Tài liệu Tài liệu hướng dẫn Học tập giới và phát triển biên soạn - Thái Thị Ngọc Dư: 1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
TS THÁI THỊ NGỌC DƯ
Biên soạn
GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Biên soạn: TS. THÁI THỊ NGỌC DƯ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................. 3
BÀI GIỚI THIỆU ................................................................................ 16
1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔN HỌC ............................... 16
2.MỤC TIÊU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
XONG MÔN NÀY .......................................................................... 17
3. BỐ CỤC CỦA TÀI LIỆU ..................................................... 18
3.1. Về các chương .............................................................................. 18
3.2 Các phần của một bài học (chương). ............................................. 19
4. HƯỚNG DẪN KHÁI QUÁT CÁCH HỌC MÔN HỌC NÀY20
4.1 Số tiết theo c...
214 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu hướng dẫn Học tập giới và phát triển biên soạn - Thái Thị Ngọc Dư, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
TS THÁI THỊ NGỌC DƯ
Biên soạn
GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
Biên soạn: TS. THÁI THỊ NGỌC DƯ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................. 3
BÀI GIỚI THIỆU ................................................................................ 16
1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔN HỌC ............................... 16
2.MỤC TIÊU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
XONG MÔN NÀY .......................................................................... 17
3. BỐ CỤC CỦA TÀI LIỆU ..................................................... 18
3.1. Về các chương .............................................................................. 18
3.2 Các phần của một bài học (chương). ............................................. 19
4. HƯỚNG DẪN KHÁI QUÁT CÁCH HỌC MÔN HỌC NÀY20
4.1 Số tiết theo chương trình ............................................................... 20
4.2 Môn học này có đặc điểm ............................................................ 20
4.3 Các hình thức học trong lớp và tự học sẽ đa dạng. ....................... 20
4.4 Sinh viên có thể tập phân tích. .................................................... 20
4.5 Phụ nữ học / khoa học về giới .................................................... 20
CHƯƠNG I ......................................................................................... 22
TỔNG QUAN VỀ PHỤ NỮ HỌC VÀ KHOA HỌC VỀ GIỚI: QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM, MỤC TIÊU ............................. 22
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG I ..................................... 22
4
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY .............................................................................. 22
1. PNH là một ngành học mới mẻ nhưng phát triển nhanh ....... 22
2. PNH đã có điều kiện phát triển tại các đại học ở Việt Nam .. 22
3. Mục tiêu của PNH và của khoa học về giới ......................... 22
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 22
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN ................................................................ 23
1. Từ phụ nữ học đến giới và phát triển .............................................. 23
2. Sự phát triển của ngành phụ nữ học như là một khoa học .............. 24
3. Một số đặc điểm của phụ nữ học. ................................................... 27
4. Nội dung và mục tiêu của phụ nữ học ............................................. 28
5. Nghiên cứu và đào tạo về giới ở Việt Nam và ở TP.HCM ............. 30
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 37
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ....................... 37
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 37
CHƯƠNG II ........................................................................................ 38
GIỚI TÍNH VÀ GIỚI .......................................................................... 38
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG II ................................... 38
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI
HỌC CHƯƠNG NÀY: .................................................................... 38
5
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ........................................................ 38
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN: .............................................................. 39
1. Giới tính .......................................................................................... 39
2. Giới 39
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 42
1. Phân biệt hai khái niệm cơ bản giới tính sinh học và giới. ............. 42
2. Cần suy nghĩ để ngày càng được thuyết phục rằng những đặc điểm về
giới là có thể thay đổi được. ................................................................ 42
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ .................. 43
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 43
1. Thảo luận nhóm:.............................................................................. 43
2. Hoạt động chung cho cả lớp ............................................................ 45
CHƯƠNG III ....................................................................................... 47
SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG THEO GIỚI .................................... 47
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG III .......................... 47
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI
HỌC CHƯƠNG NÀY: .................................................................... 47
1. Hiểu được nội dung và tính chất của ba loại công việc sản xuất,
tái sản xuất và cộng đồng. ................................................................... 47
2. Sự phân công lao động có thể khác nhau tùy theo bối cảnh văn
hóa, xã hội, tùy theo tầng lớp xã hội và nhận thức của từng gia đình. 47
6
3. Phân biệt được hai khái niệm điều kiện sống và địa vị của phụ
nữ; hiểu được các hoạt động tác động đến điều kiện sống hoặc đến địa
vị của phụ nữ. ...................................................................................... 47
4. Hiểu và sử dụng được công cụ phân tích hoạt động của nam
giới và nữ giới. .................................................................................... 47
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ........................................................ 48
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN: .............................................................. 48
1. Sự phân công lao động theo giới. .................................................... 48
2. Phân loại công việc ......................................................................... 49
3. Vị trí và điều kiện sống của phụ nữ ................................................ 51
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 55
1. Sinh viên cần nắm vững công cụ phân tích. .......................... 55
2. Cần khách quan khi tìm hiểu các hoạt động của nam giới và nữ
giới. Sự phân công lao động có thể khác nhau tùy theo tầng lớp xã hội.55
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ................... 55
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 55
BÀI ĐỌC THÊM ................................................................................ 58
BẤT BÌNH ĐẲNG VỀ GIỚI GIỮA CÁC NHÀ KHOA HỌC.......... 58
CHƯƠNG IV ...................................................................................... 60
