình phát triển lịch sử xã hội về thế giới hiện thực khách quan vào bộ não người trên cơ sở thực tiễn.
II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức dưới góc độ nhận thức luận
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức thì vật chất có trước (tính thứ nhất), ý thức có sau (tính thứ hai), vật chất quyết định ý thức khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, thì sự nhận thức thế giới phải xuất phát từ thế giới khách quan.
Cùng với sự phát triển của hoạt động biến đổi thế giới, ý thức của con người phát triển song song với quá trình và có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với vật chất. Có thể thúc đẩy sự kìm hãm sự phát triển của quá trình hiện thực.
Chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng trong bất kỳ trường hợp nào ý thức bao giờ cũng là sự phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh, hơn nữa, tự thân nó ý thức không thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực. ý thức muốn tác động lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn.
III. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt động.
ý thức trang bị cho con người những tri thức về bản chất của các quy luật khách quan của đối tượng - giúp con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp.
+ Con người với ý thức của mình xác định đúng dắn mục tiêu và đề ra các biện pháp để tổ chức cách hoạt động thực tiễn.
Nói đến tính tích cực của ý thức tức là nói đến con người, đến hoạt động có mục đích của con người bằng tính tích cực có thể thúc đẩy và có thể kìm hãm ở một mức độ nhất định sự phát triển của tồn tại (ý thức) và ngược lại.
Tóm lại: Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vật chất bao giờ cũng có vai trò quy định ý thức nhưng ý thức lại có tác động trở lại đối với vật chất, nên quan hệ tác động này diễn ra thông qua hoạt động của con người. Chính vì thế nâng cao năng lực nhận thức các quy luật và vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn của con người.
Câu 6: Phép biện chứng với tính cách là khoa học và mối liên hệ phổ biến và phát triển.
I.1. Nội dung mối liên hệ phổ biến.
1. Khái niệm: Các sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới không cái nào tồn tại cô lập, biệt lập mà chúng ta là một tổng thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng các tác động nhau, ràng buộc nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau.
2. Nội dung: Mối liên hệ không những diễn ra ở trong sự vật hiện tượng trong tự nhiên xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng.
Mối liên hệ trên đây là khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, nó bắt nguồn từ tính thống nhất của vật chất, của thế giới biểu hiện trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ của các sự vật - hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Khi nghiên cứu hiện thực khách quan chúng ta có thể phân chúng thành nhiều loại khác nhau.
Mối liên hệ bên trong - bên ngoài.
Mối liên hệ bản chất: quy định bản chất của sự vật, không có nó sự vật, hiện tượng không tồn tại được.
Mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu: nổi lên trong một giai đoạn nào đó của sự vật hiện tượng.
Mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp: trực tiếp không cần khâu trung gian, gián tiếp cần khâu trung gian.
Sự phân loại liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức. Một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến nối chung, song sự phân loại là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quyết định sự vận động của phát triển của sự vật hiện tượng không hoàn toàn như nhau.
II. Nội dung nguyên lý phát triển.
1. Khái niệm:
+ Vận động: Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Sự biến đổi chuyển hoá này là vô cùng vô tận với những tính chất và khuynh hướng khác nhau.
PT: Khái niệm phát triển không bao giờ khái quát trong sự vận động nói chung.
+ Nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ.
2. Tính chất của sự phát triển.
Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo hướng từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện - tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau.
+ Trong thế giới vô cơ sự phát triển biểu hiện dưới hình thức biến đổi của các yếu tố và hệ thống vật chất, sự tác động giữa chúng trong điều kiện nhất định là xuất hiện các hợp chất phức tạp (VD: sự tác động giữa F từ và NT hợp chất hoá học).
Trong sinh vật: sự phát triển của chúng thể hiện ở sự thích nghi trước sự biến đổi phức tạp của môi trường, ở sự hoàn thiện không ngừng quá trình trao đổi chất ở sự tái sinh chính mình đã dẫn đến sự xuất hiện ngày càng cao hơn của các phương thức sản xuất.
+ Trong tư duy: giới hạn nhận thức của thế hệ trước luôn bị các thế hệ sau vượt qua bằng sự phát triển và đổi mới là hiện tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên xã hội, tư duy mà nguồn gốc của nó là sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
III. ý nghĩa phương pháp luận:
NC nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển có ý nghĩa đối với chúng ta trong hoạt động nhận thức và LĐ thực tiễn.
Nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Các sự vật hiện tượng thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ iến và nhiều vẻ thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phương diện một chiều.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác, xem xét các mặt, các yếu tố kể cả các mắt khâu trung gian. Tuy nhiên quan điểm toàn diện không phải xem xét cân bằng tràn lan, mà phải lấy vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng.
Nguyên lý phát triển: Muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm QT, khắc phục quan điểm bảo thủ, trí tuệ.
Khi phân tích sự vật hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động phải phát hiện được các xu hướng biến đổi, chuyển hoá.
Câu 7: Nội dung, ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
I. Đặt vấn đề:
Phép biện chứng duy vật có 3 quy luật (thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, lượng đổi, chất đổi, phủ định của phủ định) ® 3 hình thức, cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
Quy luật thống nhất của các mặt đối lập nói lên nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật và nó có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
II. Nội dung:
1. Khái niệm: Đấu tranh là sự tác động qua lại của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng khách quan.
2. Tính chất của đấu tranh:
* Đấu tranh là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- Khách quan: Phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại đấu tranh bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau và tạo thành đấu tranh.
- Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến: Đấu tranh tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người thể hiện:
+ Đấu tranh tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng, tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chúng ta.
+ Không có sự vật, hiện tượng nào lại không có đấu tranh và không có một giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có đấu tranh. Đấu tranh này mất đi mâu thuẫn khác lại hình thành.
* Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
* Khái niệm mặt đối lập: Là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng… trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và hiện tượng.
Đấu tranh là chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau: Mâu thuẫn phải có 2 mặt đối lập, họ không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành đấu tranh, chỉ vì mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành đấu tranh.
* Khái niệm thống nhất: Là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Ví dụ:
- Trong sự vật: Hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá, nếu chỉ là một quá trình thì sự vật sẽ chết.
- Trong xã hội: Giai cấp tư sản và vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách một giai cấp bán sức lao động thì cũng không có giai cấp tư sản, tồn tại với tư cách mua sức lao động, bóc lột sức lao động để tạo ra giá trị thặng dư.
- Khái niệm "thống nhất" trong quy luật đấu tranh còn gọi là "đồng nhất", hai khái niệm này đồng nghĩa với nhau song khái niệm "đồng nhất" còn có một nghĩa khác đó là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập.
Trong một cuộc đấu tranh sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng, sự thống nhất của hai mặt đối lập ® hai mặt đối lập không nằm yên bên nhau mà luôn luôn đấu tranh với nhau Þ là một quá trình phức tạp và chia ra làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng khác nhau (ví dụ: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản).
Tóm lại: Bất cứ sự thống nhất của các mặt cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời, tương đối. Còn sự đấu tranh của các mặt đối lập có tính chất tuyệt đối, nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về chất của các sự vật hiện tượng.
* Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
Sự vật và hiện tượng trong thế giới là muôn hình, muôn vẻ nên sự chuyển hoá và các mặt đối lập cũng rất khác nhau, vì vậy phải căn cứ vào từng sự vật mà phân tích sự chuyển hoá của các mặt đối lập, nghĩa là hai mặt đối lập chuyển hoá với nhau hoặc cả hai chuyển thành chất mới.
3. Các loại đấu tranh: Có 4 loại:
a. Đấu trnah bên trong và bên ngoài:
Đấu tranh bên trong: Là đấu tranh nằm ngay trong bản thân sự vật và hiện tượng.
Đấu tranh bên ngoài: Là đấu tranh giữa các sự vật và hiện tượng với nhau.
b. Đấu tranh cơ bản và đấu tranh không cơ bản.
+ Đấu tranh cơ bản: Là đấu tranh quy định bản chất sự vật, hiện tượng.
+ Đấu tranh không cơ bản: chịu sự chi phối của đấu tranh cơ bản.
c. Đấu tranh chủ yếu và đấu tranh thứ yếu:
+ Đấu tranh chủ yếu: Là đấu tranh nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình phát triển của sự vật.
+ Đấu tranh thứ yếu là đấu tranh không đóng vai trò quyết định.
d. Đấu tranh đối kháng và không đối kháng.
