Tài liệu ôn thi môn kinh tế chính trị

Tài liệu Tài liệu ôn thi môn kinh tế chính trị: Tài liệu ôn thi môn: Kinh tế chính trị Câu 1: Đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác-Lênin là gì? Vì sao môn học này lại nghiên cứu QHSX trong sự vận động qua lại của LLSX với "Kiến Trúc Thượng Tầng"? Trả lời: Đối tượng nghiên cứu của KTCT: Có 2 hướng trả lời cho câu hỏi này: Hướng 1: ( theo vi.wikipedia.org ) "Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với "kinh tế” là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Hướng 2: (theo giáo trình KTCT dùng cho khối QTKD) "Đối tượng nghiên cứu của KTCT là phương tức sản xuất hay nói cách khác là ...

doc53 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu ôn thi môn kinh tế chính trị, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu ôn thi môn: Kinh tế chính trị Câu 1: Đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác-Lênin là gì? Vì sao môn học này lại nghiên cứu QHSX trong sự vận động qua lại của LLSX với "Kiến Trúc Thượng Tầng"? Trả lời: Đối tượng nghiên cứu của KTCT: Có 2 hướng trả lời cho câu hỏi này: Hướng 1: ( theo vi.wikipedia.org ) "Kinh tế chính trị" chỉ nghệ thuật quản lý kinh tế của một quốc gia để phân biệt với "kinh tế” là việc quản lý gia đình (từ tiếng Anh "political" có nguồn gốc từ politike trong tiếng Hy Lạp nghĩa là lo việc nước; còn "economy" có nguồn gốc từ chữ oikonomia trong tiếng Hy Lạp nghĩa là quản lý gia đình; political economy được dịch ra tiếng Việt là "kinh tế chính trị"). Có thể nói, kinh tế chính trị là kinh tế học dưới con mắt của chính khách. Học thuyết kinh tế chính trị có tính hệ thống đầu tiên là học thuyết của Adam Smith trong thế kỷ 18. Hướng 2: (theo giáo trình KTCT dùng cho khối QTKD) "Đối tượng nghiên cứu của KTCT là phương tức sản xuất hay nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng". Trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất (LLSX) không đi sâu vào nghiên cứu LLSX mà chỉ nghiên cứu tính chất của nó. Ví dụ: nghiên cứu LLSX đang ở trình độ nào để xác lập quan hệ sản xuất (QHSX) để đặt phù hợp giữa LLSX và QHSX. Nếu QHSX phù hợp thì sẽ thúc đẩy và mở đường cho LLSX phát triển, còn nếu không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Trong mối liên hệ với kiến trúc thượng tầng (K.Trúc Th.Tầng), không đi sâu vào nghiên cứu toàn bộ về K.Trúc Th.Tầng mà cũng chỉ nghiên cứu một phạm vi nhất định. Ví dụ: nghiên cứu về nhà nước (là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng): nhà nước của chế độ XHCN như thế nào, luật pháp, chính sách của nhà nước ra sao? ... Đối tượng nghiên cứu của môn học này là QHSX nhưng môn học này không ngừng lại ở việc nghiên cứu những hiện tượng bên ngoài mà còn đi sâu vào nghiên cứu bản chất, phạm trù kinh tế, quy luật kinh tế. Phạm trù kinh tế là những khái niệm phản ánh bản chất của những hiện tượng kinh tế như: lợi nhuận, Quy luật kinh tế phản ánh mối liên hệ, bản chất tất yếu thường xuên lập đi lập lại ở bên trong của các hiện tượng kinh tế như: qu luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, ... Hệ thống quy luật: gồm 3 hệ thống. Hệ thống các Q.Luật tồn tại và hoạt động trong mọi phương thức SXXH. Hệ thống các Q.Luật tồn tại và hoạt động trong một số phương thức SXXH. Hệ thống những Q.Luật hoạt động và tồn tại ở trong một phương thức SXXH. Hướng 3: Đối tượng nghiên cứu của KTCT Mác - Lê được xác định dựa trên quy luật lịch sử. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội . Nhưng bất cứ nền sản xuất nào cũng diễn ra trong một phương thức sản xuất nhất định tức là trong sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất . KTCT là khoa học xã hội , đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản xuất , tức là quan hệ sản xuất hay quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất , phân phối , trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Đối tượng nghiên cứu của KTCT là quan hệ sản xuất , nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất . Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng . Nhất là các qua hệ về chính trị , pháp lý … có tác động trở lại mạnh mẽ đối với quan hệ sản xuất . Vậy đối tượng nghiên cứu của KTCT là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng . KTCT là khoa học nghiên cứu quan hệ sản xuất nhằm tìm ra bản chất của các hiện tượng và các quá trình kinh tế , phát hiện ra các phạm trù quy luật kinh tế ở các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người . Các phạm trù kinh tế là các khái niệm phản ánh bản chất của những hiện tượng kinh tế như : hàng hóa , tiền tệ , giá trị , giá cả … Còn các qui luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ tất yếu , bản chất , thường xuyên lập đi lập lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế . Lý Do môn học này lại nghiên cứu QHSX trong sự vận động qua lại của LLSX với "Kiến Trúc Thượng Tầng" Vì các QHSX là cơ sở của K.Trúc Th.Tầng và K.Trúc Th.Tầng , nhất là các quan hệ chính trị, pháp luật, ... tác động qua lại QHSX và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ nhất là vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội hiện đại. Câu 2: các yếu tố của quá trình LĐSX? Trong các yếu tố đó thì yếu tố nào là có vai trò quan trọng nhất, tại sao? Trả lời: LĐSX là quá trình con người sử dụng công cụ lao động vào tự nhiên nhằm biến đổi các dạng vật chất của tự nhiên thành sản phẩm thoả mãn các nhu cầu của mình. Các yếu tố: yếu tố lao động con người và yếu tố tư liệu sản xuất. Yếu tố lao động con người: Sức lao động : là toàn bộ những năng lực thể chất, tinh thần tồn tại trong cơ thể của mổi con người đang sống và được đem ra sử dụng khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Yếu tố tư liệu sản xuất: gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là tất cả những vật mà lao động của con người tác động vào, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với nhu cầu của mình, gồm hai loại: Loại có sẵn trong tự nhiên: ví dụ như các khoáng sản, đất, đá, thủy sản... loại này thường là đối tượng của ngành công nghiệp khai thác Loại đã qua chế biến: nghĩa là đã có sự tác động của lao động trước đó: ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông... loại này là đối tượng của ngành công nghiệp chế biến. Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành sản phẩm để thoả mãn các nhu cầu của con người. Tư liệu lao động bao gồm: Công cụ lao động: là bộ phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người như: các máy móc để sản xuất...Công cụ lao động giữ vị trí là hệ thống "xương cốt và bắp thịt" của sản xuất. Trình độ phát triển của chúng là những dấu hiệu đặc trưng tiêu biểu cho một thời đại sản xuất nhất định, Các Mác viết: " Những thời đại kinh tế khác nhau không phải là ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với tư liệu lao động nào" Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động gọi chung là " hệ thống bình chứa của sản xuất " như ống, thùng, vại, giỏ... Loại tư liệu LĐ này đóng vai trò quan trọng trong ngành SX hóa chất. Tư liệu lao động, với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như đường xá, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc... Đối tượng lao động và tư liệu lao động kết hợp lại thành tư liệu sản xuất. Kết quả của sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất là sản phẩm lao động. Còn lao động tạo ra sản phẩm gọi là lao động sản xuất. Trong các yếu tố trên thì yếu tố lao động con người là yếu tố cơ bản nhất và quyết định nhất. Vì là lao động có mục đích, ý thức được diễn ra giữa con người với tự nhiên để phục vụ nhu cầu của con người. Con người có thể ý thức được công việc đó diễn ra như thế nào và hoạt động đó diễn ra như thế nào. Câu 3 : Các khâu của quá trình tái SX-XH , vị trí và quan hệ của các khâu ? Trả lời : Tái SX-XH bao gồm các khâu : sản xuất , phân phối , trao đổi , tiêu dùng. Mỗi khâu có 1 vị trí nhất định , song giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau , trong đó khâu sản xuất là điểm xuất phát và có vai trò quyết định đối với các khâu tiếp theo . Tiêu dùng là mục đích của sản xuất , là điểm kết thúc . Còn phân phối , trao đổi là khâu trung gian nối liền sản xuất và tiêu dùng . Mối quan hệ : Sản xuất và tiêu dùng : Có quan hệ chặt chẽ , không có sản xuất thì không có tiêu dùng , không có tiêu dùng thì không có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất sẽ không có mục đích . Sản xuất tạo ra của cải vật chất , sản phẩm xã hội phục vụ cho tiêu dùng . Có vai trò quyết định đối với tiêu dùng bởi sản xuất tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng . Qui mô và cơ cấu sản phẩm do sản xuất tạo ra quyết định qui mô và cơ cấu tiêu dùng , chất lượng và tính chất của sản phẩm quyết định chất lượng và phương thức tiêu dùng . Mác viết : “Nhưng không phải sản xuất chỉ tạo ra vật phẩm cho tiêu dùng , nó cũng đem lại cho tiêu dùng tính xác định của nó , tính chất của nó , sự hoàn thiện của nó”. Tiêu dùng là khâu cuối cùng kết thúc một quá trình tái sản xuất . Có 2 loại là tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho cá nhân . Khi nào sản phẩm đi vào tiêu dùng , được tiêu dùng thì nó mới hoàn thành chức năng là sản phẩm . Tiêu dùng tạo ra nhu cầu và mục đích cho sản xuất , trong nền KTTT người tiêu dùng là thượng đế , là một căn cứ quan trọng để xác định khối lượng , cơ cấu , chất lượng sản phẩm xh . Sự phát triểm đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là động lực của sự phát triển sản xuất . Như vậy với tư cách là mục đích , động lực của sản xuất thì tiêu dùng có tác động trở lại với sản xuất . Phân phối và trao đổi sản xuất : Mác viết : “Vì trao đổi chỉ là một yếu tố trung gian , giữa một bên là sản xuất và phân phối do sản xuất quyết định , và bên kia là tiêu dùng , còn bản thân tiêu dùng thể hiện ra là 1 yếu tố của sản xuất , vì rõ ràng là trao đổi đã bao hàm trong sản xuất với tư cách là yếu tố của sản xuất”. Phân phối bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất và phân phối các sản phẩm , phân phối cho sản xuất và phân phối cho tiêu dùng cá nhân . Phân phối cho sản xuất là sự phân chia các yếu tố sản xuất cho các ngành các đơn vị sản xuất khác nhau để tạo ra sản phẩm . Chỉ xét một chu kì sản xuất riêng biệt , thì dường như sự phân phối trước sản xuất quyết định qui mô và cơ cấu sản xuất . Nhưng trong tính chất vận động liên tục của sản xuất thì nó thuộc về quá trình sản xuất , do sản xuất quyết định . Phân phối cho tiêu dùng là sự phân chia sản phẩm cho các cá nhân tiêu dùng theo tỉ lệ đóng góp của họ vào việc tạo ra sản phẩm , sự phân phối này là kết quả trực tiếp của sản xuất do sản xuất quyết định vì chỉ có thể phân phối những cái được sản xuất tạo ra . Sản xuất quyết định phân phối trên các mặt : Số lượng và Chất lượng sản phẩm , Đối tượng phân phối , qui mô và cơ cấu của sản xuất quyết định qui mô cơ cấu của phân phối . Quan hệ sản xuất quyết định quan hệ phân phối . Tư cách của cá nhân tham gia vào sản xuất quyết định tư cách và hình thức của họ trong quan hệ phân phối . Nếu quan hệ phân phối tiến bộ , phù hợp sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và ngược lại , quan hệ phân phối không phù hợp sẽ kiềm hãm sự phát triển của sản xuất . Sự trao đổi là sự kế tiếp của phân phối , đem lại cho cá nhân những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình , “cường độ trao đổi , tính chất phổ biến , hình thái trao đổi là do sự phát triển và kết cấu của sản xuất quyết định. Song , trao đổi cũng tác động trở lại đối với sản xuất và tiêu dùng khi nó phân phối lại , cung cấp sản phẩm cho sản xuất và tiêu dùng , nó sẽ thúc đẩy hay cản trở sản xuất và tiêu dùng . Tóm lại , sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng thành một thể thống nhất của quá trình tái sản xuất . Chúng có quan hệ biến chứng với nhau , trong đó sản xuất là gốc , là cơ sở , là tiền đề đóng vai trò quyết định . Tiêu dùng là động lực là mục đích của sản xuất . Phân phối và trao đổi là những khâu trung gian tác động mạnh mẽ đến sản xuất và tiêu dùng . Câu 4 : Phân biệt giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế ? Trả lời : Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income, PCI). Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính). Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng. Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc dân chia cho dân số. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ. Phát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn. Câu 5 : Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội . Tại sao nước ta phải tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước , trong từng chính sách phát triển ? Trả lời : Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội : Tăng trưởng và phát triển kinh tế là cơ sở vật chất cho tiến bộ xã hội và ngược lại , tiến bộ xã hội thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế . Tiến bộ xã hội là kết quả của sự phát triển kinh tế và mọi sự phát triển được coi là tiến bộ , trước hết phải là sự phát triển thúc đẩy sự tiến bộ xã hội . Tiến bộ xã hội , xét về thực chất , là giải phóng và phát triển con người toàn diện mà nhân tố con người là chủ thể , là nguồn lực quyết định sự phát triển kinh tế bền vững . Tiến bộ xã hội xác định rõ các nhu cầu xã hội , nhu cầu đời sống cần phải đáp ứng . Những nhu cầu đó là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế . Đến lượt nó phải phát triển kinh tế lại tạo ra những nhu cầu mới thúc đẩy sự tiến bộ xã hội . Quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội về thực chất là mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với sự phát triển của quan hệ sản xuất và của kiến trúc thượng tầng , tức là sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội . Trong đó không phải chỉ có sự tác động một chiều của sự phát triển kinh tế , sự phát triển của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng , mà là mối quan hệ biện chứng . Tác động qua lại giữa quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng có thể tác động thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Nước ta phải tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước trong từng chính sách phát triển vì : Thực tiễn công cuộc đổi mới ở VN hơn 20 năm qua đã khẳng định vai trò tích cực của cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường , định hướng XHCN . Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu , hành chính , bao cấp sang cơ chế thị trường , từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường . Là bước đột phá quan trong về tư duy và chính sách kinh tế từ sau Đại Hội VI và cũng từ đó Đảng và Nhà Nước chủ trương không chỉ phát triển thị trường trong nước mà còn chú trọng vốn đầu tư từ nước ngoài , mở rộng giao thương với các nước trên thế giới , tích cực chủ động tham gia và hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa . Từ 1955 VN đã hướng đến việc gia nhập tổ chức Thương Mại TG , và đã trở thành thành viên thứ 150 WTO . Khi chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải đổi mới kế hoạch hóa , phát huy tính tích cực của cơ chế thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó . Qua 20 năm đổi mới , đến Đại Hội X Đảng đã xác định : Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh . Thấm nhuần tư tưởng quan trọng của Mác , trong mỗi thời đại lịch sử , sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy , trong thời kì quá độ lên CNXH Đảng ta đang đặt biệt chú trọng sản xuất , phát triển kinh tế và xây dựng hoàn thiện cơ cấu xã hội , chăm lo giải quyết những vấn đề về chính sách xã hội . Trong công cuộc đổi mới , nhất là trong giai đoạn hiện nay , Đảng và NN lấy đổi mới kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm , xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt , xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thân của xã hội , để hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , đồng thời thực hiện tiến bộ và cộng bằng xã hội trong từng bước , trong từng chính sách phát triển . Đảng và NN khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp , làm sao cho mọi người dân hết đói nghèo , được ấm no sung sướng , thu hẹp khoảng cách giàu nghèo . Đó là vấn đề hàng đầu nhằm thực hiện công bằng trong xã hội dân chủ văn minh . Từ 1993 đến nay , nước ta đã liên tục giảm tỉ lệ đói nghèo , và hướng tới không còn đói nghèo . Các chính sách xã hội khác về phúc lợi xã hội , về GD-ĐT tạo việc làm chăm sóc sức khỏe , an sinh xã hội , ưu đãi xã hội … đã được thực hiện tốt và phấn đấu thực hiện tốt hơn . Xóa đói cùng phát triển kinh tế cũng vì cuộc sống tốt đẹp hạnh phúc tốt đẹp của mỗi con người . CNXH trên đất nước ta , do Đảng ta lãnh đạo từ nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân để phát triển. Con người toàn diện . Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu quan trọng của CNXH mà chúng ta đi tới . Đây cũng chính là cốt lõi của di sản Mác để lại cho nhân loại , không chỉ hôm nay mà ngay cả trong tương lai . Câu 6 : Vì sao hàng hóa có 2 thuộc tính ? Phân tích mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa ? Trả lời : Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất hàng hoá có bản chất khác nhau, nhưng hàng hoá đều có hai thuộc tính: a) Giá trị sử dụng : Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, ví dụ: cơm để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. b) Giá trị hàng hoá : Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Vải và thóc là hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau về chất, tại sao chúng lại có thể trao đổi được với nhau và trao đổi theo tỷ lệ nào đó. Khi hai sản phẩm khác nhau (vải và thóc) có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Cái chung ấy không phải là giá trị sử dụng, tuy nhiên, sự khác nhau về giá trị sử dụng của chúng là điều kiện cần thiết của sự trao đổi. Nhưng cái chung đó phải nằm ngay ở trong cả hai hàng hoá. Nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa chúng chỉ còn một cái chung làm cơ sở cho quan hệ trao đổi. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, những người sản xuất đều phải hao phí lao động. Chính hao phí lao động ẩn giấu trong hàng hoá làm cho chúng có thể so sánh được với nhau khi trao đổi. Chúng được trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, một số lượng vải ít hơn đổi lấy một lượng thóc nhiều hơn (1 m vải = 10 kg thóc); nhưng lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi. Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao. Phân tích mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa : Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính của hàng hóa thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng nhất về chất, đều là "những cục kết tinh đồng nhất của lao động mà thôi", tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá. Thứ hai, tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hóa, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau về cả mặt không gian và thời gian: giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông, còn giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó nếu giá trị của hàng hoá không được thực hiện thì sẽ dẫn đến khủng hoảng sản xuất. Câu 7 : Tại sao lượng giá trị hàng hóa được đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết ? Sự giống nhau và khác nhau giữa tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động ? Trả lời : Chất của giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa . Vậy lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định . Do lượng lao động bằng thước đo thời gian như 1 giờ , 1 ngày lao động ,…Do đó , lượng giá trị của hàng hóa cũng do thời gian lao động quyết định . Trong thực tế một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra , nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất , trình độ tay nghề là không giống nhau , nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hóa của họ khác nhau . Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hóa của từng người sản xuất . Nhưng lượng giá trị xã hội của hàng hóa không phải được tính bằng lượng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết . Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội , tức là với trình độ kỹ thuật trung bình , trình độ khéo léo trung bình , cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định . Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cũng cấp đại bộ phận loại hàng hóa nào đó trên thị trường . Sự giống và khác nhau : Năng suất lao động : Hiệu suất của lao động được đo bằng số lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian , hoặc lượng thời gian lao động hao phí để tạo ra một đơn vị sản phẩm . Năng suất lao động phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động , mức trang bị kỹ thuật của lao động , phương pháp tổ chức , quản lý và các điều kiện tự nhiên . Tăng năng suất lao động thể hiện ở chỗ : Hao phí lao động không tăng , nhưng số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian tăng lên , do đó giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống , điều đó có nghĩa : Giá trị của hàng hóa biến đổi , tỉ lệ nghịch với năng suất lao động . Cường độ lao động : Là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian . Tăng cường độ lao động sẽ tăng them hao phí lao động và do đó làm tăng số lượng sản phẩm một cách tương ứng , vì vậy giá trị một hàng hóa không thay đổi . Câu 8 : Tại sao để hiểu được bản chất và nguồn gốc của tiền tệ phải nghiên cứu các hình thái giá trị? Trả lời : Để hiểu được bản chất và nguồn gốc của tiền tệ , phải nghiên cứu các hình thái giá trị vì : lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ gồm sự phát triển của các hình thái giá trị . Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị . Về mặt giá trị , tức hình thái xã hội của hàng hóa nó không có một nguyên tử vật chất nào nên ta không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ biểu hiện trong quá trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó . Lịch sử của tiền tệ là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao , từ hình thái giản đơn đến hình thái đầy đủ nhất là tiền tệ . Hình thái giá trị giản đơn là hình thái phôi thai của giá trị , xuất hiện trong giai đoạn đầu trao đổi hàng hóa , trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên , lấy vật này đổi vật khác . Như vậy đó là hình thái vật ngang giá . Hình thái này có 3 đặc điểm : giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị ; lao động cụ thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng ; lao động tư nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động xã hội . Hình thái vật ngang giá và hình thái giá trị tương đối là 2 mặt liên quan nhau , không thể tách rời nhau , đồng thời là 2 mặt đối lập của một phương trình giá trị . Và trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định . Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng : Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn , sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất , chăn nuôi tách khỏi trồng trọt , trao đổi trở nên thường xuyên hơn , một hàng hóa này có thể quan hệ với nhiều hàng hóa khác . Vậy hình thái vật ngang giá được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác nhau . Tuy nhiên vẫn là trao đổi trực tiếp chưa có tỷ lệ trao đổi cố định. Hình thái chung của giá trị : với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội , hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên , đa dạng và và nhiều hơn , nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn . Người có vải muốn đổi lấy thóc, nhưng người có thóc không cần vải mà cần những thứ khác. Trong tình hình đó người ta phải đi con đường vòng , mang hàng hóa của họ đổi lấy thứ hàng hóa mà nó được nhiều người ưa chuộng rồi đem đổi lấy hàng hóa mình cần . Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng thì hình thái chung của giá trị xuất hiện . Từ những cái tất yếu trên , ta thấy rằng ở mọi thứ hàng hóa đều biểu hiện giá trị của mình ở một thứ hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung , tuy nhiên vật ngang giá chung chưa ổn định ở bất cứ hàng hóa nào , địa phương khác nhau thì có vật ngang giá chung khác nhau . Nghiên cứu các hình thái giá trị trên , ta thấy được lịch sử phát triển của các hình thái giá trị của tiền tệ từng bước phát triển ngày càng cao hơn , từ đơn giản trở nên phức tạp hơn … Tất cả những điều đó do lực lượng sản xuất và sự phân công lao động trong xã hội ngày càng cao hơn . Sản xuất hàng hóa thì ngày càng mở rộng , càng xuất hiện nhiều vật ngang giá chung , ở từng địa phương và càng nhiều vật ngang giá chung khác nữa xuất hiện ở các địa phương khác , dần việc trao đổi hàng hóa gặp khó khăn hơn , phức tạp hơn . Do đó phải có một loại hàng hóa làm vật ngang giá chung nhất , thống nhất nhất . Và khi vật ngang giá chung được cố định lại ở 1 vật độc tôn và phổ biến nhất thì hình xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị . Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò là tiền tệ , nhưng về sau được cố định lại ở kim loại quí vì chúng có những ưu điểm như thuần nhất về chất về chất , không hư hỏng , dễ chia nhỏ, một lượng nhỏ nhưng chứa đựng một giá trị lớn . Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa . Tiền tệ ra đời làm cho hàng hóa phân làm 2 cực : Hàng hóa thông thường ; Hàng hóa tiền tệ ( kim loại quý ) . Tỷ lệ trao đổi được cố định trong thời kì này . Sự xuất hiện các hình thái giá trị dẫn đến sự hình thành các loại vật ngang giá chung khác nhau và chung nhất, cao nhất là tiền tệ . Từ đó chung ra có thể hiểu được nguồn gốc của tiền tệ được phát triển như thế nào , ra sao . Và sau phân tích sự phát triển của các hình thái giá trị chúng ta cũng thấy được bản chất của tiền tệ , bản chất của tiền tệ được hiểu như sau : Tiền tệ là một hàng hóa đặt biệt được tách ra từ trong thế giới hành hóa làm vật ngang giá chung cho tất cả hàng hóa đem trao đổi . Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện qua hệ của người lao động sản xuất ra hàng hóa . Tóm lại , nghiên cứu các hình thái giá trị của tiền tệ để từ đó chúng ta biết được sự hình thành , ra đời của các hình thái giá trị , hiểu được lịch sử phát triển từ thấp nhất đến cao nhất là tiền tệ , nhận thức được bản chất của tiền tệ từ đó đi đến kết luận : muốn hiểu được bản chất và nguốn gốc của tiền tệ phải nghiên cứu các hình thái giá trị . Câu 9 : Mối quan hệ giữa cung cầu và giá cả ? Trả lời : Cầu : Là nhu cầu của xã hội về hàng hóa được biểu hiện trên thị trường ở một mức giá nhất định , bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của người dân . Cung : Là toàn bộ hàng hóa trên thị trường và có thể đưa đến ngay thị trường ở một mức giá nhất định . Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng, sự tác động giữa chúng hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường , giá cả đó không thể đặt được ngay , mà phải trải qua một thời gian dao động quanh vị trí cân bằng . Tương quan cung và cầu chỉ rõ sản xuất xã hội được phát triển cân đối đến mức nào , bất kì một sự mất cân đối nào trong sản xuất đều được phản ánh vào trong tương quan giữa cung và cầu . Tương quan cung và cầu điều chỉnh giá cả thị trường . Chính xác hơn là điều chỉnh độ chênh lệch giữa giá cả thị trường với giá trị thị trường . Sự biến đổi tương quan của cung và cầu sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường , ngược lại giá cả cũng ảnh hưởng trở lại đối với cung và cầu . Cầu biến đổi ngược chiều với giá cả thị trường và cùng chiều với mức thu nhập còn cung biến đổi ngược chiều với giá cả đầu ra , nhưng cũng biến đổi ngược chiều với giá cả đầu vào . Tuy nhiên sự cần bằng cung và cầu là tạm thời , sự không cân bằng giữa cung và cầu là không thường xuyên vì cung và cầu vốn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố , mà các nhân tố này luôn biến đổi , nên cung và cầu thường xuyên không cân bằng . Chính điều này đã hình thành quá trình tác động lẫn nhau giữa cung , cầu , giá cả . Câu 10 : Điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản là gì? Hàng hóa sức lao động có đặt điểm gì khác so với hàng hóa thông thường ? Trả lời : CNTB ra đời khi có 2 điều kiện : Có một lớp người được tư do về thân thể nhưng lại không có tư liệu sản xuất , và tiền của phải được tập trung vào một số người với một lượng đủ lớn để lập các xí nghiệp . Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác , và mang lại lợi nhuận cho người sử dụng tiền , sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản . Với nhà TB nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa . Do đó số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra , nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T- H – T’ . Trong đó : T’ = T + ∆T . Số tiền trội hơn số tiền ứng ra (∆T) , Mác gọi là giá trị thặng dư , số tiền ứng ra ban đầu chuyển hóa thành tư bản . Hàng hóa sức lao động : 1. Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. 2. Trong mọi xã hội, sức lao động đều là yếu tố của sản xuất nhưng sức lao động chỉ trở thành hàng hoá sức lao động khi có hai điều kiện sau: Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể của mình, có khả năng chi phối sức lao động ấy và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định Thứ hai, người lao động không còn có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng. 3. Cũng như mọi loại hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động XH cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Do việc sản xuất và tái sản xuất sức lao động được diễn ra thông qua quá trình tiêu dùng, sinh hoạt, giá trị sức lao động được quy ra thành giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống công nhân và gia đình họ cũng như chi phí đào tạo công nhân có một trình độ nhất định. Tuy nhiên, giá trị hàng hoá sức lao động khác hàng hoá thông thường ở chố nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử của từng nước, từng thời kỳ... Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng nhằm thoả mãn nhu cầu của người mua để sử dụng trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, khác với hàng hoá thông thường, trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần dôi ra đó chính là giá trị thặng dư. Đây là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất . Hàng hóa thông thường : Là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu con người dùng để trao đổi với nhau . Giống nhau : Hàng hóa thông thường và hàng hóa sức lao động đều có 2 thuộc tính : Giá trị sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu người mua và giá trị hàng hóa . Khác nhau : Về giá trị sử dụng : (hàng hóa thông thường) là công dụng của sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người như ăn , mặc , ở …Đối với hàng hóa sức lao động thì công dụng của nó là thỏa mãn nhu cầu người mua , là sử dụng vào quá trình lao động Về giá trị hàng hóa : Đối với hàng hóa thông thường thì giá trị của nó là giá trị trao đổi, là quan hệ tỉ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác , vậy giá trị lao động của người sản xuất hàng hóa . Chất của giá trị lao động , vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa trong đó thì không có giá trị . Đối với hàng hóa sức lao động thì giá trị hàng hóa của nó : bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó . Câu 11 : Nội dung: nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư ? Trả lời : Nguồn Gốc Như đã biêt GTTD là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động của người công nhân và bị nhà tư bản chiếm ko,như vậy nguồn gốc của GTTD chính là sức lao động của người công nhân.GTTD được chia thành: GTTD tương đối:được tao ra do nhà tư bản bóc lột sức lao động của công nhân băng cách tăng năng suất lao động GTTD tuyệt đối:được tao ra do nhà tư bản bóc lột sức lao động của công nhân bằng cách kéo dài thơi gian lao động. Còn nói về lợi nhuận,trong quá trình sản xuất nhà tư bản bỏ ra lượng vốn là: k=c+v ,gọi là chi phí tư bản.Và nhờ bóc lột họ tạo ra một giá trị là: w=c+v+m gọi là chi phí thưịc tế hay giá trị của hàng hóa.Khi bán hàng hóa nhà tư bản lãi một lương là m ,va lọi nhuận cũng được sinh ra từ đây. Lợi nhuận (p)chính la phần chênh lệch giữa chi phí tư bản và giá trị hàng hóa,thực ra nó chính la sự biến tướng của GTTD mà thôi. So sánh về p và m: Xét về mặt lượng: khi hàng hóa được bán với giá cả bằng giá trị thì m=p, giá cả giá trị thì p>m, Xét về mặt chất: m biểu hiện trình độ bóc lột của nhà tư bản với công nhân làm thuê,còn p biểu hiện số tiền lãi của nhà tư bản. Bản Chất: Giá trị thặng dư chính là phần giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra ngoài sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân cho nhà tư bản. Chú ý rằng, phần lao đông không công đó trở thành giá trị thặng dư vì nó thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải là của người lao đông. Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không công ấy là vì nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất. Ví dụ: Giả sử để chế tạo ra 1 kg sợi, nhà tư bản phải bỏ ra 28.000 đơn vị tiền tệ bao gồm 20.000 đơn vị tiền tệ mua 1 kg bông, 3.000 đơn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 1 ngày (10 giờ). Giả định việc mua này là đúng giá trị. Đồng thời giả định, mỗi giờ lao động, người công nhân tạo ra 1.000 đơn vị giá trị mới kết tinh vào trong sản phẩm. Vậy bằng lao động cụ thể, người công nhân đã chuyển giá trị của bông và hao mòn máy móc vào trong sợi và bằng lao động trừu tượng của mình, mỗi giờ công nhân lại tạo thêm một lượng giá trị mới là 1.000 đơn vị. Nếu chỉ trong vòng 5 giờ, công nhân đã kéo xong 1kg sợi thì giá trị 1kg sợi là: Giá trị của 1 kg bông = 20.000 đơn vị Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị Giá trị mới tạo ra (trong 5 giờ lao động, phần này vừa đủ bù đắp giá trị sức lao động) = 5.000 đơn vị Vậy tổng cộng giá trị của 1 kg sợi là 28.000 đơn vị. Tuy nhiên, do nhà tư bản đã thuê người công nhân trong 10 giờ nên trong 5 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản không phải bỏ ra 5.000 đơn vị mua sức lao động nữa mà chỉ cần bỏ ra 20.000 đơn vị tiền tệ để mua thêm 1kg bông, 3.000 đơn vị cho hao mòn máy móc, tức là với 23.000 đơn vị tiền tệ, nhà tư bản có thêm được 1kg sợi. Như vậy. trong một ngày lao động, nhà tư bản bỏ ra 51.000 đơn vị tiền tệ để thu được 2 kg sợi. Trong khi đó, giá trị của 2 kg sợi là: 28.000 . 2 = 56.000 đơn vị tiền tệ. Do đó, nhà tư bản thu được 1 phần giá trị dôi ra, tức là giá trị thặng dư, bằng 5.000 đơn vị tiền tệ. Câu 12 : Sự giống và khác nhau giữa giá trị thặng dư tuyệt đối , tương đối , siêu ngạch ? Trả lời : Giá trị thặng dư tuyệt đối : Là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động , vượt khỏi giới hạn thời gian lao động cần thiết . Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi , do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên . Giá trị thặng dư tương đối : Là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội . Việc tăng năng suất lao động xã hội , trước hết ở các ngành sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng , sẽ làm cho giá trị sức lao động giảm xuống do đó làm giảm thời gian lao động cần thiết . Khi độ dài ngày lao động không thay đổi , thời gian lao động cần thiết sẽ giảm và làm tăng thời gian lao động thặng dư – thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản . Giá trị thặng dư siêu ngạch : Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội . Xét từng đơn vị sản xuất TBCN , giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời cục bộ . Nhưng xét về toàn bộ xã hội tư bản , giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị tồn tại thường xuyên . Vì vậy , giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà TB ra sức cải tiến kỹ thuật , tăng năng suất lao động . Giống nhau : Giá trị thặng dư siêu ngạch và Giá trị thặng dư tương đối : Là điều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động . Khác nhau : ở chỗ giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội , giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt . Khác nhau : Giá trị thặng dư tương đối và Giá trị thặng dư tương đối : Giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài ngày lao động . Là giai đoạn đầu của CNTB - Giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động tất yếu . Là giai đoạn sau của CNTB . Giống nhau : Cả 2 cùng làm tăng thời gian lao động thặng dư . Câu 13 : Tại sao nói sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB ? Trả lời : Quy luật kinh tế tư bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của phương thức sản xuất. mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản. Bị tướt đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản . lao động không công của công nhân làm thuê là nguồn gốc của giá trị thăng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thăng dư là mục đích duy nhất của nàh sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó, các nhà tư bản sản xuất bất cứ hàng hóa nào, kể cả vũ khí giết người hàng loạt, miễn là thu được nhiều giá trị thăng dư. Phương tiện để đạt được mục đích là tăng cường bốc lột công nhân làm thêu trên cơ sở phát triển kỹ thuật, tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động… Sản xuất giá trị thăng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. Nôi dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thăng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bốc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thăng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hôi. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật và phân công lao động trong xã hội phát triển, làm cho LLSX trong XNCNTB phát triển với tốc độ nhanh và năng cao năng suất lao động. mặt khác , làm cho các mâu thuẩn vốn có của CNTB , trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó : Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt . Câu 14 : Sự khác nhau giữa chi phí sản xuất TBCN và giá trị hàng hóa ? Trả lời : Chi phí sản xuất TBCN : Là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản . Chi phí sản xuất TBCN khác với Giá trị hàng hóa cả về chất lẫn về lượng . Về chất , chí phí sản xuất TBCN chỉ là chi phí về tư bản còn giá trị hàng hóa là chi phí thực tế, chi phí về lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa . Về lượng , chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn giá trị hàng hóa . Giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa , vậy lượng lao động của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và tình bằng thời gian lao động . Trong thực tế , có nhiều người cũng sản xuất hàng hóa nhưng điều kiện sản xuất , trình độ tay nghề khác nhau … làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó là khác nhau , tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau . Nhưng lượng giá trị của hàng hóa không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt qui định mà do thời gian lao động cần thiết . Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong điều kiện bình thường của sản xuất với trình độ trang thiết bị trung bình , với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó . Vậy , thực chất thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hóa . Thời gian lao động xã hội cần thiết có thể thay đổi . Do đó lượng giá trị hàng hóa cũng thay đổi . Câu 15 : Trình bày sự khác nhau giữa lợi nhuận & giá trị thặng dư . Giữa tỉ suất lợi nhuận & tỉ suất giá trị thặng dư . Trả lời : Ta biết rằng, nhà tư bản bỏ ra tư bản bao gồm tư bản bất biến c và tư bản khả biến v để sản xuất ra giá trị thặng dư m. Nhưng các nhà tư bản đã đưa ra một khái niệm mới là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa K– đó là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất © và giá cả sức lao động (v) đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản, nghĩa là K = c + v. Khi c + v chuyển thành K như vậy thì số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa được gọi là lợi nhuận P. Như vậy, lợi luận thực chất là giá trị thặng dư được quan niệm là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước. Khi đó, giá trị hàng hoá G = c + v + m biến thành G = K + P. Về bản chất thì P chính là m nhưng cái khác nhau ở chỗ, m hàm ý so sánh với v còn P lại hàm ý so sánh nó với K = c + v. P và m thường không bằng nhau. P có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả hàng hoá do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng nếu xét trên phạm vi toàn XH, tổng lợi nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư. Khi giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng chuyển thành tỷ suất lợi nhuận.Tỷ suất giá trị thặng dư m’ là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư m với tư bản khả biến v: m’ = m/v . 100(%) Tỷ suất lợi nhuận P’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước: P’ = m/(c + v) . 100(%). Trong thực tế người ta thường tính P’ bằng tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuân thu được P với tổng tư bản ứng trước K: P’ = P/K . 100(%). Xét về lượng thì tỷ suất lợi nhuận P’ luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị thặng dư m’. Về chất, tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động còn tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản. P’ chỉ cho nhà đầu tư tư bản biết đầu tư vào đâu là có lợi. Tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ suất thặng dư: tỷ suất thặng dư tăng thì tỷ suất lợi nhuận tăng; tốc độ chu chuyển tư bản, cấu tạo hữu cơ của tư bản và tiết kiệm tư bản bất biến. Câu 16 : Các phạm trù lợi nhuận , tỉ suất lợi nhuận , lợi nhuận bình quân đã che dấu nguốn gốc và bản chất của nó như thế nào ? Trả lời : Khi tổng tư bản bất biến và khả biến chuyển thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa gọi là lợi nhuận. Lợi nhuận chính là giá trị thặng dư được quan niệm là kết quả của toàn bộ tư bản ứng trước. Khi giá trị thặng dư chuyển thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. Khái niệm lợi nhuận thực chất cũng chỉ là biến tướng của giá trị thặng dư. Nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Theo khái niệm này thì phần dôi ra đó không phải là do giá trị sức lao động của công nhân làm thuê tạo ra mà là do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa của nhà tư bản tạo ra. Khái niệm tỷ suất lợi nhuận cũng vậy. Nó không biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động như tỷ suất giá trị thặng dư . Tỷ suất lợi nhuận chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản. Tóm lại, bằng việc đưa ra 2 khái niệm trên, các nhà tư bản đã che dấu bản chất bóc lột của mình, che dấu đi cái thực chất sinh ra giá trị thặng dư là lao động không công của người công nhân làm thuê. Câu 17 : Kết quả của cuộc cạnh tranh khác ngành và nội bộ ngành ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu cạnh tranh khác ngành trong CNTB ? Trả lời : Cạnh tranh nội bộ ngành : Là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng nội bộ ngành , cùng sản xuất ra một loại hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất va tiêu thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch . Kết quả của cuộc cạnh tranh nội bộ ngành : Là hình thành nên giá trị xã hội của từng loại hàng hóa . Điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi do kỹ thuật sản xuất phát triển , năng suất lao động tăng lên , giá trị xã hội của hàng hóa giảm xuống . Cạnh tranh khác ngành : Sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác nhau , nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn . Kết quả của cạnh tranh khác ngành : Là hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân , và giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất . Câu 18 : Nguồn gốc và bản chất của tư bản công nghiệp và tư bản cho vay trong CNTB? TBCV có ý nghĩa gì ? Trả lời : Câu 19 : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp và lợi tức cho vay . Các phạm trù trên đã che dấu nguồn gốc và bản chất của QHSX và TBCN như thế nào? Trả lời : Câu 20 : Trình bày hình thức địa tô chênh lệch trong CNTB , phân tích ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận của địa tô CNTB ? Trả lời : Địa tô chênh lệch (Rcl) : Là phần lợi nhuận phụ thêm , ngoài lợi nhuận bình quân , thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn “về độ màu mỡ và vị trí thuận lợi” . Đó chính là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt của nông phẩm trên ruộng đất tốt và trung bình . Có 2 loại : Rcl 1 : Là địa tô thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên và vị trí thuận lợi hơn . Rcl 2 : Là địa tô thu được gắn liền với đầu tư thêm tư bản cho việc thâm canh tăng năng suất để thu lợi nhuận siêu ngạch . Trong thời gian hợp đồng thuê đất Rcl 2 thuộc nhà tư bản . * Ý nghĩa : Nghiên cứu địa tô TBCN , ngoài mục đích vạch rõ sản xuất TBCN trong nông nghiệp , chúng ta còn rút ra cơ sở lý luận để đề ra cả đường lối , chính sách đối với nông nghiệp nhằm kích thích nông nghiệp phát triển , kết hợp hài hòa các lợi ích trong nông nghiệp cũng như giữa nông nghiệp và các ngành khác . Thí dụ , xây dựng chính sách thuế nông nghiệp hợp lý nhằm khác thác được mọi tiềm năng ở nông thôn , trách độc quyền trong phân phối ruộng đất , tạo điều kiện cho cạnh tranh trong nông nghiệp và giữa nông nghiệp với các ngành sản xuất khác , vận dụng lí luận về địa tô chênh lệch để khuyến khích mọi ruộng đất được khai thác bảo đảm công bằng xã hội (Rcl 1) , đề ra chính sách giao quyền sử dụng đất lâu dài để khuyến khích người nông dân đầu tư thâm canh , cải tạo đất đai (Rcl 2) … Câu 21 : Trong các đặc điểm của kinh tế tư bản của CNTB đặc quyền thì đặc điểm nào quan trọng nhất và quyết định nhất ? Tại sao ? Trả lời : Câu 22 : Tại sao nói ngày nay CNTB đang có sự điều chình để thích nghi nhưng không thể vượt qua giới hạn lịch sử ? Trả lời : Câu 23 : Tư bản cố định , tư bản lưu động là gì ? Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân chia tư bản thành 2 loại nói trên ? Nêu các giải pháp khắc phục hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của tư bản cố định ? Trả lời : Câu 24 : Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản ? Trả lời : Câu 25 : Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích lũy ? Trả lời : PHẦN II : XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Câu 1 : Những khả năng, tiền đề, cách thức quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta ? Trả lời : Câu 2 : Phân tích hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới của Lênin ? Trình bày ý nghĩa của chính sách kinh tế mới ở nước ta ? Trả lời : Câu 3 : Thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua TBCN ở nước ta ? Trả lời : Đặc điểm bao trùm nhất của thời kì quá độ ở VN : Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là quá độ gián tiếp lên CNXH, mà theo quan điểm của Mác, vẫn phải tuân theo những giai đọan phát triển tự nhiên vốn có của sự vật, những qui trình có tính qui luật để đi từ sx nhỏ lên sx lớn XHCN Đây chính là con dg phát triển “rút ngắn” lên CNXH ở nc ta. Báo cáo chính trị tại ĐH IX Đảng CSVN chỉ rõ: tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là : “Bỏ wa việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa nhg thành tựu mà nhân loại đã đạt dc dưới chế độ TBCN, đặc biệt về KHCN để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.”. Đó chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa SX TBCN = con dg phát triển theo định hướng XHCN,tức là rút ngắn 1 cách đáng kể wá trình phát triển lên CNXH ở nc ta. Câu 4 : Phân tích khái niệm sở hữu, chế độ sở hữu, quan hệ sở hữu ? Trả lời : Câu 5 : Vì sao nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH lại có sụ tồn tại của nhiều thành phần kinh tế ? Trả lời : Trong thời kì quá độ ở nước ta, sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tất yếu và có lợi vì : Bước vào thời kì quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất tồn tại nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế . Có những thành phần kinh tế do lịch sử để lại, và còn có lợi cho sự phát triển kinh tế như kinh tế TBTN, kinh tế cá thể. Do chính sách cải tạo xã hội cũ, nảy sinh những thành phần kinh tế mới, như CNTB nhà nước, các loại hình HTX. Do yêu cầu xây dựng xã hội mới, hình thành các thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế mới khắc phục được tình trạng độc quyền, tạo ra sự cạnh tranh ; đó là động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Mặt khác, chỉ riêng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chưa có đủ khả năng thay thế các thành phần kinh tế khác để phát triển nền kinh tế có hiểu quả, làm ra nhiều sản phẩm nhất cho xã hội. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế quá độ vừa là tất yếu cần thiết , vừa là phương tiện để đạt mục đích của nền sản xuất xã hội. Nó vừa tạo cơ sở làm chủ về kinh tế, vừa bảo đảm kết hợp hài hòa hệ thống lợi ích kinh tế. Đó chính là động lực của sự phát triển. Việc mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển là sự cởi trói sức sản xuất, khai thác được mọi tiềm năng, kích thích được mọi nguồn nhân tài, vật lực, chất xám góp phần phát triển sản xuất tạo nhiều của cải cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động trong lúc nhà nước chưa có đủ điều kiện thu hút mọi lực lượng lao động xã hội. Việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không những giải phóng sức sản xuất , khai thác mọi khả năng phát triển lực lượng sản xuất trong nước , mà còn tận dụng sức mạnh KTQT, tranh thủ sự đầu tư hợp tác QT, khắc phục tình trạng biệt lập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, vừa giải quyết công ăn việc làm, mở rộng ngành nghề trong nước , khai thác tốt mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn có hiệu quả, tận dụng thế mạnh của đất nước. Cuối cùng, sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vừa là chiến lược kinh tế lâu dài, vừa là cơ sở thực hiện chiến lược xã hội : xóa dần mặc cảm ngoài biên chế nhà nước, giải quyết nạn thất nghiệp, sự luyến tiếc với cơ chế bao cấp, “hiện vật hóa” trao đổi… Câu 6 : Điểm thống nhất và mâu thuẩn của các thành phần kinh tế ? Trả lời : Tính thống nhất : Trong thời kì quá độ lên CNXH, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là cơ chế thị trường. Do đó, các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập. Mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Sự phát triển của mỗi thành phần đều góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư nhiệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng , nhưng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong môi trường chung, cùng chịu tác động của các nhân tố, các qui luật thị trường, các thành phần kinh tế tác động lẫn nhau cả tích cực và tiêu cực. Sự biến đổi của thành phần kinh tế này sẽ ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế khác. Hơn thế nữa, các thành phần kinh tế có thể liên kết với nhau trong sản xuất và kinh doanh. Nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở tồn tại các giai cấp hoặc tầng lớp xã hội khác nhau khi tổng hợp tạo thành cơ cấu xã hội – giai cấp. Trong cơ cấu này các thành phần kinh tế đều có lợi ích kinh tế riêng, vừa thống nhất vừa mâu thuẩn mới nhau. Sự mâu thuẩn : Các thành phần kinh tế mâu thuẩn với nhau vì : Mỗi thành phần kinh tế có đặc điểm riêng về tư liệu sản xuất, mang bản chất kinh tế khác nhau có các lợi ích kinh tế khác nhau thậm chí đối lập với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế làm cho cạnh tranh trở thành tất yếu. Cạnh tranh là động lực để cải tiến kỹ thuật và phát triển lực lượng sản xuất. Do đó nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi cho cạnh tranh. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là mâu thuẫn giữa một bên là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước với một bên là tính tự phát của kinh tế tư nhân là mâu thuẫn nổi bật. Giải quyết mâu thuẫn theo hướng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, giải quyết các mâu thuẫn đó không thể bằng biện pháp hành chính đơn thuần, bằng ý chỉ chủ quan, bằng bạo lực mà bằng cách tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ấy phát triển mạnh mẽ có lợi cho kinh tế dân sinh, hướng thành phần kinh tế tư nhân đi con đường CNTB nhà nước thông qua nhiều hình thức và mức độ khác nhau : hiệp tác, liên kết. liên doanh ; bằng biện pháp nâng cao hiểu quả của kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể… Tóm lại : Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần , sự thống nhất và mâu thuẫn giữa chúng là khách quan làm cho các thành phần kinh tế vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hóa đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và cần có sự quản lý của nhà nước. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo điều kiện cho chúng tồn tại, phát triển. Đồng thời bình đẳng trên mọi phương diện. Câu 7 : Làm thế nào để kinh tế nhà nước xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ? Trả lời : Kinh tế nhà nước được hiểu là : toàn bộ các doanh nghiệp , các cơ sở sản xuất kinh doanh , cơ sở khoa học công nghệ … Mà toàn bộ tài sản được sở hữu toàn dân và một bộ phận thuộc sở hữu hỗn hợp. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nền kinh tế vận hành theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở VN, kinh tế nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân . Vai trò đó được hiểu và thực hiện trên những phương diện cơ bản sau : Thứ nhất : Vai trò chủ đạo không phải biểu hiện ở số lượng các cơ sở kinh tế của nhà nước nhiều hay ít và cũng không phải ở tỉ trọng giá trị sản lượng do kinh tế nhà nước tạo ra chiếm bao nhiêu GDP. Mà vai trò chủ đạo trước hết phải được thể hiện ở trình độ công nghệ, trình độ quản lý , năng suất , hiệu quả kinh tế , xã hội và năng lực cạnh tranh cao . Thứ hai : Kinh tế nhà nước đóng vai trò hàng đầu trong việc khắc phục , hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường . Thứ ba : Kinh tế nhà nước độc quyền trong những lĩnh vực có quan hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và hoạt động bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong những ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân như Ngân hàng , Vận tải đường không …Tuy vậy ở đây cần lưu ý rằng , phạm vi độc quyền của kinh tế nhà nước càng rộng bao nhiêu thì tác động tích của cạnh tranh càng thu hẹp bấy nhiêu nghĩa là một trong những động lực mạnh nhất của kinh tế thị trường bị triệt tiêu . Bên cạnh đó , cần xác định rõ vai trò kinh tế của nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với kinh tế nhà nước độc quyền được biểu hiện cụ thể ở doanh nghiệp nhà nước nhất định , để không chuyển độc quyền của kinh tế nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp nhà nước vì trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , kinh tế nhà nước độc quyền là để có điều kiện định hướng sự vận động của nền kinh tế theo muc tiêu nhất định để đạt hiệu quả kinh tế xã hội . Do vậy nếu một doanh nghiệp nhà nước nào đó được độc quyền thì hoạt động của nó phải hướng tới với tính chất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước vì mục tiêu kinh tế xã hội , vì quốc kế dân sinh , chứ không phải vì bản thân doanh nghiệp. Trong trường hợp hoạt động của doanh nghiệp không đạt được yêu cầu nói trên thì không nên trao cho doanh nghiệp đặc lợi đặc quyền , nói cách khác doanh nghiệp nhà nước độc quyền nhưng không làm triệt tiêu luật chơi của kinh tế thị trường và không vì lợi ích cục bộ của bản thân doanh nghiệp nhà nước mà hướng tới vì lợi ích kinh tế xã hội thì hoạt động của doanh nghiệp mới đúng nghĩa là thực hiện vai trò chủ đạo theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Thứ tư : Kinh tế nhà nước định hướng phải hướng dẫn hoạt động các thành phần kinh tế khác để mọi thành phần kinh tế hoạt động theo mục tiêu định sẵn của nhà nước thông qua 2 cách thức được thực hiện đồng thời là : Qui hoạch , chiến lược phát triển ngành , vùng , sản phẩm của bản thân kinh tế nhà nước cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Trên cơ sở đó , các thành phần kinh tế khác có thêm luận cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của mình . Cung cấp cơ sở hạ tầng và những dịch vụ công cộng với chất lượng cao , giá cả rẽ , cho các thành phần kinh tế khác ở những lĩnh vực mà nhà nước muốn khuyến khích họ đầu tư. Thứ năm : Kinh tế nhà nước hỗ trợ , kích thích các thành phần kinh tế khác phát triển . Có thể hiểu sự hỗ trợ kích thích của kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế bao gồm : Ưu đãi về lãi suất , vay vốn , thuế , tiền thuê đất cho hoạt động của các thành phần kinh tế. Tìm kiếm và mở rộng thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra cho các thành phần kinh tế . Trợ giá hàng xuất khẩu cho các thành phần kinh tế khác khi cần thiết. Hỗ trợ , khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực , nâng cao năng lực cạnh tranh. Duy trì và kích thích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Tóm lại , vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN được thực hiện thông qua bao gồm cả hệ thống cơ chế , chính sách vĩ mô như : Chính sách tài chính – tiền tệ , đất đai …và cả ở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để giải phóng mọi năng lực của ngành kinh tế , thúc đẩy sự phát triển của các thể chế thị trường và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội bền vững . Câu 8 : Tại sao nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung CNH – HĐH trong quá trình CNH – HĐH? Trả lời : Câu 9 : Tại sao nói CNH – HĐH nền kinh tế quốc doanh là nhiệm vụ trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta ? Trả lời : Hội nghị BCH TW Đảng lần 7 – Khóa VI và Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ 7 ĐCSVN đã xác định : CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản , toàn diện các hoạt động sản xuất , kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từng sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến , hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN , là phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH , trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại , có văn hóa và khoa học tiên tiến . Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên , nhất thiết phải tiến hành CNH , tức là chuyển nên kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp . VN đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển , quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện . Vì vậy, quá trình CNH chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình CNH – HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Câu 10 : Phân tích quan điểm CNH – HĐH đất nước theo định hướng gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH – HĐH ? Trả lời : Câu 11 : Trình bày những đặc điểm cơ bản của cuộc CM Khoa Học Công Nghệ hiện đại ? Trả lời : Câu 12 : Thế nào là cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH ? Phân tích mối quan hệ CNH –HĐH với việc tạo lập cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội ? Trả lời : Câu 13 : Thế nào là cơ cấu kinh tế hợp lý ? Những nội dung chủa chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay ? Trả lời : Cơ cấu KT hiện đại và hợp lí là: Phát huy đồng bộ các ngành, tỉ trọng các ngành hợp lí. Xu hứơng chuyển dịch cơ cấu kinh tế dc coi là hợp lí, tiến bộ là tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng ,đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng, tỉ trọng khu vực nông , lâm, ngư nghiệp và khai khóang ngày càng giảm trong tổng giá trị SPXH Phát huy lợi thế, tiềm năng vùng , ngành và TPKT Cơ cấu sp theo thị hiếu hiện đại Cơ cấu mở gắn với phân công LĐ và hợp tác quốc tế Tạo đk để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển Cơ cấu kinh tế hợp lí phải thể hiện dc: MQH nội tại giữa các ngành CN, NN, DV theo hướng tiến bộ (cơ cấu ngành) MQH giữa các vùng lãnh thổ sao cho khai thác thế mạnh từng vùng, các vùng hỗ trợ bổ sung cho nhau (cơ cấu vùng) MQH giữa các TPKT (cơ cấu TPKT) sao cho khai thác phát huy tối đa mọi năng lực sx Xu hướng KQ của sự phân công lại LĐXH (cơ cấu LĐ) Những nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay : Nội dung cơ bản: Đẩy mạnh CMKH-CN hiện đại đi đôi với tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới từ ngoài vào: Đi liền với cơ khí hóa là điện khí hóa và tự động hóa sx từng bước trong tòan bộ nền KTQD Mặt khác, phải tiếp cận ngay nền kinh tế tri thức phát triển các ngành CN dựa trên công nghệ cao VN là nc đi sau nên cách làm rẻ nhất, hiệu quả nhất để có công nghệ hiện đại là thông qua chuyển giao mới từ nc ngòai Đi đôi với quá trình chuyển giao, cần xây dựng chiến lược phát triển khoa học & công nghệ quốc gia Nội dung cụ thể: Đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn Phát triển công nghiệp, xây dựng Cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế Phát triển nhanh du lịch, các ngành dịch vụ Phát triển hợp lí các vùng lãnh thổ Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngọa Câu 14 : So sánh bản chất & đặc trưng của KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN? Trả lời : Câu 15 : Phân tích cơ sở khoa học và và ý nghĩa của những giải pháp phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta ? Trả lời : Câu 16 : Vai trò kinh tế đặc quyền của nhà nước XHCN là gì ? Trả lời : Câu 17 : Vì sao nói chuyển qua cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN là sự lựa chọn tất yếu của VN? Trả lời : Để hiểu rõ thêm vì sao chúng ta không lựa chọn kinh tế thị trường nói chung mà lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần nhìn lại quá trình hình thành đường lối đổi mới ở nước ta 20 năm qua. Từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, từ những tư tưởng đổi mới mang tính chất từng mặt và từng bộ phận thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa sau Đại hội V, Đảng ta đã có bước chuẩn bị quan trọng tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt về tư duy kinh tế ở Đại hội VI. Tại đại hội này, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, chuyển sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Năm 1991, Cương lĩnh của Đảng khẳng định “phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đưa ra quan niệm mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Đây là bước phát triển quan trọng về tư duy lý luận của Đảng ta. Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Gần đây nhất, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục nhất trí quan điểm: để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải tuân theo các nguyên tắc và quy luật phổ biến của kinh tế thị trường, đồng thời phải mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra chất lượng mới của phát triển. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam về bản chất khác với nền kinh tế thị trường ở nhiều nước khác: Đó là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không lựa chọn phát triển kinh tế thị trường để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà là vận dụng mặt tích cực của kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo nhận thức đổi mới.Và định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Kinh tế thị trường vì “dân giàu, nước mạnh” Mục tiêu phát triển và tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta quy định, quá trình phát triển kinh tế thị trường phải là quá trình thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người nghèo thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, huy động cao nhất mọi nguồn lực, mọi tiềm năng vật chất và tinh thần, tạo ra những động lực mới, những đột phá mới trong phát triển, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Đồng thời, phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới tiên tiến. Như vậy, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Kinh tế nhà nước: chủ đạo nhưng không bao cấp Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Đảng ta chủ trương giải phóng triệt để mọi lực lượng sản xuất, giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu và thành phần kinh tế, làm cho tiềm năng kinh tế của mọi công dân, mọi vùng kinh tế, mọi ngành kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều được phát huy mạnh mẽ có hiệu quả. Đại hội X khẳng định, một trong những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Đảng ta đánh giá, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu cần phải xoá bỏ, Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm, một số mục tiêu (như xuất khẩu gạo, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, khắc phục những rủi ro...), một số địa bàn, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực tiễn đã chứng tỏ, nếu không có kinh tế nhà nước đủ mạnh thì Nhà nước không thể điều tiết các thành phần kinh tế khác vươn lên trong hợp tác và cạnh tranh với nhau và với các đối tác nước ngoài. Vấn đề đã và đang được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm là đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ được cơ cấu lại, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực như: kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng, một số lĩnh vực công ích. Những năm tới sẽ thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư...trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và cũng là sự khác biệt về bản chất giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa so với các mô hình kinh tế thị trường khác và cũng là điều kiện để bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Kinh tế tư nhân: Khuyến khích phát triển nhưng không phải "tư nhân hóa" Vì lợi ích của đất nước và chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước ta chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong mọi ngành nghề mà luật pháp không cấm, kể cả kinh tế tư nhân quy mô lớn. Nhìn vào mức độ và nhịp độ phát triển cũng như mức đóng góp của kinh tế tư nhân những năm qua, có thể thấy sự phát triển của kinh tế tư nhân là vượt trội nhất. Nhất là từ sau khi thực hiện Luật Doanh nghiệp, kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh, đóng góp quan trọng vào GDP, xuất khẩu, đầu tư, phát triển công nghiệp, dịch vụ, tạo việc làm... Trong 5 năm tới, định hướng chung là tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định của pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực địa bàn. Để khu vực kinh tế tư nhân nước ta có điều kiện vượt qua ngưỡng cửa khu vực chỉ dựa trên cá thể là chủ yếu, Đảng ta khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần. Đồng thời khuyến khích tư nhân mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước, tham gia đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế. Tăng trưởng đi đôi với công bằng xã hội Đây là nội dung quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta xác định rõ: Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho phát triển xã hội; ngược lại phát triển xã hội là động lực, là mục tiêu của phát triển kinh tế. Đảng ta chủ trương tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển và trong suốt quá trình phát triển. Do đó mỗi chính sách kinh tế đều nhằm mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội đều bao chứa nội dung kinh tế dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài. Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với thực tế là tăng trưởng kinh tế cao đã đi liền với sự gia tăng chênh lệch về phát triển và bất bình đẳng. Khi chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, sự gia tăng chênh lệch phát triển là cần thiết, xét về mặt tạo động lực phát triển và tạo lập cơ chế cạnh tranh. (Khác với cơ chế phân phối bình quân trước kia). Tuy nhiên, cần kiểm soát sự gia tăng chênh lệch phát triển không để dẫn đến bất ổn xã hội. Trong kinh tế thị trường, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng nhờ biết cách tổ chức sản xuất, kinh doanh hiệu quả, làm ăn đúng pháp luật, có nguồn thu hợp pháp. Cần ủng hộ, khuyến khích, nêu gương tầng lớp giàu có chân chính này. Đối với những kẻ giàu lên nhanh chóng do làm ăn phi pháp, tham ô, tham nhũng, buôn lậu...cần có biện pháp răn đe, giáo dục và trừng trị thích đáng. Giải pháp đổi mới hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm bớt, tiến tới loại bỏ những khe hở cho tham nhũng, buôn lậu cần đi đôi với các biện pháp giáo dục luật pháp, giám sát, phát hiện và xử lý kiên quyết những kẻ làm trái pháp luật. Nâng cao vai trò của Nhà nước do Đảng lãnh đạo Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm tăng cường sự tác động của yếu tố chính trị xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường chính là nhằm kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị trường, khắc phục dần tình trạng cạnh tranh vô chính phủ, độc quyền đã từng tồn tại trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nhiều người đặt vấn đề, vì sao đã chuyển sang kinh tế thị trường mà thời gian qua, nhà nước vẫn thực thi các biện pháp hành chính trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực, duy trì cơ chế "xin-cho", cấp phát...? Điều này được lý giải, hiện nay cơ chế thị trường của ta chưa hoàn thiện, các loại thị trường yếu tố mới hình thành sơ khai, do vậy nhà nước không thể không làm những việc mà đáng ra là của thị trường. Một khi thị trường đã phát triển và hoàn thiện, thì nhà nước có thể tập trung làm tốt những việc của mình trong vai trò người cầm lái, người trọng tài, người hỗ trợ. Chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường ở nước ta là định hướng phát triển bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực xã hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương. Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế chính sách và các công cụ kinh tế, sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị trường trong nước hoạt động không hiệu quả hoặc khi thị trường thế giới, khu vực có biến động lớn. Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường, tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, tách hệ thống hành chính công khỏi cơ quan hành chính sự nghiệp, xóa bỏ "chế độ chủ quản"... Cần khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn hay cản trở kinh tế thị trường phát triển mà ngược lại tính chính trị, tính định hướng thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển, hạn chế sự bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích đại đa số người lao động. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức phát triển mới mà Đảng ta lựa chọn để đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế đó mới đang hình thành và phát triển, còn đang bộc lộ nhiều khó khăn, yếu kém, cần được khắc phục, hoàn thiện. Đưa con thuyền kinh tế thị trường ra khơi, chúng ta biết phía trước không chỉ có sóng yên biển lặng mà có cả sóng to gió lớn. Để đưa con thuyền kinh tế thị trường về đích - chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải kiên trì hướng đi và đòi hỏi tay lái luôn vững vàng. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phải kiên quyết đổi mới vì "đổi mới là sống còn", nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và không xa rời mục tiêu. Câu 18 : Cơ chế thị trường là gì ? Những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường ? Trả lời : Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó . Nói một cách cụ thể hơn , Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau , tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả , cung – cầu , cạnh tranh …Trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường . Những ưu điểm : Thứ nhất : Kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động tự do của họ.Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động , có hiệu quả. Thứ hai : Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích nghi tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của xã hội . Nhờ đó ta có thể thỏa mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân và hàng ngàn , hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để nhà nước làm sẽ phải thực hiện một số công việc rất lớn , có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định . Thứ ba : Kích thích đổi mới kỹ thuật , hợp lý hóa sản xuất . Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bẳng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất nhưng không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất , đổi mới sản phẩm , đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh nâng cao hiệu quả . Thứ tư : Thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu . Trong nền kinh tế thị trường ,việc lưu động , di chuyển , phân phối các yếu tố sản xuất , vốn đều tuân theo nguyên tắc thị trường ; chúng sẽ được chuyển đến nơi , được sử dụng với hiệu quả cao nhất , do đó các nguồn lực kinh tế được phân bố một cách tối ưu . Thứ năm : Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi , làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội. Với những ưu điểm và tác dụng đó , cơ chế thị trường có thể giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế . Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên “sự thành công” của cơ chế đó là điều kiện : các yếu tố sản xuất được lưu động , di chuyển dễ dàng ; Giá cả thị trường có tính linh hoạt , thông tin thị trường phải nhanh nhạy , và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ thông tin liên quan . Những khuyết điểm : Thứ nhất : Chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo , khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm . Chẳng hạn xuất hiện độc quyền , các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng , tăng giá để thu hồi lợi nhuận cao , mặt khác , khi xuất hiện độc quyền thì không có sực ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới ký thuật . Thứ hai : Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa , vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội , gây ô nhiễm môi trường sống của con người , do đó hiệu quả kinh tế xã hội không được bảo đảm . Thứ ba : Phân phối thu nhập không công bằng , vì vậy sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo , sự phân cực về của cải , tác động xấu đến đạo đức và tình người. Thứ tư : Một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm , khủng hoảng kinh tế và có tính chu kì thất nghiệp . Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần túy , mà thường có sự can thiệp của nhà nước để sữa chữa những thất bại của cơ chế thị trường , khi đó nền kinh tế như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp . Câu 19 : Phân tích bản chất, chức năng tài chính trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta ? Trả lời : Câu 20 : Trình bày các bộ phận cấu thành hệ thống tài chính trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta ? Trả lời : Câu 21 : Phân tích bản chất các hình thức chức năng , vai trò của tín dụng ở nước ta hiện nay ? Trả lời : Chức năng : Là một bộ phận của hệ thống tài chính , quan hệ tín dụng cũng có chức năng phân phối và giám đốc . Chức năng phân phối của tín dụng được thực hiện thông qua phân phối lại vốn. Phân phối của tín dụng dựa trên cơ sở tự nguyện theo nguyên tắc cho vay có thế chấp hoặc tính chấp ; sử dụng đúng mục đích có hiệu quả và hoàn trả cả vốn gốc lẫn lợi tức . Nội dung của chức năng này biểu hiện ở “cơ chế hút” và “cơ chế đẩy” được thực hiện thông qua nghiệp vụ huy động để thu hút các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi , phân tán trong xã hội và nghiệp vụ cho vay để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất , kinh doanh và tiêu dùng . Chức năng giám đốc được thực hiện ở việc kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng có liên quan đến đặc điểm quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn , đến mỗi quan hệ giữa người cho vay và người đi vay . Hai chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau và điều có liên quan đến vai trò của tín dụng , bởi vậy trong quá trình thực hiện không được xem nhẹ chức năng nào Vai trò : Góp phần giảm số tiền nhàn rỗi , nâng cao hiểu quả sử dụng vốn , tăng vòng quay của vốn , tiếc kiệm tiền mặt trong lưu thông và khắc phục lạm phát tiền tệ . Thông qua cung cấp vốn cho các doanh nghiệp , tín dụng góp phần tăng qui mô sản xuất , kinh doanh , đổi mới thiết bị , áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ mới , nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm , tạo khả năng khuyến khích đầu tư , vào các công trình lớn , các ngành , lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng đối với quốc kế dân sinh , thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH , HĐH , nâng cao năng lực cạnh tranh , tạo điều kiện chủ động , hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực . Thông qua cho vay vốn tiêu dùng , tín dụng góp phần hỗ trợ vốn cho cư dân cải thiện đời sống . Góp phần thúc đẩy giao lưu tiền tệ giữa nước ta và các nước khác trên thế giới và trong khu vực. Câu 22 : Vì sao trong thời kì quá độ lên CNXH đều tồn tại nhiều hình thức thu nhập ? Trả lời : Xuất phát từ yêu cầu của các qui luật KT khách quan và từ đặc điểm KT – XH nước ta, trong thời kì quá độ lên CNXH ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập. Đó là vì: Thứ 1, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu khác nhau Thứ 2, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau Nền KT nước ta là nền KT thị trường định hướng XHCN. Trong nền KT này, có nhìều chủ thể SXKD thuộc nhiều thành phần KT tham gia. Mỗi thành phần KT có phương thức tổ chức SX, KD khác nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần KTNN cũng có các phương thức KD khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện của nền KT thị trường,các chủ thể SX, KD tham gia vào nền KT đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường, thậm chí khác nhau cả sự may mắn…do đó, khác nhau về thu nhập. Vì vậy, ko thể có 1 hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau. Đảng CSVN đã khẳng định: “…thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả LĐ và hiệu quả KT là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả SXKD và phân phối thông qua quĩ phúc lợi XH…” (trích văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII) Câu 23 : Phân tích nội dung các hình thức phân phối thu nhập cơ bản của nước ta hiện nay ? Trả lời : Trong mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010. Đại biểu đại hội toàn quốc lần 10 nói rõ : “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động , hiệu quả kinh tế , đồng thời theo mức đóng góp vốn , cùng các nguồn lực khác thông qua phúc lợi xã hội” Phân phối theo lao động : là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất hoặc các HTX cổ phần mà phần vốn của các thành viên bằng nhau ở các thành phần kinh tế này người lao động làm chủ tư liệu sản xuất , nên tất yếu cũng làm chủ phân phối thu nhập , vì vậy phân phối phải vì lợi ích của người lao động . Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất vì : Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao , chưa đến mức chưa có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu . Việc phân phối do sản xuất quyết định . Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội của mỗi người để phân phối . Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống , nó còn là phương tiện để kiếm sống , là nghĩa vụ và quyền lợi . Hơn nữa , còn những tàn dư ý thức , tư tưởng của xã hội cũ để lại như thích làm ít hưởng nhiều , ngại lao động , so bì cống hiến và hưởng thụ …Trong những điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm, người giỏi , giáo dục kẻ lười , người xấu , gắn sự hưởng thụ với sự cống hiến . Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của từng người . Như vậy , người làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng . Lao động có kỹ thuật cao , lao động ở những ngành nghề độc hại trong những điều kiện khó khăn đều được hưởng phần thu nhập thích đáng . Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là : Số lượng lao động được đo bằng thời gian lao động hoặc số lượng sp làm ra. Trình độ thành thạo lao động và chất lượng sp làm ra . Điều kiện và môi trường lao động : Lao động nặng nhọc trong hầm mỏ , ở những vùng có nhiều khó khăn như miền núi , hải đảo . Tính chất của lao động : Các ngành nghề cần được khuyến khích . Phân phối theo lao động được thực hiện qua những hình thức cụ thể như : tiền công trong các đơn vị sản xuất kinh doanh , tiền thưởng , tiền phụ cấp , tiền lương trong các cơ quan hành chính . Phân phối theo lao động có tác dụng : Thúc đẩy mọi người nâng cao tình thần trách nhiệm . Nâng cao năng suất lao động , xây dựng tinh thần thái độ lao động đúng đắn cũng cố kỹ luật lao động … Thúc đẩy nâng cao trình độ nghề nghiệp , trình độ văn hóa , ổn định lao động . Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hóa của người lao động , vừa bảo đảm tái sản xuất sức lao động , vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện . Phân phối theo vốn và các nguồn lực khác : Ngoài hình thức phân phối theo lao động , trong thời kì quá độ còn tồn tại các hình thức thu nhập khác như là : Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động . Trong thành phần kinh tế cá thể , tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất , vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất , kinh doanh của chính những người lao động . Trong kinh tế TB tư nhân và TB nhà nước , việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần , sở hữu sức lao động , sở hữu TB … Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội : Để nâng cao mức sống về vật chất , về văn hóa của nhân dân , đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động , sự phân phối thu nhập của thành viên xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội . Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó góp phần : Phát huy tính tích cực lao động , cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội . Nâng cao thêm mức sống toàn dân , đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp , đời sống khó khăn , làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng . Giáo dục ý thức cộng đồng , xây dựng chế độ xã hội mới . Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân phối thu nhập cho các nhân trong cộng đồng . Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau : Không thể mở rộng quá khả năng của nền kinh tế cho phép . Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội . Quỹ phúc lợi xã hội là bộ phận của chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hóa . Nhà nước giữ vai trò nồng cốt , đồng thời động viên mỗi người dân , các doanh nghiệp , các tổ chức trong xã hội , các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia đóng góp . Câu 24 : Các hình thức thu nhập cơ bản của nước ta hiện nay là gì ? Trả lời : Tiền lương, tiền công: - Tiền lương: là hình thức thu nhập tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động và được thực hiện trực tiếp trong Câu 25 : Những biện pháp để từng bước thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập ? Trả lời : Sự nghiệp xây dựng CNXH đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , những biện pháp để từng bước thu hẹp sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập , tiến tới một xã hội : “Không có chế độ người bóc lột người , một xã hội bình đẳng , nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động , ai làm nhiều thì hưởng nhiều , làm ít thì hưởng ít , không làm thì không hưởng”. Để đạt mục tiêu này ta cần phải thực hiện : Thứ nhất : Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất ,bởi như Ănghen phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc vào số lượng sản phẩm được phân phối. Thứ hai : Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công , tiền lương , chống chủ nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý , bất chính. Để từng bước thực hiện phân phối, công bằng hợp lý , cần có chính sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản xuất sức lao động . Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất , chất lượng và hiệu quả sẽ bảo đảm quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề. Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính , cần phải tiền tệ hóa tiền lương và thu nhập , xóa bỏ những đặc quyền đặc lợi trong phân phối . Thứ ba : Điều tiết thu nhập dân cư , hạn chế những chênh lệch quá mức về mức thu nhập . Một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch về thu nhập giữa các tập thể , cá nhân và khách quan … Mặt khác nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không dẫn tới sự phân hóa xã hội thành 2 cực đối lập , bằng cách điều tiết thu nhập và các giải pháp quản lý . Thứ tư : Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo . Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh , nước mạnh mới có khả năng thực hiện công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh . Vì vậy phải nỗ lực làm giàu cho mọi công dân . Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện giúp đỡ bằng nhiều biện pháp. “Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật , đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo” Thực hiện xóa đói giảm nghèo , đền ơn đáp nghĩa , bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo , từ thiện . Để từng bước đạt tới sự tiến bộ về công bằng xã hội trong phân phối thu nhập , xuất phát từ điều kiện cụ thể , nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện trước chương trình xóa đói giảm nghèo , nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng , vùng đồng bào dân tộc thiểu số .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTài liệu ôn thi môn kinh tế chính trị.doc
Tài liệu liên quan