NHU CẦU GIỚI ................................................................................. 60
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG IV ................................. 60
7
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY .............................................................................. 60
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 60
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN ............................................................... 60
1. Nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược ....................................... 61
2. Các phương thức đưa nhu cầu chiến lược vào các hoạt động hoặc dự
án 62
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 65
1. Sinh viên cần liên hệ với những kiến thức về phương pháp tiếp
cận theo nhu cầu, những ưu điểm và hạn chế của phương pháp này. . 65
2. Đối với một số nhu cầu, việc phân định nhu cầu thiết thực và nhu
cầu chiến lược chỉ có tính chất tương đối, ví dụ nhu cầu có việc làm vừa là
thiết thực, vừa là chiến lược. ................................................................. 65
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ................... 65
1. Nhu cầu thiết thực thường. .................................................... 65
2. Có thể ứng dụng cách tiếp cận nhu cầu vào các đề tài nghiên
cứu về giới và phát triển để xác định nhu cầu cần đáp ứng nhằm cải
thiện điều kiện sống và nâng cao địa vị của người phụ nữ. ................ 65
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 65
1. Bài tập nhóm. .................................................................................. 65
8
2. Sinh viên xếp loại các loại động theo bao loại: sản xuất (SX), tái sản
xuất (TSX), cộng đồng (CĐ), và các hoạt động ấy đáp ứng nhu cầu thiết
thực (NCTT)hay nhu cầu chiến lược (NCCL) đối với phụ nữ. .......... 65
CHƯƠNG V ........................................................................................ 68
PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN, PHỤ NỮ VÀ PHÁT TRIỂN, GIỚI
VÀ PHÁT TRIỂN ............................................................................... 68
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG V .................................. 68
II.NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY .............................................................................. 68
1. Hiểu được nội dung của quá trình “phụ nữ trong phát triển” và
“giới và phát triển” .............................................................................. 68
2. Liên hệ hai khái niệm này với những quan điểm về phát triển
và về bình đẳng giới. ........................................................................... 68
3. Sự phát triển của khái niệm “giới và phát triển” đã làm phong
phú thêm những hoạt động hướng đến bình đẳng giới. ...................... 68
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 68
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN ................................................................ 68
1. Nguồn gốc của khái niệm phụ nữ trong phát triển .......................... 69
2. Phụ nữ và phát triển (Women and Development – WAD): ............. 73
3. Giới và phát triển (Gender and Development : GAD) .................... 74
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 78
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ................... 78
9
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 79
CHƯƠNG VI ...................................................................................... 80
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ SỰ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN
BIỆT ĐỐI XỬ ĐỐI VỚI PHỤ NỮ VÀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ ..... 80
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG VI ................................. 80
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY .............................................................................. 80
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN ................................................................ 81
1. Thời kỳ Hội Quốc Liên (HQL) : .................................................... 82
2. Phụ nữ trong chương trình nghị sự của LHQ ................................. 82
3. Một số công ước liên quan đến địa vị phụ nữ : .............................. 84
4. Năm Quốc tế phụ nữ (International Women’s Year – IWY -) 1975 và
thập kỷ phụ nữ của LHQ : 1976-1985 ................................................ 85
5. Hội nghị phụ nữ thế giới lần thứ nhất và thập kỷ phụ nữ. .............. 86
6. Công ước quốc tế về sự xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối
với phụ nữ – 1979 còn gọi là Công ước về phụ nữ (Women’s
Convention) ......................................................................................... 88
7. Bảo vệ quyền con người của phụ nữ : chống bạo lực đối với phụ nữ92
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY ...... 96
10
1. Trọng tâm của chương là tìm hiểu nội dung của CEDAW và
đối chiếu những mục tiêu mà CEDAW đề ra với thực trạng của phụ nữ
tại các nước. sinh viên cần đọc văn kiện này ở phần phụ lục. ............ 96
2. Thảo luận nhóm để phân tích các điều của CEDAW là phương
thức học chương này. .......................................................................... 96
3. Sinh viên cần đọc kỹ phần “Lời giới thiệu” của CEDAW, phần
này giúp cho sinh viên hiểu rõ nội dung của CEDAW. ...................... 96
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ .................. 96
1. Điều 1 của công ước CEDAW. ............................................. 96
2. “Phân biệt đối xử với phụ nữ”... ............................................ 97
3. Điều 2 đến điều 16 ................................................................. 97
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ............................................................................................. 97
CHƯƠNG VII ..................................................................................... 98
TĂNG QUYỀN LỰC CHO PHỤ NỮ ................................................ 98
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG VII ................................ 98
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY .............................................................................. 98
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 98
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN ................................................................ 99
1. Khái niệm tăng quyền lực ............................................................... 99
5 cấp độ tăng quyền lực cho phụ nữ: ................................................ 100
11
3.Tiếp cận, sử dụng và kiểm soát các nguồn tài nguyên và phúc lợi.102
4. Tham gia : ...................................................................................... 103
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY .... 109
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ................. 110
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ........................................................................................... 110
CHƯƠNG VIII .................................................................................. 113
PHÂN TÍCH GIỚI ............................................................................ 113
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG VIII ............................ 113
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI
HỌC CHƯƠNG NÀY ................................................................... 113
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 113