Đấu tranh đối kháng: Là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản trái ngược nhau, không thể điều hoà được.
Đấu tranh không đối kháng là đấu tranh giữa những khuynh hướng, những lực lượng xã hội mà lợi ích căn bản nhất trí với nhau.
III. ý nghĩa phương pháp luận.
1. Phải thừa nhận tính khách quan về đấu tranh của các sự vật, hiện tượng, đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt đối lập của đấu tranh, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận động và phát triển của chúng.
2. Phải biết phân tích thật cụ thể một đấu tranh cụ thể và tìm cách giải quyết đấu tranh cụ thể đối với từng đấu tranh - chúng ta phải tuân theo nguyên tắc sự vật, hiện tượng đối lập nhau thì đấu tranh khác nhau, mỗi quy trình đều có đấu tranh, mỗi đấu tranh lại có đặc điểm riêng.
3. Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết đấu tranh vì đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập, bất kỳ đấu tranh nào, bất kỳ giai đoạn nào của đấu tranh, đấu tranh chỉ được giải quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Câu 7 (Phần 2): Nội dung, ý nghĩa quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất lượng và ngược lại.
I. Đặt vấn đề:
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận động và phát triển.
II. Nội dung:
1. Khái niệm:
* Chất: Là tính quy định vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, nhưng yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác.
- Trong thế giới có vô vàn các sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng đều có một chất riêng, là mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất tuỳ theo những quan hệ cụ thể.
* Lượng: Là tính chất quy định của sự vật và hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển của nó, trình độ phát triển của nó biểu thị con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng.
- Lượng của sự vật nói lên kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.
Có nhiều tính quy định về lượng khác nhau, sự vật và hiện tượng càng phức tạp thì những thông số về lượng càng phức tạp.
Sự phân biệt giữa chất là lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng mối quan hệ mà xác định đâu là chất, đâu là lượng của sự vật. Có cái trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại.
2. Mối quan hệ tính chất giữa chất và lượng: Mỗi sự vật có một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động đến nhau một cách biện chứng. Trong sự vật tính quy định về chất không tồn tại nếu không có tính quy định về lượng và ngược lại.
Khi sự vật đang tồn tại chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định ® mối liên hệ giữa chất và lượng, là giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa biến thành cái khác.
Trong phạm vi một độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác động lẫn nhau làm cho sự vật và hiện tượng vận động và biến đổi.
So với chất lượng thay đổi tuổi ® quá trình diễn ra từ từ tăng dần hoặc giảm dần. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì dẫn đến sự thay đổi vật chất ® quá trình thay đổi dần dần của lượng đã tạo điều kiện cho chất đổi.
Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy ® bước ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng, thời điểm sảy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, nó không chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật ® sự vật mới, lượng mới ® điểm nút ® xảy ra bước nhảy và cứ như thể làm cho sự vật mới luôn luôn thay thế sự vật cũ.
- Sự biến đối về lượng dần dần dẫn đến sự biến đổi về chất diễn ra một cách phổ biến trong giới tự nhiên, đời sống xã hội, tư duy.
+ Tự nhiên: Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendelép đã chỉ rõ tính đa dạng của các chất phụ thuộc vào nguyên tử, khi cơ PhôFônFăng, giảm thì nguyên tử sẽ trở thành nguyên tố khác.
+ Đời sống xã hội: sự thay thế phương thức sản xuất - sự thay đổi lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
+ Tư duy: sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng là bước nhảy vọt về chất trong lịch sử triết học.
Quy luật "Lượng - Chất" không chỉ có sự biến đổi về lượng > thay đổi về chất mà còn ngược lại ® khi chất mới ra đời ® một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất giữa chất và lượng.
Tóm lại: Quy luật Lượng - Chất quy luật về sự tác động biện chứng giữa lượng và chất, những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại.
III. ý nghĩa phương pháp luận:
+ Khắc phục tư tưởng nôn nóng "tả khuynh" đồng thời phải khắc phục tư tưởng bảo thủ "hữu khuynh". Quy luật lượng chất giúp ta hiểu rằng lượng đổi ® chất đổi thông qua bước nhảy là hình thức tất yếu của sự vận động và phát triển. Nhưng sự thay đổi về chất chỉ diễn ra với điều kiện lượng thay đổi đến điểm nút.
Tư tưởng nôn nóng ''tả khuynh'' không chú ý đến quá trình tích luỹ về lượng ® họ nôn nóng, chủ quan, duy ý chỉ cho rằng sự phát triển chỉ là bước nhảy liên tục mà không cần đến sự tích luỹ dần dần về lượng.
Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy quy luật tự nhiên, đời sống xã hội đều có tính khách quan. Sự khác nhau là ở chỗ, quy luật tự nhiên thì tự nó diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống xã hội chỉ được giải quyết thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Câu 7 (Phần 3): Nội dung ý nghĩa, quy luật phủ định của phủ định
I. Khái niệm và đặc điểm của phủ định (xu hướng của sự phát triển)
1. Khái niệm: Một dạng vật chất được sinh ra, tồn tại, rồi mất đi, được thay thế bằng một dạng khác, đó là sự phủ định.
Sự phủ định là một yếu tố nhất thiết hải có của quá trình vận động và phát triển.
Phép biện chứng duy vật không đề cập đến sự phủ định chung mà chỉ nói đến sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của cái mới ra đời thay thế cái cũ.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng.
* Tính khách quan: Sự phủ định của cái mới ra đời thay thế cái cũ nằm ngay trong bản thân sự vật, nó là kết quả của những đấu tranh được giải quyết trong bản thân mỗi sự vật ® phương pháp định có tính khách quan là một yếu tố tất yếu của sự phát triển.
* Tính kế thừa: Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết vì đấu tranh vốn có của các sự vật, hiện tượng ® cái mới ra đời không thể là một sự phủ định tuyệt đối, sạch trơn mà là một sự phủ định có kế thừa.
Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ ® có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp của cái cũ để chuyển sang cái mới gạt bỏ ở cái cũ, mặt lỗi thời, lạc hậu gây cản trở cho sự phát triển ® nội dung cơ bản của sự phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng không chỉ là nguyên tố khắc phục cái cũ, mà còn gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định.
II. Nội dung của quy luật.
Phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới này lại trở nên cũ và bị cái mới sau phủ định ® khuynh hướng phát triển tất yếu đi từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoáy ốc.
VD: Lấy ví dụ về hạt thóc ® gặp điều kiện thuận lợi ® nảy mầm ® hạt thóc biến đi (hạt thóc bị phủ định) bị thay thế bởi một cây lớn ® lớn lên, ra hoa, thụ phấn ® sinh ra hạt thóc mới ® thân cây chết đi (cây bị phủ định) và cứ như thế.
Þ Đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định: Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển bên trong của sự vật quy định. Mỗi lần phủ định đều là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong bản thân sự vật ® sự vật đấu tranh giữa khẳng định và phủ định.
+ Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái khẳng định ban đầu và cả trong cái phủ định lần thứ nhất, tạo ra chất mới cao hơn ® nó có nội dung toàn diện, phong phú hơn.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển mới tiếp theo.
Tóm lại: Quy định phủ định của phủ định, khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, sự phát triển không theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc ® tính chất biện chứng của sự phát triển, tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.
Khi nghiên cứu quy luật phủ định chúng ta không nên hiểu tất cả các sự vật, hiện tượng đều qua hai lần phủ định mà là nhiều lần.
III. ý nghĩa phương pháp luận.
Giúp chúng ta hiểu biết một cách đúng đắn về xu hướng của sự phát triển, quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng thắn mà quá trình đó quanh co phức tạp (lấy ví dụ từng lĩnh vực đời sống xã hội: về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩ xã hội).
Giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới ® ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật ® biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển ® chúng ta ủng hộ cái mới, đấu tranh cho cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển, chống lại cái cũ đã lỗi thời kìm hãm sự phát triển.
Câu 8: Cặp phạm trù cái chung và cái riêng.
I. Khái niệm:
1. Phạm trù: Là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của các sự vật và hiện tượng thuộc lĩnh vực nhất định của hiện thực.
2. Khái niệm phạm trù của phép biện chứng duy vật: Là những khái niệm chung nhất, phản ánh nhiều mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nào của hiện thực, mà là toàn bộ thế giới hiện thực nói chung.