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN .............................................................. 113
1. Phân tích giới................................................................................. 113
2. Các khái niệm sử dụng trong phân tích giới : ............................... 115
3. Sơ đồ phân tích giới Havard.......................................................... 115
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY .... 118
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ ................. 118
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO LUẬN
NHÓM ........................................................................................... 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 121
12
PHỤ LỤC 1 ....................................................................................... 123
CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
VỚI PHỤ NỮ .................................................................................... 123
CONVENTION ON THE ELIMINATION OF ALL FORMS OF
DISCRIMINATION AGAINST WOMEN ...................................... 123
LỜI GIỚI THIỆU *** ....................................................................... 124
CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
VỚI PHỤ NỮ ***** ......................................................................... 130
* NHỮNG QUỐC GIA THAM GIA CÔNG ƯỚC NÀY:............ 130
* NHẤT TRÍ NHƯ SAU .............................................................. 133
ĐIỀU 1: .......................................................................................... 133
ĐIỀU 2: .......................................................................................... 133
ĐIỀU 3: .......................................................................................... 134
ĐIỀU 4: .......................................................................................... 134
ĐIỀU 5: .......................................................................................... 135
ĐIỀU 6: .......................................................................................... 135
ĐIỀU 7: .......................................................................................... 136
ĐIỀU 8: .......................................................................................... 136
ĐIỀU 9: .......................................................................................... 136
ĐIỀU 10: ........................................................................................ 137
ĐIỀU 11: ........................................................................................ 138
13
ĐIỀU 12: ........................................................................................ 140
ĐIỀU 13: ........................................................................................ 141
ĐIỀU 14: ........................................................................................ 141
ĐIỀU 15: ........................................................................................ 142
ĐIỀU 16: ........................................................................................ 143
ĐIỀU 17: ........................................................................................ 144
ĐIỀU 18: ........................................................................................ 146
ĐIỀU 19: ........................................................................................ 147
ĐIỀU 20: ........................................................................................ 147
ĐIỀU 21: ........................................................................................ 147
ĐIỀU 22: ........................................................................................ 148
ĐIỀU 23: ........................................................................................ 148
ĐIỀU 24: ........................................................................................ 148
ĐIỀU 25: ........................................................................................ 148
ĐIỀU 26: ........................................................................................ 149
ĐIỀU 27: ........................................................................................ 149
ĐIỀU 28: ........................................................................................ 150
ĐIỀU 29: ........................................................................................ 150
ĐIỀU 30: ........................................................................................ 151
PHỤ LỤC 2 ....................................................................................... 153
14
CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VÌ SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ VIỆT
NAM TỚI NĂM 2000....................................................................... 153
A. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT. ....................... 154
B. MỤC TIÊU CỤ THỂ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẾN NĂM 2000155
C. TỔ CHỨC THỰC HIỆN .......................................................... 167
PHỤ LỤC 3 ....................................................................................... 169
HỘI NGHỊ THẾ GIỚI LẦN THỨ IV VỀ PHỤ NỮ ........................ 169
4-15/09/1995 Bắc Kinh – Trung Quốc .............................................. 169
1. SỰ ĐÓI NGHÈO ....................................................................... 170
2. GIÁO DỤC ................................................................................ 172
3. SỨC KHỎE ............................................................................... 174
4. BẠO LỰC .................................................................................. 175
5. CÁC CUỘC XUNG ĐỘT CHIẾN TRANH VÀ CÁC HÌNH
THỨC XUNG ĐỘT KHÁC .......................................................... 178
6. SỰ THAM GIA KINH TẾ ........................................................ 179
7. CHIA SẺ QUYỀN LỰC VÀ RA QUYẾT ĐỊNH .................... 181
8. BỘ MÁY QUỐC GIA, QUỐC TẾ ............................................ 182
9. NHÂN QUYỀN ......................................................................... 184
10. PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG ............... 185
11. MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN ......................................... 186
12. EM GÁI ................................................................................... 188
15
PHỤ LỤC 4 ....................................................................................... 191
ỦY BAN QUỐC GIA VÌ SỰ TIẾN BỘ CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM
........................................................................................................... 191
BỘ CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM ĐƯỢC TÁCH BIỆT THEO
GIỚI TÍNH ........................................................................................ 191
LỜI GIỚI THIỆU .............................................................................. 192
FOREWORD .................................................................................... 194
NHỮNG SỐ LIỆU / CHỈ SỐ CHUNG ĐỂ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN .................................................................................... 195
NGUỒN SỬ DỤNG / REFERENCES ............................................. 206
PHỤ LỤC 5 ....................................................................................... 208
TÓM LƯỢC VĂN KIỆN HỘI NGHỊ BẮC KINH + 5 .................... 208
16
BÀI GIỚI THIỆU
Chào mừng các bạn đến với chương trình đào tạo
từ xa của Đại học Mở Bán công Thành phố Hồ
Chí Minh.
1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MÔN HỌC
Môn “Giới và phát triển” là một môn học nhập môn của
ngành phụ nữ học hay khoa học về giới, có mục đích giới thiệu
những khái niệm cơ bản về giới, làm nền tảng cho các môn học
chuyên ngành hay chuyên sâu hơn của ngành mà sinh viên có dịp
tiếp cận trong những năm học tiếp theo.
Môn học này có nội dung tương đương với môn “Xã hội học
về giới” trong chương trình khung của ngành Xã hội học do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành. Tên gọi “Giới và phát triển” muốn
nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa những hiểu biết về giới và các
chiến lược phát triển vốn là mối quan tâm của của ngành xã hội
học và các ngành khoa học xã hội khác. Thật vậy, các nhà khoa
học xã hội, dù làm công tác thực tế hay nghiên cứu lý thuyết, đều
thống nhất quan điểm cho rằng giới là một vấn đề của phát triển,
rằng không có chiến lược phát triển nào mà không đề cập đến vấn
đề giới và bình đẳng giới. Quan điểm này lại càng quan trọng trong
các chiến lược phát triển của các nước đang phát triển.
17
2. MỤC TIÊU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
XONG MÔN NÀY
Những mục tiêu cần đạt được sau khi học môn Giới và
phát triển:
• Thu thập được những kiến thức về tình trạng thiệt thòi, lệ
thuộc của giới nữ đã và đang tồn tại dai dẳng tại nhiều nước,
nhiều vùng trên thế giới, mà Việt Nam không là ngoại lệ. Có kiến
thức về những khái niệm cơ bản của khoa học về giới như sự khác
biệt giữa giới tính sinh học và giới xã hội, phân công lao động
theo giới và hai gánh nặng của nữ giới, nhu cầu giới, phụ nữ trong
phát triển, giới và phát triển, tăng quyền lực cho phụ nữ.
• Nhận thức được rằng những định kiến về vị trí, vai trò của
nữ giới và nam giới, những phân biệt đối xử đối với nữ giới gây
trở ngại cho sự phát triển một xã hội công bằng, hòa bình và phát
triển. Nhận thức rằng quyền của phụ nữ và của trẻ em gái là một
phần không thể tách rời của quyền con người, rằng bình đẳng giới
đem lại lợi ích không những cho nữ giới mà cho cả nam giới,
nghĩa là cho toàn xã hội.
• Bước đầu đạt được những kỹ năng phân tích và khảo sát về
giới.
• Có kiến thức về các cơ sở pháp lý và cơ sở xã hội cho việc
xây dựng các chiến lược tiến đến bình đẳng giới: tìm hiểu hai văn
kiện quan trọng là Công ước Liên Hiệp Quốc về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ (CEDAW), và 12 lãnh vực
quan tâm và chương trình hành động của hội nghị thế giới về phụ
18
nữ ở Bắc Kinh năm 1995.
3. BỐ CỤC CỦA TÀI LIỆU
Tài liệu bao gồm 8 chương và 5 phụ lục.
3.1. Về các chương
Chương I trình bày quá trình phát triển của phụ nữ học và khoa
học về giới như một môn học rồi trở thành một ngành học ở bậc đại học
và trên đại học tại nhiều nước trên thế giới. Mục tiêu, đặc điểm của
ngành học, sự phát triển của đào tạo và nghiên cứu về giới tại Việt Nam
được đề cập trong chương này.
Các chương II, III, IV trình bày những khái niệm căn bản của khoa
học về giới, đó là giới tính, giới, vai trò rập khuôn của nam giới và nữ
giới và ảnh hưởng của giáo dục gia đình, của mô hình văn hóa của xã
hội, phân công lao động theo giới và gánh nặng công việc của phụ nữ,
các loại nhu cầu của nữ giới.
Chương V đề cập đến sự phát triển của hai khái niệm có tính chất
lý thuyết, nêu lên mối liên hệ giữa phụ nữ, giới và các mô hình phát
triển, đó là phụ nữ trong phát triển (WID) và giới và phát triển (GAD).
Các nghiên cứu và chương trình hành động đã chuyển từ trọng tâm chỉ
chú ý đến phụ nữ trong thập niên 60, 70 đến trọng tâm cải thiện mối
quan hệ giữa giới nam và giới nữ trong mối liên hệ với các chiến lược
phát triển toàn diện hơn kể từ thập niên 80 của thế kỷ 20.
Công ước CEDAW, một văn kiện quốc tế quan trọng cho mọi
nghiên cứu và hành động hướng đến bình đẳng giới được trình bày và
phân tích trong chương VI.
Chương VII giới thiệu một khái niệm thường được sử dụng trong
19
nghiên cứu phát triển, đó là “tăng quyền lực cho phụ nữ”. Định nghĩa,
nội dung 5 cấp độ tăng quyền lực cũng như khái niệm tham gia, các hình
thức của tham gia được trình bày trong chương này.
Sơ đồ phân tích giới được trình bày khái quát trong chương 8, giúp
sinh viên bước đầu làm quen với một công cụ khảo sát giới có hiệu quả.