II. Nội dung của cặp phạm trù cái chung và cái riêng.
1. Định nghĩa:
* Cái riêng: Là một phạm trù của triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
* Cái chung: Là một phạm trù của triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung:
Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, biểu hiện ở các mặt sau:
- Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình ® cái chung không tồn tại thuần tuý bên ngoài cái riêng (VD: Phương thức sản xuất ® lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất).
- Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong quan hệ với cái chung ® không có cái riêng nào tồn tại tuyệt dối độc lập, mà cái riêng chỉ còn tồn tại trong mối quan hệ với cái chung.
- Sự vật hiện tượng nào cũng có hai mặt là cái chung và cái riêng, hai mặt này đều tồn tại khách quan.
* Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Cái chung là các bộ phận, nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng.
Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chung, cái riêng còn có những đặc điểm riêng mà chỉ riêng nó có.
Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng ® phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên ổn định phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại ® Cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau: Trong những điều kiện nhất định, cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển đi lên, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
+ Sự chuyểnhoá của cái trung thành, cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời của phủ định.
3. Một số kết luận về phương pháp luận:
- Nếu cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối mọi cái riêng, thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện cái chung, vận dụng cái chung để tạo cái riêng ® nếu không hiểu biết cai chung thì sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng như là một bộ phận của cái riêng, nên bất cứ cái chung nào, khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hoá ® nếu không chú ý đến sự cá biệt hoá đó sẽ rơi vào bệnh dập khuôn, giáo điều, ngược lại nếu xem thường cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng sẽ rơi vào bệnh cục bộ, địa phương giáo điều cá nhân.
Câu 8 (Phần 2): Phạm trù bản chất và hiện tượng.
I. Định nghĩa:
* Bản chất: Là tổnghợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
* Hiện tượng: Là cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, cái tạo nên bản chất của mỗi lớp sự vật nhất định, cũng đồng thời là cái chung của sự vật đó. Tuy nhiên không phải cái chung nào cũng là bản chất.
+ Phạm trù bản chất là cùng một loại với phạm trù quy luật. Nói đến bản chất là nói đến những quy luật vận động và phát triển của nó ® Phạm trù bản chất là cùng loại, cùng bậc với phạm trù quy luật. Tuy vậy bản chất và quy luật không đồng nhất với nhau, mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện được một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất, còn bản chất là cái tổng hợp của hàng loại quy luật.
II. Nội dung (sự thống nhất biện chứng giữa cái bản chất và hiện tượng).
* Bản chất và hiện tượng là thống nhất với nhau, không tách rời nhau:
+ Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ qua hiện tượng và hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất, không có bản chất nào tồn tại một cách thuần tuý mà lại không biểu hiện qua hiện tượng và người.
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng, sự thống nhất cả hai mặt đối lập.
Đấu tranh giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở chỗ: sự đối lập giữa cái bên trong và cái bên ngoài.
- Bản chất phản ánh cái chung, cái xấu xa, cái bên trong của hiện tượng phản ánh cái riêng, cái sự vật biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
- Sự đối lập giữa cái tương đối với cái thường xuyên biến đổi:
+ Bản chất phản ánh cái tương đối ổn định.
+ Hiện tượng phản ánh cái thường xuyên biến đổi.
- Hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện tượng: Hiện tượng phong phú hơn bản chất, vì tuỳ theo sự biến đối của điều kiện và hoàn cảnh mà hiện tượng có những biểu hiện khác nhau ® bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất phản ánh cái bên trong cái ổn định của sự vật.
III. Một số kết luận về mặt phương pháp luận.
- Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và páht triển của sự vật, còn hiện tượng là cái biểu hiện ra bản chất bên ngoài, là cái không ổn định, cái biến đổi nhanh chóng hơn so với bản chất nên về mặt nhận thức để hiểu được sự vật không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu vào bản chất của nó.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập Þ từ hiện tượng đi đến bản chất sự vật không thể là con đường giản đơn.
Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
1. Khái niệm:
* Nguyên nhân: Là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra sự biến đổi nhất định.
* Kết quả: Là sự biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Theo giả định của phép bản chất duy vật thì mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, phổ biến và tất yếu.
II. Mối quan hệ bản chất giữa nguyên nhân và kết quả:
* Nguyên nhân: Là cái sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng nào cũng đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả.
* Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp, một kết quả thông thường phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân cũng sản sinh ra nhiều kết quả.
* Sự phối hợp tác động của những nguyên nhân (hay nguyên nhân tổng hợp) đòi hỏi chúng ta phải phân tích tính chất, vai trò của từng nguyên nhân đối với kết quả, sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau của các nguyên nhân.
- Nếu các nguyên nhân tác động lên sự vật theo cùng một hướng > ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả và ngược lại nếu những nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo những hướng khác nhau ® làm suy yếu, hoặc tiêu diệt tác dụng của nhau.
+ Một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả ® chúng ta phải biết phân biệt những kết quả do nguyên nhân đưa lại.
* Trong sợi dây truyền vô trận của sự vận động của sự vật, hiện tượng không có một hiện tượng nào được coi là nguyên nhân và cũng không có một kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này sự vật và hiện tượng được coi là nguyên nhân, song mối quan hệ khác được coi là kết quả và ngược lại.
* Nguyên nhân sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân ® có ảnh hưởng ngược lại đối với nguyên nhân theo 2 chiều, tích cực và tiêu cực.
II. Một số kết luận về mặt phương pháp luận.
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất tồn tại mà lại không có nguyên nhân ® mối quan hệ nhân quả trang bị chúng ta quan điểm đúng đắn về quyết định luân duy vật, khẳng định vai trò của con người trong việc vận dụng quy luật vì mục đích của mình.
- Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra ® vì vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả ® chúng ta cần phân biệt nguyên nhân, nắm vững những nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc khác chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế nguyên nhân nghịch chiều.
- Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại một cách thụ động, biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
Hai giai đoạn của quá trình nhận thức:
Khái niệm nhận thức:
Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triết học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan của mình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức (trả lời câu hỏi). Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm ra các quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhu cầu, nhiệm vụ của bản thân con người. Như thế cũng có nghĩa là tìm ra chân lý.
Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan hay là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người ở trình độ cao. Nhận thức là một quá trình.
Để nhận thức được cần có một thế giới khách quan, một bộ óc bình thường và hoạt động lao động.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận những nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức sau đây:
- Phải thừa nhận rằng có một thế giới sự vật triết học tồn tại khách quan bên ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Quan điểm này nhằm chống lại chủ nghĩa duy tâm vì chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận quan điểm này.
- Giữa hiện tượng và "vật tự nó" không có sự khác nhau về nguyên tắc. Quan điểm này khẳng định khả năng nhận thức của con người chống lại thuyết "bất khả tri". Cantơ - người theo thuyết bất khả tri - cho rằng "vật tự nó" là cái không thể nhận thức được là bản chất của sự vật.
- Nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết, từ cái biết ít đến nhiều và sâu sắc hơn. Quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về nhận thức. Chủ nghĩa siêu hình cho rằng nhận thức của con người là không biến đổi.
- Thực tiễn là nguồn gốc và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Việc đưa quan niệm này vào lý luận nhận thức là đóng góp rất quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình nhận thức:
Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần chú ý: không được coi nhận thức chỉ một lần là xong. "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn là biện chứng của qua trình nhận thức chân lý" (Lênin). Nói một cách khác quá trình nhận thức bao gồm quá trình nhận thức cảm tính và nhân thức lý tính. Trường phái duy cảm cho rằng nhận thức chỉ là nhận thức cảm tính. Họ tuyệt đối hoá nhận thức cảm tính và cho rằng chỉ những gì thông qua nhận thức cảm tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức lý tính.
Trường phái duy lý lại cho rằng chỉ có những gì thông qua nhận thức lý tính mới là chân lý. Họ đã phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính.
Cả hai trường phái này đều tồn tại trước triết học Mác.
Thực ra nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính chỉ là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức mà thôi.
Nhận thức khkông phải là hành động nhất thời, làm một lần là xong, dường như lặp đi lặp lại, quay trở về chỗ xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn (điểm tăng trưởng của trí thức).
1. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức, gần liền với thực tiễn đi từ cảm giác, tri giác đến biểu tượng.
+ Cảm giác: Là hình thức đầu tiên đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng. Bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Tri giác: Là sự tổng hợp những thuộc tính riêng lẻ của sự vật trong mối quan hệ hữu cơ với nhau. Cũng như cảm giác, tri giác mang tính trực tiếp.