Tất nhiên, sinh viên còn cần bổ sung bằng những kỹ thuật phân tích và
khảo sát mà sinh viên sẽ được tiếp cận trong những môn học tiếp theo
trong lãnh vực giới và xã hội học.
3.2 Các phần của một bài học (chương).
Mỗi bài học được tổ chức theo một khung thống nhất, bao gồm các
phần sau:
I. Giới thiệu khái quát chương
II. Những điều sinh viên cần đạt được sau khi học
chương này
III. Tài liệu tham khảo
IV. Nội dung cơ bản
V. Một số điểm cần lưu ý khi học chương này
VI. Tóm lược những vấn đề cần ghi nhớ
VII. Câu hỏi để sinh viên tự trả lời hoặc thảo luận nhóm
20
4. HƯỚNG DẪN KHÁI QUÁT CÁCH HỌC MÔN HỌC NÀY
4.1 Số tiết theo chương trình: 45 tiết (3 tín chỉ)
4.2 Môn học này có đặc điểm là chú trọng nhiều đến các yếu tố
nâng cao nhận thức của sinh viên. Điều quan trọng là sinh viên cần
căn cứ vào những tài liệu đọc được để lập luận, suy nghĩ để ngày
càng hiểu rõ và xác tín về hai luận điểm ban đầu:
Những mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới do các xã hội
tạo nên chứa đựng những định kiến và nữ giới thường bị rơi vào
tình trạng lệ thuộc, có địa vị thấp kém so với nam giới.
Bình đẳng giới là một bộ phận của lý tưởng công bằng xã
hội, không phân biệt đối xử nói chung. Cải thiện mối quan hệ nam
giới – nữ giới để tiến đến bình đẳng giới là một trong những điều
kiện cần thiết của phát triển.
Từ những nhận thức nêu trên, sinh viên sẽ tiếp nhận những nội
dung khác một cách thuận lợi.
4.3 Các hình thức học trong lớp và tự học sẽ đa dạng: nghe
giảng bài, đọc tài liệu theo sự hướng dẫn của giảng viên, thảo luận
nhóm, thuyết trình, làm bài tập ở nhà.
4.4 Sinh viên có thể tập phân tích các sự việc mà mình quan sát
được, đọc, nghe được qua báo chí và các kênh truyền thông khác
qua “lăng kính giới” và xét xem cách tiếp cận ấy có giúp cho sinh
viên nhìn nhận các sự việc một cách phong phú, đa dạng hơn
không.
4.5 Phụ nữ học / khoa học về giới là một khoa học còn mới, còn
trẻ, không phái tất cả các vấn đề đặt ra đều đã có lời giải về mặt lý
21
thuyết cũng như thực hành. Đó là một mảnh đất cần được tiếp tục
khai phá. Nếu sinh viên có nhiều thắc mắc, nhiều câu hỏi, điều ấy ắt
cũng tất nhiên thôi. Dù sao, những phát hiện và những điều mà các
nhà khoa học đã khẳng định được cũng còn quá nhiều cho chúng ta
tìm hiểu, những mục tiêu tổng quát “bình đẳng giới, hòa bình, phát
triển” là lý do tồn tại, là lẽ sống của khoa học về giới hoàn toàn có
cơ sở để chúng ta chiêm nghiệm, học hỏi và nghiên cứu để góp
phần thúc đẩy sự tiến bộ của văn hóa, học thuật.
22
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ PHỤ NỮ HỌC VÀ
KHOA HỌC VỀ GIỚI: QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN, ĐẶC ĐIỂM, MỤC TIÊU
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG I
Chương I giới thiệu quá trình phát triển của ngành phụ nữ
học (PNH) và khoa học về giới ở các đại học và trung tâm nghiên
cứu trên thế giới và ở Việt Nam, sự thừa nhận tính chất khoa học
của ngành này, mục tiêu và đặc điểm của ngành học.
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY
1. PNH là một ngành học mới mẻ nhưng phát triển nhanh
2. PNH đã có điều kiện phát triển tại các đại học ở Việt Nam
3. Mục tiêu của PNH và của khoa học về giới là tìm hiểu tình
trạng bất bình đẳng giới, những thiệt thòi của phụ nữ, những
phương hướng thực hiện bình đẳng giới tại các nước, các vùng
khác nhau trên thế giới.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
– TRẦN THỊ VÂN ANH, LÊ NGỌC HÙNG, Phụ nữ, giới
và phát triển, NXB Phụ nữ, 1996, chương 1, tr. 15 – 64.
23
– Phụ lục 2: Chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam tới năm 2000. Nhà xuất bản Phụ nữ, Hồ Chủ Tịch với
vấn đề giải phóng phụ nữ, 1976.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN
1. Từ phụ nữ học đến giới và phát triển
Ngày nay, trong nghiên cứu và giảng dạy về các mối quan hệ xã
hội giữa nam giới và nữ giới, về các vấn đề bất bình đẳng giữa nam giới
và nữ giới, thuật ngữ giới, bình đẳng giới, giới, giới và phát triển ngày
càng được dùng thay cho các thuật ngữ phụ nữ học, giải phóng phụ nữ,
bình đẳng nam -nữ. Có thể nói nghiên cứu về giới là một giai đoạn phát
triển mới của phụ nữ học, do đó giới không tách rời phụ nữ học. Nội
dung nghiên cứu vẫn chú trọng đến tình trạng thiệt thòi của phụ nữ và
các chiến lược tiến đến xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, nhưng
cách tiếp cận có thay đổi. Thay vì chỉ chú trọng đến phụ nữ, khoa học về
giới chú trọng đến phụ nữ trong mối quan hệ giữa nữ giới và nam giới.
Có nghĩa là các vấn đề bình đẳng nam-nữ, phát triển, xóa bỏ phân biệt
đối xử đối với phụ nữ liên quan đến cả nữ giới lẫn nam giới. Cải tiến
mối quan hệ nữ giới – nam giới là trọng tâm của khoa học về giới.
Như vậy, ngày nay, hai thuật ngữ phụ nữ học và giới đều đang
được giới nghiên cứu và giảng dạy sử dụng để nói về những nội dung
nghiên cứu tương tự liên quan đến tình trạng thiết thòi của phụ nữ và
các vấn đề bình đẳng giới. Một điều cần lưu ý là không nên xem các các
vấn đề giới là những vấn đề riêng của phụ nữ. Cách nhìn và cách hiểu
này vẫn còn tồn tại ở nhiều người. Theo nhãn quan của họ, phụ nữ hay
giới cũng đều là những vấn đề riêng của phụ nữ, không liên quan đến
nam giới. Cần nêu rõ đây là một cách nhìn không đúng với quan điểm
của khoa học về giới.
24
Lịch sử phát triển của khoa học về giới khởi đi từ phụ nữ học, do
đó, các phần tiếp theo sẽ trình bày về sự phát triển của phụ nữ học.
2. Sự phát triển của ngành phụ nữ học như là một
khoa học
Từ nửa sau thập niên 1960, bắt đầu xuất hiện những bài giảng về
nữ quyền ở các trường đại học. Năm 1970, thuật ngữ phụ nữ học (PNH)
được dùng lần đầu tiên cho những giáo trình để chỉ những giáo trình
này. Ở Mỹ, dù bị chống đối mạnh mẽ, phụ nữ học đã phát triển nhanh
chóng:
Số giáo trình tăng lên nhiều. Phụ nữ học trở thành chương trình
đào tạo ở bậc cử nhân và sau đại học. Số người tham gia nghiên cứu về
nữ quyền gia tăng mạnh mẽ.
Ở Pháp, trước thập niên 1990, các chương trình và các cấp bằng
về phụ nữ học thường không được đa số giảng viên/ giáo sư đại học
chấp nhận. Gần đây, người ta nhận thấy ngày càng có nhiều môn học
trong một số ngành có kết hợp/lồng ghép yếu tố giới
Trong lúc các trung tâm nghiên cứu phụ nữ hiện hữu ở các đại học
Lyon 11, Paris 7, Paris 8, Rennes, Toulouse 2 tiếp tục thu hút sinh viên
theo học các môn phụ nữ học, thì các nhóm/ trung tâm nghiên cứu mới
về PNH ở Nantes, Lille, đã trở nên rất tích cự trong giảng dạy và giảng
dạy về phụ nữ học. Các trung tâm này tổ chức thường xuyên các cuộc
hội thảo, phối hợp các chương trình đào tạo, hướng dẫn luận án tiến sĩ
và cao học, cung cấp tư liệu cho sinh viên. Các trung tâm PNH này mở
rộng phạm vi hoạt động, hợp tác với các tổ chức ngoài đại học, tìm
nguồn kinh phí hỗ trợ ở các tổ chức chính phủ và phi chính phủ. Các
chương trình cao học về PNH dần dần được thừa nhận ở các đại học
25
Pháp trong thập niên 1990.
Như vậy, phụ nữ học là một khoa học mới mẻ nhưng phát triển rất
nhanh chóng tại hầu hết các ác đại học trên thế giới.
Điểm khác biệt với các ngành khoa học xã hội truyền thống khác
là những nghiên cứu về phụ nữ xuất phát trước tiên từ những phong trào
chính trị, xã hội ở ngoài các trường đại học.
Điểm phân biệt những người nghiên cứu về phụ nữ với các
chuyên gia trong các khoa học truyền thống là họ hướng tới một phong
trào góp phần cải tiến xã hội.
Các hội nghị quốc tế về phụ nữ đã có ảnh hưởng sâu rộng đến các
nghiên cứu về phụ nữ. Đã có các hội nghị quốc tế về phụ nữ vào các
năm:
– 1975: Mexico (Mexico)
– 1980: Copenhagen (Đan Mạch)
– 1985: Nairobi (Kenya)
– 1995: Bắc Kinh (Trung Quốc)
– 2000: Bắc Kinh +5 tại New York (Mỹ) tại phiên họp đặc
biệt thứ 23 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ).
– 2005: Bắc Kinh + 10 tại New York (Mỹ) tại phiên họp
đặc biệt thứ 49 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ).
Sau hội nghị Mexico, Liên Hiệp Quốc đã đề ra thập kỷ phụ nữ từ
1976 đến 1985.