+ Biểu tượng: Là một hình thức đi sâu vào bản chất của sự vật, biết được bản chất của chúng thông qua một tập hợp những thuộc tính. Đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Biểu tượng có vai trò là khâu trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.
- Nhận thức của con người về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh không chỉ dừng lại ở các hình thức cảm tính. Trên cơ sở những tài liệu, những dữ kiện do nhận thức cảm tính đem lại, nhận thức phát triển lên một trình độ cao hơn, nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.
2. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do trực quan sinh động đem lại. Tư duy trừu tượng cũng phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh gián tiếp và khái quát, và do vậy "sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn" với các hình thức cơ bản như: khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm phản ánh một hoặc một số thuộc tính chung nào đó của một nhóm sự vật, hiện tượng và do đó mà bao quát nhóm sự vật, hiện tượng ấy. Khái niệm đóng vai trò rất quan trọng trong tư duy khoa học. Có thể xem các khái niệm đã hình thành như những nguyên vật liệu để tạo nên ý thức tư tưởng… Mọi khái niệm khoa học đều được hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển khoa học và thực tiễn. Trong khi nghiên cứu, vận dụng khái niệm chúng ta phải chú ý đến tính biện chứng của nó, không được coi khái niệm là cái ngưng đọng, cố định cứng nhắc và không biến đổi. Mỗi một khái niệm đều nằm trong mối quan hệ liên hệ nào đó với cái khái niệm khác trong quá trình nhận thức tiếp theo về thế giới, dẫn đến hình thành những khái niệm mới phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật.
Khi áp dụng tính mềm dẻo, biện chứng của khái niệm phải tính đến nội dung khách quan của khái niệm, nếu áp dụng một cách chủ quan, tuỳ tiện thì sẽ rời vào nguỵ biện và triệt trung.
+ Phán đoán là sự vận dụng những khái niệm trong ý thức con người để vạch ra những mặt, những mối liên hệ nào đó trong một sự vật hoặc của sự vật này với sự vật khác. Phán đoán biểu hiện của một hay nhiều thuộc tính, đặc tính, mối liên hệ nào đó của sự vật được phản ánh. Phản ánh được biểu hiện trong hình thức ngôn ngữ thành mệnh đề.
+ Suy lý: Biểu hiện tính chất gián tiếp sáng tạo của tư duy con người. Từ những khái niệm, phán đoán con người có thể suy luận và tìm ra những chân lý mới.
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ nhận thức cảm tính, những phản ánh hiện thực một cách sâu sắc hơn, tức là có thể phản ánh sự vật, hiện tượng trong những mối liên hệ và quan hệ bản chất, mang tính quy luật. Nhưng hình thức cơ bản của nhận thức lý tính được hình thành trong quá trìnhhoạt động thực tiễn của con người, chúng không tách rời nhau, những mối liên hệ biện chứng, tác động và quy luận lẫn nhau.
* Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có những đặc điểm khác nhau:
+ Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động các thuộc tính, các mối quan hệ của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được hình thành từ những tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại, nó là sự phản ánh gián tiếp và mang tính trừu tượng, khái quát.
+ Nhận thức được cảm tính là sự phản ánh ban đầu mang tính chất ngẫu nhiên. Nhận thức lý tính có thể giúp nhận thức được cái bản chất tất yếu của sự vật, tính quy luật của sự vật.
+ Mối quan hệ nhận thức cảm tính và lý tính có sự thống nhất biện chứng, chúng có mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau.
- Không thể tuyệt đối hoá vai trò của bậc này để hy sinh cho bậc khác. Một nhận thức đúng đắn là phải tiến từ cảm tính đến lý tính.
- Từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính thực chất là một bước nhảy vọt. Người ta không phải ngay một lúc đã nhận thức được bản chất của sự vật mà đó là một quá trình tích luỹ lâu dài.
3. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận - những trình độ khác nhau của nhận thức khoa học.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận đều là sự tổng hợp của hai yếu tố cảm tính và lý tính.
Kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá trình hoạt động thực tiễn, là cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận, là căn cứ để sửa đổi, phát triển hệ thống lý luận cũ.
Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất của sự vật hiện tượng, trong những mối liên hệ mang tính quy luật. Nhiệm vụ của nhận thức lý luận là nhân nhận thức lên một trình độ cao hơn, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của hoạt động thực tiễn. Chỉ có những tri thức lý luận mới làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động hơn, tránh được tình trạng mò mẫm, tự phát.
Lý luận nhận thức của Mác-Lênin và vấn đề chân lý
Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triết học mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan của mình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức (Trả lời câu hỏi). Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm ra các quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhu cầu, nhiệm vụ của bản thân con người.
Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quan, nhận thức là một quá trình.
Lịch sử của vấn đề:
Thời đại Đêmôcơrit coi nhận thức là sự phản ánh, sự tri giác những hình ảnh đã tách khỏi sự vật.
Triết học duy tâm coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn, nhận thức là quá trình sản sinh ra tư tưởng trong chiều sâu ý thức của chủ thể, là quá trình tự sinh của tri thức.
Chủ nghĩa duy vật cũ: đã có những đóng góp to lớn vào lý luận nhận thức ở chỗ họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan độc lập với ý thức của con người và thừa nhận thế giới đó như nguồn gốc của nhận thức. Thiếu sót cơ bản của họ là họ quan niệm ý thức là một sự phản ánh đơn giản máy móc và trực quan. Các sự vật hiện tượng và quá trình hiện ra trong ý thức của con người như sự phản ánh qua một tấm gương, dưới dạng của những ấn tượng đã bị đơn gián hoá và thu gọn lại.
Chủ nghĩa Mác-Lênin: Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc của con người. Sự phản ánh đó không phải là một hành động nhất thời máy móc giản đơn và thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích cực và sáng tạo. Lênin viết: "ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan".
Trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán "Lênin đã nêu ra những kết luận được coi là nguyên lý cơ bản của lý luận nhận thức:
- Phải thừa nhận rằng có một thế giới sự vật tồn tại khách quan bên ngoài chúng ta và không lệ thuộc vào chúng ta. Quan điểm này nhằm chống lại chủ nghĩa duy tâm vì chủ nghĩa duy tâm không thừa nhận quan điểm này.
- Giữa hiện tượng và "vật tự nó" không có sự khác nhau về nguyên tắc. Quan điểm này khẳng định khả năng nhận thức của con người, chống lại thuyết "bất khả trí". Cantơ - người theo thuyết bất khả trí cho rằng "vật tự nó" là cái không thể nhận thức được, là bản chất của sự vật.
- Nhận thức là một quá trình đi từ cái chưa biết, từ cái biết ít đến nhiều và sâu sắc hơn. Quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về nhận thức. Chủ nghĩa siêu hình cho rằng nhận thức của con người là không biến đổi.
- Thực tiễn là nguồn gốc và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Việc đưa quan niệm này vào lý luận nhận thức là đóng góp rất quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần chú ý: Không được coi nhận thức chỉ một lần là xong, "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn là biện chứng của quá trình nhận thức chân lý" (Lênin).
Định nghĩa chân lý:
Chân lý là những tri thức phù hợp với thực tiễn khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Khi những tri thức được bổ sung thì chân lý được mở rộng và biến đổi thành chân lý mới. Cùng có khi chân lý bị loại bỏ trước đó nó đã không được kiểm nghiệm trong thực tế (mặt trời quay quanh trái đất), hoặc trở thành một bộ phận của chân lý mới.
Tính chất của chân lý:
- Tínhkhách quan: tính khách quan của chân lý thể hiện ở chỗ nội dung phản ánh của chân lý là khách quan, tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đã là chân lý thì chỉ có chân lý khách quan. Không có chân lý chủ quan. Đây là một tính chất cực kỳ quan trọng. Nó đối lập với các quan niệm của triết học phi Mác-xít.
- Tính cụ thể: Chân lý luôn là cụ thể, không có chân lý trừu tượng. Tính cụ thể của chân lý được quy định bởi tính cụ thể của khách thể nhận thức. Thoát khỏi điều kiện cụ thể của khách thể được phản ánh thì tri thức không coi là chân lý nữa. Các sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan luôn luôn tồn tại dưới cái cụ thể, một thời gian và không gian nhất định. Khi những điều kiện khách quan đã thay đổi, sự phản ánh về chúng cũng phải thay đổi theo.