Sau hội nghị ở Copenhagen, một mạng lưới các nhà nghiên cứu
26
về PNH được thiết lập, mạng lưới này hoạt động hữu hiệu trong năm
năm từ 1980 đến 1985. Hội nghị Nairobi năm 1985 có số người tham dự
đông gấp bốn lần hội nghị Copenhagen, có nhiều đoàn từ các nước đang
phát triển. Hội nghị Nairobi đánh giá những kết quả đạt được trong thập
kỷ phụ nữ, và đề ra chiến lược “BÌNH ĐẲNG, PHÁT TRIỂN, HÒA
BÌNH”. Tại diễn đàn của các tổ chức phi chính phủ tại hội nghị quốc tế
về phụ nữ ở Bắc Kinh, đã có khoảng 30.000 người tham dự. Hội nghị
đánh giá việc thực hiện chiến lược đã đề ra ở Nairobi. Dưới khẩu hiệu
“Nhìn thế giới qua mắt người phụ nữ”, nhiều chủ đề của hội nghị cho
thấy sự gắn kết của phụ nữ vào những vấn đề chung của thế giới như
toàn cầu hóa, chiến tranh và hòa bình, phát triển, môi trường.
Hội nghị Bắc Kinh +5 về phụ nữ diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10
tháng 6 năm 2000 trụ sở Liên Hiệp Quốc, New York (Mỹ).
Khóa họp đặc biệt lần thứ 23 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
có chủ đề: “Phụ nữ năm 2000: Bình đẳng giới, Phát triển và Hòa bình
cho thế kỷ 21” (gọi tắt là Bắc Kinh +5).
Năm 1995, Hội nghị Thế giới lần thứ 4 về Phụ nữ diễn ra tại Bắc
Kinh (Trung Quốc) đã thông qua Tuyên bố Bắc Kinh và Cương lĩnh
Hành động toàn cầu vì sự tiến bộ của phụ nữ (CLHĐ). Sau 5 năm triển
khai thực hiện, LHQ quyết định triệu tập Khóa họp đặc biệt này nhằm
mục đích đánh giá tình hình thực hiện CLHĐ và xác định các sáng kiến
và hành động tiếp theo để đạt được bình đẳng giới cho Thế kỷ 21.
Đây là lần đầu tiên có Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng LHQ
về phụ nữ. Hội nghị được triệu tập để tạo cơ hội cho các Chính phủ một
lần nữa khẳng định cam kết thực hiện đầy đủ các mục tiêu của CLHĐ.
Tham gia Hội nghị có đại biểu của 189 quốc gia thành viên, đại
27
diện các cơ quan LHQ và các cơ chế quốc tế, khu vực, các tổ chức phi
chính phủ. Tổng cộng có khoảng 1 vạn đại biểu, trong đó có 6 Phó Tổng
thống, 1 Thủ tướng, 6 Phó Thủ tướng, 99 Bộ trưởng hoặc tương đương,
64 Thứ trưởng hoặc tương đương.
3. Một số đặc điểm của phụ nữ học.
Từ hàng bao thế kỷ, phụ nữ đã là một đối tượng nghiên cứu, vậy
phụ nữ học ngày nay có gì khác? Theo Sheila Ruth, những công trình
nghiên cứu phụ nữ trước đây thường có quan điểm:
– Phụ nữ thường được nhìn vào, ít khi phụ nữ có được cái
nhìn riêng về mình.
– Phụ nữ được nghiên cứu trong một phần nào đó của công
trình như là một phần phụ thuộc.
– Có những quan điểm “ghét phụ nữ”. Thành kiến đối với
phụ nữ dần dần trở thành một lý thuyết khoa học và được chấp
nhận.
Theo một số nhà khoa học, nếu các nghiên cứu về phụ nữ không
xuất phát từ quan điểm xem phụ nữ là một tầng lớp bị áp bức thì không
thuộc phạm vi nghiên cứu phụ nữ học hiện đại. Một số khác đề nghị
cách tiếp cận trung dung hơn, không nhất thiết phải có thiên kiến về tình
trạng bị lệ thuộc của phụ nữ.
Tính chất liên ngành của phụ nữ học.
Tiếp cận liên ngành là điều không thể thiếu trong khi nghiên cứu
phụ nữ học. PNH có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành khoa học xã hội
khác như xã hội học, tâm lý học, dân tộc học, luật, lịch sử, y học, môi
trường. Trong khi nghiên cứu, PNH chú ý các điểm tương đồng và dị
28
biệt giữa nam và nữ giới.
Nghiên cứu các vấn đề xã hội với quan điểm tiếp cận giới sẽ làm
thay đổi cách nhìn nhận vấn đề cũng như các đề nghị về giải pháp.
Xuất phát từ các phong trào giải phóng phụ nữ, đấu tranh cho nữ
quyền nên PNH có tính mục đích, tính ứng dụng rất cao. Đây là một
lãnh vực nghiên cứu liên kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa
nhà nghiên cứu và những người tham gia phong trào, xây dựng dự án.
4. Nội dung và mục tiêu của phụ nữ học
Phụ nữ học là một khoa học mới lại phát triển nhanh, nên chưa có
một định nghĩa được đại đa số chấp nhận.