- Tính cụ thể của chân lý là cơ sở để rút ra nguyên tắc phương pháp luận rất quan trọng trong nhận thức và hành động, nguyên tắc lịch sử cụ thể
- Tính tương đối: Chân lý không phải là điểm đầu cũng không phải là điểm kết thúc. Chân lý nằm trong quá trình. Vì vậy nó cũng phải được bổ sung, hoàn thiện, chuẩn xác hoá. Trong quá trình nhận thức, tri thức luôn được bổ sung. CHân lý cũng vậy, nhưng trong một thời điểm nhất định nào đó thì chúng là không thể bác bỏ. Chân lý có tính tương đối.
Phân loại chân lý:
Chân lý có thể phân chia thành chân lý tuyệt đối, chân lý tương đối và chân lý vĩnh cửu.
- Chân lý tuyệt đối là tổng số những chân lý tương đối. "Mỗi chân lý khoa học dù có tính tương đối vẫn chứa đựng một yếu tố chân lý tuyệt đối". Sự phát triển của nhận thức chính là quá trình mở rộng tăng thêm không ngừng những yếu tố tuyệt đối.
- Chân lý tương đối là tri thức phản ánh tương đối đúng sự vật khách quan trong thời điểm đó và được tiếp tục bổ sung trong quá trình nhận thức của con người.
Khả năng của con người có thể đạt tới chân lý tuyệt đối nhưng không phải ngay một lúc mà là cả một quá trình nhận thức lâu dài của con người.
- Chân lý vĩnh cửu là chân lý mãi mãi không thay đổi. Nó không cần thiết cho khoa học vì nó không thúc đẩy sự khám phá khoa học. Trong lịch sử triết học cũng có người muốn coi hệ thống chân lý của mình là vĩnh cửu. Đó là Ơ.Đuyrinh, ngay lập tức Anghen đã viết "Chống Đuyrinh" để phản bác: "Chơi cái trò chơi chân lý vĩnh cửu chán ngắt ấy thì mọi khoa học sẽ trửo nên thừa".
* Giữa cái chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có mối quan hệ với nhau. Nó biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa quá trình vô tận của nhận thức thế giới khách quan của con người với từng hoạt động nhận thức riêng lẻ, cụ thể và có hạn của mỗi chủ thể nhận thức. Đối với lý luận nhận thức mác-xít, giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không hề có đường ranh giới không thể vượt qua. Chân lý tương đối chính là những bậc thang đưa con người ngày càng tiến đến gần chân lý tuyệt đối.
Kiểm tra bằng thực tiễn:
Như đã đề cập đến ở phần định nghĩa, chân lý phải được thực tiễn kiểm tra, đánh giá.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động của con người mà trước hết là hoạt động sản xuất, thực nghiệm khoa học, đấu tranh giai cấp… người ta sử dụng thực tiễn để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn vừa là nguồn gốc của nhận thức, vừa là tiêu chuẩn số một để kiểm tra nhận thức.
Thực tiễn thấm vào toàn bộ quá trình nhận thức của con người, vừa là điểm bắt đầu, vừa là điểm kết thúc của mọi quá trình nhận thức.
Lênin nói: "Thực tiễn cao hơn lý luận", lý luận được kiểm chứng thông qua thực tiễn, được thực tiễn kiểm tra thì nó mới trở thành chân lý.
Cũng có những lý thuyết rất khó kiểm tra bằng thực tiễn, nó phải được kiểm tra bằng tính lôgic (đặc biệt trong toán học).
Bản thân thực tiễn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Phải căn cứ vào tính lịch sử cụ thể của cái mà chúng ta cần kiểm chứng để kiểm tra nhận thức - chân lý.
Trình bày về học thuyết hình thái kinh tế xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vạch ra những kết cấu cơ bản, phổ biến của mọi xã hội, là quy luật vận động và phát triển tất yếu của xã hội.
Trước Mác các nhà triết học và xã hội thường nói về mục đích xã hội, tiến bộ xã hội một cách trừu tượng. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời nhân loại tiến bộ có một lý luận khoa học để nhận thức bản chất của xã hội, tìm ra những quy luật khách quan chi phối tiến trình lịch sử nhân loại.
Mỗi xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, một chế độ kinh tế của một xã hội nhất định. Các quan hệ sản xuất này là hình thức xã hội của quá trình sản xuất vật chất. Phát hiện ra những quan hệ xã hội vật chất cơ bản. Có nhà kinh điển Mác xít đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xã hội trên quan điểm duy vật lịch sử và trên quy mô lịch sử nhân loại. Chính trên cơ sở trừu tượng hoá đó, Mác đã xây dựng một phạm trù khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử về xã hội - phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
Mác không chỉ nghiên cứu quan hệ sản xuất một cách biệt lập mà luôn đặt nó trong mối quan hệ với các mối quan hệ xã hội khác và coi quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa hình thái kinh tế xã hội khác và coi quan hệ hình thái kinh tế xã hội sản xuất là bộ xương của cơ học… cũng với những thể chế tương ứng hình thành trên những quan hệ sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Hai mặt này thống nhất trong một phương thức sản xuất và chính nó là nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế xã hội.
Lênin đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận về hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Như vậy để tìm hiểu về hình thái kinh tế xã hội, chúng ta phải đi từ khái niệm sản xuất vật chất là gì, tại sao nó lại là nền tảng của đời sống xã hội, gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định: QHSX, LLSX, CSHT và KTTT là gì, mối quan hệ giữa QHSX và LLSX, giữa CSHT và KTTT thể hiện ra sao.
1. Sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội.
Phân biệt: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người là hoạt động đặc trưng riêng có của xã hội loài người. Cũng có một số người cho rằng cần phải mở rộng khái niệm sản xuất vật chất bao gồm cả việc sản xuất ra bản thân con người.
Định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình một con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất xã hội, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của đời sống con người. Nhu cầu đó là vô tận nên sản xuất của con người cũng là vô tận.
Quá trình con người sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên gọi là quá trình lao động. Lao động trước hết là quá trình diễn ra giữa con người và thiên nhiên, một quá trình mà trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa con người và thiên nhiên.
Vai trò lao động: sáng tạo ra của cải vật chất xã hội, sáng tạo ra bản thân con người (đầu tiên là con người xã hội. Mối quan hệ con người với con người làm nảy sinh con người xã hội).
Vai trò của sản xuất vật chất: Là cần thiết để đáp ứng nhu cầu tất yếu, khách quan của con người, là cơ sở để hình thành mọi quan hệ xã hội, là cơ sở của tiến bộ xã hội. Như vậy có thể coi sản xuất vật chất là nền tảng của sự phát triển xã hội.
Theo Mác, trong đời sống xã hội, muốn sản xuất được, con người phải thực hiện mối quan hệ song trùng. Đó là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được gọi là lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa con người với con người được gọi là quan hệ sản xuất.
2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (những nguyên lý về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất)
2.1. Phương thức sản xuất:
- Mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định gắn với một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Sự thống nhất này nói lên những thách thức mà người ta sản xuất trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội những nhà tư bản công nghiệp.
- Những hình thái kinh tế xã hội khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất ra bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Đó là sự khác nhau giữa các phương thức sản xuất.
- Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng của nó. Nó chỉ là phương thức đặc trưng chứ không phải là phương thức duy nhất.
2.2. Lực lượng sản xuất:
- Là biểu hiện trực tiếp mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là một mặt của mối quan hệ song trùng của con người trong nền sản xuất xã hội.
- Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Lực lượng sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa người lao động với tư liệu sản xuất (bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động) mà trước hết là công cụ lao động.
- Lực lượng sản xuất có tính khách quan. Con người không thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất.
2.3. Quan hệ sản xuất:
- Là một mặt của mối quan hệ song trùng của con người, là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với con người trong nền sản xuất xã hội.
- Thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
- Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan hệ sản xuất mang tính xã hội.
2.4. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất (biện chứng).
- Tính chất của lực lượng sản xuất:
+ Sản xuất với công cụ thủ công của lực lượng sản xuất mang tính cá nhân.
+ Sản xuất bằng máy, lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá. Chỉ đến nền sản xuất TBCH, lực lượng sản xuất mới đạt tới trình độ xã hội hoá.
- Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, được quy về trước hết là công cụ lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội. Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách rời nhau. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Nội dung của quy luật:
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành QHSX và LLSX, đem lại những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động với tư liệu sản xuất.
Khu phù hợp cũng như không phù hợp, QHSX bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với LLSX, QHSX có tác động trở lại đối với LLSX, quy định mục đích của nền sản xuất xã hội; khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của LLSX. Quan hệ sản xuất kìm hãm, trở thành xiềng xích của LLSX thì khi đó nó mở đầu cho một cuộc cách mạng xã hội (Mác).
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX là quy luật chung, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, làm cho lịch sử chuyển từ hình thái KTXH này sang hình thái KTXH khác cao hơn.
3. Nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
3.1. Cơ sở hạ tầng: Là toàn bộ quan hệ sản xuất xã hội hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, LLSX không phải là một nhân tố của QHSX. Trong bất kỳ hình thái kinh tế nào cũng có QHSX thống trị và những tàn dư của QHSX cũ và những mầm mống của QHSX trong tương lai.
3.2. Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế xã hội tương ứng và những quan hệ nội tại của đời sống tinh thần xã hội.
Các hình thái kinh tế xã hội cũng là kiến trúc thượng tầng.
Thiết chế xã hội: Là những tổ chức, cơ chế xã hội đảm bảo thực hiện tư tưởng xã hội. Thiết chế tôn giáo bao gồm: nhà thờ, giáo hội… Thiết chế chính trị: Đảng phái, an ninh, quốc phòng, Nhà nước…
3.3. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
+ CSHT nào thì KTTT ấy, KTTT luôn bị quy định bởi CSHT.
+ Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi "ít nhiều nhanh chóng".
+ Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối của nó và có khả năng tác động trở lại CSHT một cách mạnh mẽ.
3.4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của phát triển là một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển do tác động của cơ sở quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. Mác viết: "Tôi coi quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên".
Trong quá trình sản xuất, con người có quan hệ với nhau. đó là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy định. Đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định lại các quan hệ xã hội khác nhau như: chính trị, luật pháp, đạo đức… khi lực lượng sản xuất phát triển đã có những thay đổi về chất, mâu thuẫn gay gắt với những quan hệ sản xuất hiện có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, phương thức sản xuất thay đổi, các quan hệ xã hội về chính trị và tinh thần cũng thay đổi dẫn đến sự thay đổi của hình thái kinh tế xã hội. Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ và lực lượng sản xuất thì người ta mới có một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên" (Lênin).
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang lịch sử khác nhau ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng phương thức sản xuất nhất định. Lịch sử loài người đã trải qua 5 hình thái xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao.
3.5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã tìm ra quy luật về sự phát triển của lịch sử và đời sống xã hội. Quy luật… xã hội này đã được giải thích một cách duy vật.
Lịch sử loài người đã trải qua 5 hình thái xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao. Tuy vậy với những điều kiện chủ quan và khách quan riêng, một nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể bỏ qua những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử để tiến đến một giai đoạn phát triển cao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác.
Việt Nam chúng ta xây dựng XHCN, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN không có gì mâu thuẫn với sự phát triển của tự nhiên. Ngày nay nhiều nước đã đạt được trình độ phát triển cao trong sự phát triển. Các nước đi sau không nhất thiết lập lại một cách tuần tự những bước phát triển mà các nước tiên tiến đã trải qua. Đó cũng là một quy luật bình thường của sự phát triển.
Sự định hướng của Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế cho thấy CNT không phải là đỉnh cao nhất trong sự phát triển của xã hội loài người. CNTB có những mâu thuẫn nội tại mà bản thân nó không thể giải quyết được.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng ở các nước XHCN hiện nay là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là không nhận thức và vận dụng đúng những quy luật xã hội, trong đó đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Để xác định con đường đi lên của mình, điều cần thiết là phải xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội của đất nước, xuất phát từ đặc điểm của LLSX và QHSX của nước ta để lựa chọn đúng hình thức phát triển kinh tế, xác định trúng những bước đi cụ thể theo mục tiêu đã chọn. Định hướng cho sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa ở nước ta là:
- Xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từng bước kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể chiếm ưu thế về năng suất, chất lượng, hiệu quả và qua đó giữ vị trí chi phối.
- Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động là chủ xã hội, bảo vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội.
- Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và tận dụng những giá trị mới của văn minh nhân loại.
- Tạo môi trường cho hoạt động tự do sáng tạo, cho mọi sáng kiến cá nhân và đơn vị, khai thác triệt để yếu tố con người vì mục tiêu con người.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
Mỗi xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, một chế độ kinh tế của một xã hội nhất định. Các quan hệ sản xuất này là hình thức xã hội của quá trình sản xuất vật chất. Phát hiện ra những quan hệ xã hội vật chất cơ bản, các nhà kinh điển Mác xít đã đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xã hội trên quan điểm duy vật lịch sử và trên quy mô lịch sử nhân loại. Chính trên cơ sở trừu tượng hoá đó. Mác đã xây dựng một phạm trù khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử về xã hội - phạm trù hình thái kinh tế xã hội.
Mác không chỉ nghiên cứu quan hệ sản xuất một cách biệt lập mà luôn đặt nó trong mối quan hệ với các quan hệ xã hội khác và coi quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác, và coi quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội. Mác còn chỉ ra rằng: những quan điểm chính trị, đạo đức, triết học… cùng với những thể chế tương ứng hình thành trên những quan hệ sản xuất đó. Những quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở hạ tầng của một xã hội, tức là cơ sở hiện thực trên đấy xây dựng một kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Hai mặt này thống nhất trong một phương thức sản xuất và chính nó là nền tảng vật chất của mọi hình thái kinh tế xã hội.
Lênin đã phát triển và làm phong phú thêm lý luận về hình thái kinh tế xã hội. "Như vậy, hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy".
Như vậy, nói đến mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX, trước tiên chúng ta cần phải tìm hiểu tại sao sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội.
I. Sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội.
Phân biệt: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người là hoạt động đặc trưng riêng có của xã hội loài người. Cũng có một số người cho rằng cần phải mở rộng khái niệm sản xuất vật chất bao gồm cả việc sản xuất ra bản thân con người.
Định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình một con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất xã hội, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của đời sống con người. Nhu cầu đó là vô tận nên sản xuất của con người cũng là vô tận.
Quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên gọi là quá trình lao động. Lao động trước hết là quá trình diễn ra giữa con người và thiên nhiên, một quá trình mà trước đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa con người và thiên nhiên.
Vai trò lao động: Sáng tạo ra của cải vật chất xã hội, sáng tạo ra bản thân con người (đầu tiên là con người xã hội. Mối quan hệ con người với con người làm nảy sinh con người xã hội).
Vai trò của sản xuất vật chất là cần thiết để đáp ứng nhu cầu tất yếu, khách quan của con người, là cơ sở để hình thành mọi quan hệ xã hội, là cơ sở của tiến bộ xã hội. Như vậy có thể coi sản xuất vật chất là nền tảng của sự phát triển xã hội.
Theo Mác, trong đời sống xã hội, muốn sản xuất được con người phải thực hiện mối quan hệ song trùng. Đó là mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được gọi là lực lượng sản xuất. Mối quan hệ giữa con người với con người được gọi là quan hệ sản xuất.
2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (những nguyên lý về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất)
2.1. Phương thức sản xuất:
- Mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định gắn với một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng gưĩa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Sự thống nhất này nói lên những thách thức mà người ta sản xuất trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội những nhà tư bản công nghiệp.
- Những hình thái kinh tế xã hội khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất ra bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào. Đó là sự khác nhau giữa các phương thức sản xuất.
- Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất đặc trưng cho nó. Nó chỉ là phương thức đặc trưng chứ không phải là phương thức duy nhất.
2.2. Lực lượng sản xuất:
- Là biểu hiện trực tiếp mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là một mặt của mối quan hệ, là một mặt của mối quan hệ song trùng của con người trong nền sản xuất xã hội.
- Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
- Lực lượng sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa người lao động với tư liệu sản xuất (bao gồm công cụ lao động và đối tượng lao động) mà trước hết là công cụ lao động.
- Lực lượng sản xuất có tính khách quan. Con người không thể tự do lựa chọn quan hệ sản xuất.
2.2.1. Vai trò của công cụ lao động: Có khả năng "nối dài bàn tay" của con người, là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, là nhân tố đồng nhất, luôn luôn thay đổi và phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện).
2.2.2. Vai trò của khoa học - công nghệ: Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó ngày càng có vai trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội, làm đảo lộn cả phương thức tư duy truyền thống.
2.2.3. Vai trò của con người - lao động: Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại, là nhân vật trung tâm của đời sống xã hội, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy của sự phát triển xã hội.
2.2.4. Năng suất lao động: Là nhân tố quan trọng quyết định cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội này với một trật tự xã hội khác, là thước đo trình độ của sự phát triển.
2.3. Quan hệ sản xuất: Là một mặt của mối quan hệ song trùng của con người, là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với con người trong nền sản xuất xã hội.
- Thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
- Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan hệ sản xuất mang tính xã hội.
Quan hệ sở hữu: Là quan hệ giữa người với người trong chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Nó không phải là mối quan hệ giữa kẻ chiếm hữu với đối tượng sở hữu.
Là quan hệ trung tâm cơ bản của các quan hệ sản xuất và chi phối toàn bộ quan hệ sản xuất.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất: Là mối quan hệ điều tiết toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm lao động, là mối quan hệ có khả năng kích thích sự năng động của toàn bộ nền sản xuất xã hội.
- Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất.
4. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất (biện chứng).
- Tính chất của lực lượng sản xuất:
+ Sản xuất với công cụ thủ công ở lực lược sản xuất mang tính cá nhân.
+ Sản xuất bằng máy lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá. Chỉ đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lực lượng sản xuất mới đạt tới trình độ xã hội hoá.
- Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con người, được quy về trước hết là công cụ lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội. Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách rời nhau. Một tính trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Nội dung của quy luật:
Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quanhệ sản xuất và lực lượng sản xuất, đem lại những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động với tư liệu sản xuất.
Khi phù hợp cũng như không phù hợp, quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập với tư liệu sản xuất, quan hệ sản xuất có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích của nền sản xuất xã hội; khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi mâu thuẫn khách quan giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết, khi con người không phát hiện được hoặc phát hiện nhưng không giải quyết được, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất trở thành nhân tố phá hoại lực lượng sản xuất. Nhưng cuối cùng thì quy luật vẫn tự vạch đường đi cho nó.
Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất kìm hãm, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất thì khi đó nó mở đầu cho một cuộc cách mạng xã hội (Mác).
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, là quy luật chung, phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại, làm cho lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn.
5. ý nghĩa thực tiễn.
+ ý nghĩa thực tiễn của quy luật này thể hiện ở chỗ bỏ qua một hoặc hai phương thức sản xuất để tiến đến một phương thức sản xuất cao hơn dưới hình thức khác. Như thế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta không nhất thiết phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Các nước đi sau không nhất thiết lặp lại một cách tuần tự những bước phát triển mà những nước tiên tiến đã trải qua.
Cuộc khủng hoảng trầm trọng ở các nước XHCN hiện nay là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là không nhận thức và vận dụng đúng những quy luật xã hội, trong đó đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất không chỉ bị kìm hãm khi quan hệ sản xuất lạc hậu mà nó bị kìm hãm ngay cả khi có những yếu tố của quan hệ sản xuất đi quá xa lực lượng sản xuất.
+ Như vậy trong thời kỳ hiện nay, để xây dựng một phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta trước tiên phải thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất: Đó là chủ trương xây dựng một nền kinh tếhàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kỹ thuật của CNXN.
Hình thái ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của nó
1. Mở: Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động của con người có ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học trong nhận thức xã hội là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng yếu tố xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, đồng thời chỉ rõ vai trò sáng tạo của yếu tố xã hội trong sự phát triển của xã hội.
TTXH là toàn bộ đời sống vật chất của con người cùng với những điều kiện về sinh hoạt vật chất của xã hội. Đó là hoàn cảnh địa lý tự nhiên, hoàn cảnh dân số, phương thức sản xuất (đóng vai trò quyết định).
2. ý thức xã hội:
+ Là sự phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
+ ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, nó bao gồm những tư tưởng, quan điểm, quan niệm, lý luận, truyền thống, tâm trạng, tình cảm, thói quen…
+ Nó còn bao gồm cả ý thức cá nhân, ý thức xã hội, tồn tại trong cá nhân, thông qua cá nhân. Tuy nhiên, ý thức cá nhân không phải toàn bộ ý thức xã hội.
3. Cấu trúc ý thức xã hội:
Có nhiều cách tiếp cận ý thức xã hội. Nói chung ý thức xã hội thường được phân chia theo chiều dọc, là thành những cấp độ và theo chiều ngang thành những hình thái.
+ ý thức lý luận và ý thức thường ngày là toàn bộ ý thức xã hội. Sự phân chia ý thức lý luận và ý thức thường ngày là sự phân chia theo cấp độ phản ánh của nó.
- ý thức lý luận: Là toàn bộ những quan điểm quan niệm mang tính hệ thống, được xây dựng bởi tư duy lý luận trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng các học thuyết, lý thuyết, các khái niệm, các phạm trù…
- ý thức thông thường (ý thức thường ngày): Là những tri thức hỗn tạp về xã hội, tự nhiên và tư duy, phản ánh quan niệm sống của con người, được hình thành một cách tự phát, đáp ứng nhu cầu nhận thức trực tiếp của con người có tính phi hệ thống.
+ Nếu phân chia theo lĩnh vực phản ánh thì ý thức xã hội thể hiện ra thành hệ tư tưởng, tâm lý xã hội và ý thức khoa học.
- Hệ tư tưởng: Là toàn bộ quan điểm, quan niệm, tư tưởng đã được hệ thống hoá thành các lý luận, các học thuyết chính trị xã hội, phản ánh trực tiếp lợi ích giai cấp.
- Tâm lý xã hội là một bộ phận của ý thức thường ngày, được hình thành tự phát dưới ảnh hưởng đời sống thường ngày bao gồm: tình cảm, tâm trạng, ý thức. Mong muốn, là trình độ thấp hơn so với hệ tư tưởng.
- ý thức khoa học: Là hệ thống những quan điểm, quan niệm, tri thức về tính quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, được thể hiện dưới dạng các học thuyết, lý thuyết, phạm trù, khái niệm.
4. Các hình thái ý thức xã hội:
4.1. Triết học: Là hệ thống những quan điểm, quan niệm mang tính thế giới quan và phương pháp luận về thế giới và đời sống con người. Là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
4.2. Chính trị: Là những quan điểm, quan niệm, thái độ của con người về quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia. Là biểu hiện tập trung của các quan hệ kinh tế.
4.3. Pháp quyền: Là hệ thống các… của con người về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi, về hệ thống pháp luật. Là những nguyên tắc, chuẩn mực, những nguyên tắc được pháp lý hoá thành Hiến pháp và Pháp luật, pháp luật có tính cưỡng bức.
4.4. Tôn giáo: Là hệ thống quan điểm, quan niệm, tình cảm, ý chí của con người về thế giới tâm linh của họ. Tôn giáo bao gồm hệ thống các giáo lý nghi lễ và hệ thống các thiết chế tôn giáo.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trạng thái không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân (Hêgel - Lời nói góp phần phê phán triết học pháp quyền).
4.5. Đạo đức: Quan điểm, quan niệm, tình cảm của con người về những quy tắc, chuẩn mực điều khiển hành vi. VD: Như về thiện ác, nghĩa vụ, quyền lợi, về trung - hiếu - nghĩa - lễ - trí - tín…
Không có tính cưỡng chế, mà mang tính tự nguyện.
4.6. Thẩm mĩ: Quan điểm của con người về cái đẹp - xấu, bi - hài, cao cả - thấp hèn…
Các trình độ của thẩm mĩ: xúc cảm, thị hiếu, lý tưởng, thẩm mĩ.
Nghệ thuật là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất của ý thức thẩm mĩ. Đặc trưng của nghệ thuật là phản ánh thế giới bằng hình tượng của nó.
4.7. Khoa học: Là hệ thống quan điểm, quan niệm, trí thức về tính quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy được thể hiện dưới dạng các học thuyết, lý thuyết, phạm trù, khái niệm…
Có thể coi ngành trí thức nào đó là khoa học độc lập khi nó có đối tượng nghiên cứu riêng, có phương pháp nghiên cứu riêng, có hệ thống phạm trù, khái niệm đặc trưng riêng của nó.
Đạo đức, thẩm mĩ, khoa học là nói đến ba giá trị cơ bản nhất: Chân - Thiện - Mĩ.
5. Bản chất của ý thức xã hội (quan hệ trật tự xã hội và ý thức xã hội)
+ ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội.
+ Phải lấy trật tự xã hội để giải thích ý thức xã hội.
+ Trật tự xã hội là cái có trước, là tính thứ nhất, ý thức xã hội là cái có sau và bị trật tự xã hội quyết định.
+ Trật tự xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng thay đổi theo.
+ Trong xã hội có phân chia giai cấp thì tồn tại xã hội ít nhiều có tính giai cấp.
"Liệu có cần phải sáng suốt lắm mới hiểu được rằng những tư tưởng, những quan điểm và khái niệm của người ta, nói tóm lại là ý thức của người ta đều thay đổi cùng với mọi sự thay đổi xảy ra trong điều kiện sinh học, trong quan hệ xã hội, trong đời sống của người ta chăng. Lịch sử tư tưởng chứng minh gì nếu không phải là chứng minh rằng sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản xuất vật chất" (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản).
6. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
+ ý thức xã hội không phụ thuộc vào tồn tại xã hội một cách thụ động mà trái lại nó có tác động tích cực trở lại đối với trật tự xã hội.
+ Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng sáng tạo tích cực của ý thức xã hội với trật tự xã hội biểu hiện ở chỗ ý thức xã hội vừa có khả năng vượt trước lại vừa lạc hậu so với sự phát triển của xã hội.
+ Sự phản ánh vượt trước sẽ là sáng tạo khi ý thức xã hội phản ánh đúng trật tự xã hội. ý thức xã hội có khả năng: tiên đoán, dự báo dựa trên quy luật mà con người đã nắm bắt được trên một số lĩnh vực: khoa học, hệ tư tưởng tiên tiến, một số lĩnh vực nghệ thuật. Sự phản ánh này sẽ là duy ý chí, ảo tưởng khi đó chỉ là sự mong muốn chủ quan của con người, không dựa trên sự nắm bắt lôgic của hiện thực.
+ ý thức xã hội thường lạc hậu lớn hơn so với trật tự xã hội.
- Trật tự xã hội là yếu tố động hơn và thay đổi nhanh hơn.
- ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội thường không kịp thời và không đầy đủ.
- Còn được thể hiện ở sức ỳ (quán tính) của tâm lý xã hội.
- Còn có nguyên nhân ở quan hệ lợi ích, những tư tưởng cũ thường được giai cấp thống trị phản động tìm mọi cách duy trì để chống lại đấu tranh cải tạo xã hội của giai cấp cách mạng vì lợi ích của họ.
+ ý thức xã hội có tính kế thừa, là một trong những tính quy luật của sự phát triển ý thức xã hội. Kế thừa là yếu tố khách quan và phải qua lọc bỏ. Đó là biện chứng của sự phát triển.
- Tính kế thừa của ý thức xã hội thể hiện ở chỗ bất cứ thời đại nào nếu không dựa vào di sản tư tưởng của thời quá khứ thì tư tưởng không thể phát triển được.
- Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn thể hiện ở chỗ chúng có khả năng tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội trong quá trình hình thành và phát triển của ý thức xã hội, trên cơ sở đó tác động trở lại tồn tại xã hội và có thể tạo nên những hiệu quả xã hội đặc biệt.
+ ý thức xã hội tác động trở lại với trật tự xã hội. Các hình thái ý thức xã hội đều có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nó phụ thuộc vào việc đó là ý thức xã hội của giai cấp nào, phản ánh tồn tại đúng hay sai và thâm nhập vào quần chúng nhân dân nhiều hay ít.
Câu 13: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
1. Khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng: Là toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định trong quá trình phát triển của lịch sử có thể gồm nhiều loại quan hệ khác nhau:
a. Quan hệ sản xuất thống trị.
b. Quan hệ sản xuất mầm mống (của xã hội tương lai).
c. Quan hệ sản xuất tàn dư (của xã hội cũ).
Trong bhất kỳ xã hội nào, quan hệ sản xuất thống trị giữ ưu thế, giữ vai trò chủ đạo. Thời kỳ đầu quan hệ sản xuất tàn dư còn mạnh, đến giai đoạn cuối quan hệ sản xuất mầm mống mới có thể xuất hiện. Ngoài ra một số thời kỳ có thể có quan hệ sản xuất hỗn hợp, nhất là trong giai đoạn quá độ (liên doanh, liên kết).
- Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm pháp luật, chính trị, triết học, tôn giáo, đạo đức… và các thể chế tương ứng của nó.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
a. Cơ sở hạ tầng quyết định.
- Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy.
- Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo, tuy nhiên trong điều kiện tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, kiến trúc thượng tầng bị chi phối cơ bản bởi quan hệ sản xuất thống trị.
b. Kiến trúc thượng tầng có vai trò hết sức to lớn đối với cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng mặc dù bị cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng nó có tính độc lập tương đối, khi đã sinh ra nó là lực lượng định hướng hay là nhân tố định hướng cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng là kiến trúc thượng tầng tiến bộ, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Nó khai thác những khả năng của quan hệ sản xuất khác nhau tạo nên những hình thức kinh tế phong phú để phát triển nền sản xuất xã hội. Trên cơ sở đó nó củng cố cơ sở hạ tầng và đặc biệt phát huy vai trò của cơ sở hạ tầng thống trị. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng không phù hợp với cơ sở hạ tầng, đặc biệt nó lạc hậu hơn cả cơ sở hạ tầng hoặc vượt quá giới hạn cơ sở hạ tầng cho phép nó sẽ trở thành lực cản đối với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, kìm hãm cơ sở hạ tầng, làm suy yếu cơ sở hạ tầng, thậm chí có thể phá vỡ cơ sở hạ tầng.
c. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể hiện một cách tập trung nhất ở mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế được hiểu là toàn bộ những quan hệ sản xuất hình thành kết cấu kinh tế của xã hội, còn chính trị được hiểu là mối quan hệ của các giai cấp, các tầng lớp xã hội đối với vấn đề chính quyền, chính trị còn được hiểu là toàn bộ những hoạt động của nhà nước và việc tham gia vào hoạt động của nhà nước. Trong mối quan hệ này chính trị bao giờ cũng là biểu hiện tập trung của kinh tế, nghĩa là nó phản ánh những khuynh hướng tất yếu của kinh tế, những nhu cầu phát triển kinh tế nhưng đồng thời chính trị không ưu tiên so với kinh tế. Vì chính trị giữ vai trò định hướng, liên quan đến chủ quyền dân tộc, liên quan đến chế độ chính trị xã hội, vì vậy sự vận động của kinh tế phải được chỉ đạo với những mục tiêu chính trị.
3. Vận dụng vào Việt Nam.
- Cơ sở hạ tầng: Hiện nay cơ sở hạ tầng là một kết cấu kinh tế bao gồm nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, đó là quan hệ sản xuất XHCN với các hình thức xí nghiệp, quốc doanh và kinh tế tập thể, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với hình thức là các xí nghiệp tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài, quan hệ sản xuất hỗn hợp là các xí nghiệp liên doanh, liên kết giữa nhà nước với tư nhân, giữ cơ sở kinh tế trong nước và ngoài nước, ngoài ra còn có các loại hình quan hệ sản xuất khác dưới những hình thức như kinh tế tự nhiên và kinh tế của những người sản xuất nhỏ. Trong cơ sở hạ tầng này, quan hệ sản xuất chủ nghĩa là nhân tố mới tiến bộ giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế.
- Kiến trúc thượng tầng chính trị ở nước ta: Thể hiện ở những quan điểm chính trị và hệ thống chính trị. Về quan điểm chính trị chúng ta lấy hệ tư tưởng của giai cấp tư sản là tư tưởng chỉ đạo, đó là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ tư tưởng này làm kim chỉ nam cho cách mạng nước ta, đã giúp nhân dân ta giành nhiều thắng lợi trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong quá trình đổi mới vừa qua, hệ thống chính trị của nước ta là hệ thống chính trị nhất nguyên, đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản, đồng thời hệ thống chính trị này còn mang tính nhân dân rộng rãi, thể hiện ở việc xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân và các tổ chức quần chúng nhân dân có tính chất chính trị khác nhau.
Về cơ bản, đó là một hệ thống chính trị lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước. Trong thời kỳ đổi mới giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ngày càng có mối liên hệ nội tạng chặt chẽ hơn. Đó là cơ sở để tạo nên những thành tựu cơ bản trong thời kỳ đổi mới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tài liệu thi cao học môn triết học Mác.doc