Theo Bách khoa Tự điển Wikipedia, PNH là một khoa học liên
ngành nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phụ nữ, nữ quyền, giới và
chính trị. PNH thường bao gồm lý thuyết về nữ quyền, lịch sử phụ nữ,
lịch sử xã hội, văn học phụ nữ, sức khỏe phụ nữ, nghiên cứu về giới.
Vào cuối thập niên 1960, PNH được thiết lập như là một ngành
học riêng biệt, đó là lúc làn sóng thứ hai của nữ quyền đã đạt được
những thắng lợi trong giới khoa học nhờ những hoạt động tích cực của
giảng viên và sinh viên.
Ruth quan niệm rằng PNH là một tiến trình, một mảnh đất mới
được khai phá. Một số nhà nghiên cứu Úc cho rằng lúc đầu PNH gắn
với phong trào giải phóng phụ nữ, tiến đến xóa bỏ những bất bình đẳng
về giới và giải phóng phụ nữ. Gần đây, những người sáng lập Hội Quốc
gia nghiên cứu về phụ nữ ở Úc cho rằng PNH là một chiến lược giáo
dục nhằm tiến đến những đổi mới trong xã hội. Lý do là vì xã hội mà ta
đang sống còn phân biệt giới tính, người phụ nữ còn bị hạ thấp phẩm
giá, bị lệ thuộc và bị ngược đãi.
29
Các mục tiêu của phụ nữ học:
– Phân tích tính thống trị của các quan điểm của nam giới
trong kiến thức lịch sử, tạo ra những kiến thức mới và những giá
trị mới thông qua việc nghiên cứu tích cực kinh nghiệm của phụ
nữ.
– PNH nhằm đạt đến sự thay đổi ý thức của phụ nữ về chính
người phụ nữ: hình ảnh, tư cách, quyền lợi, vị trí, sự tham gia của
người phụ nữ trong thế giới.
– Thay đổi những ước vọng của phụ nữ dựa trên cơ sở ý thức
đã được thay đổi, lòng tự tin đã được củng cố, từ đó người phụ nữ
có những lựa chọn mới cho mình và cho xã hội.
– Cải thiện những quan hệ giữa nam và nữ giới, tiến tới quan
hệ hợp tác, tôn trọng lẫn nhau.
– Gây ý thức ở mọi tầng lớp, nam cũng như nữ, về những giá
trị của cuộc sống: lòng nhân ái, công bằng xã hội, chất lượng cuộc
sống.
– Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
– Chấm dứt cuộc chạy đua đến sự phá hủy hành tinh, tăng
cường bảo vệ môi trường.
– Đấu tranh cho hòa bình của thế giới.
Về tình trạng lệ thuộc của phụ nữ:
Một thực tế kéo dài trong lịch sử và ở khắp nơi trên thế giới là
phụ nữ có địa vị thấp kém hơn nam giới trong gia đình cũng như ngoài
xã hội, phụ nữ bị áp bức, bị đối xử không bình đẳng.
30
Mặc dù phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, vào công
cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, nhưng rất ít tài liệu viết về lịch sử của
phụ nữ, cho nên ngay chính người phụ nữ cũng không hiểu rõ bản sắc
của chính mình. Điểm qua lịch sử, ta thấy phụ nữ bị tước mất các
phương tiện để tự nhận thức về mình. Vì vậy, phụ nữ thường có xu
hướng tin vào những hình ảnh huyền thoại về mình, hình ảnh do nam
giới vẽ ra, ngay cả khi hình ảnh đó xung đột với thực tại. Phụ nữ bị ngăn
cản nên không thể nhận biết về mình. Phụ nữ được dạy rằng chỉ cần biết
người khác nhìn về mình như thế nào là đủ cho sự tồn tại của phụ nữ rồi.
5. Nghiên cứu và đào tạo về giới ở Việt Nam và ở TP.HCM
5.1 Từ nghiên cứu phụ nữ đến nghiên cứu về giới, mối quan tâm
ngày càng gia tăng trong thập niên 1990.
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về phụ nữ đã được tiến hành
tương đối sớm. GS. Lê thị Nhâm Tuyết đã cho xuất bản quyển sách
“Truyền thống phụ nữ Việt Nam” ngay từ những năm 1960, và sách này
đã được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Anh. Tuy nhiên, phải đợi đến thập
niên 1980 nghiên cứu PNH mới thật sự có vị trí trong giới khoa học với
việc thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ do Giáo sư Lê
Thi làm giám đốc. Cũng trong thời gian này, Trung tâm nghiên cứu về
Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển (CGFED) được thành lập
do Giáo sư Lê thị Nhâm Tuyết làm giám đốc. Điểm đáng lưu ý là
CGFED là một cơ quan nghiên cứu mang tính chất phi chính phủ, tự
hạch toán, không có kinh phí của nhà nước.
Có thể nói rằng tại Việt Nam cũng như tại TP.HCM, cho đến thập
niên 80, nghiên cứu phụ nữ học như là một hoạt động khoa học hãy còn
xa lạ đối với nhiều người. Lúc ấy, nói đến phụ nữ, người ta dễ dàng liên
tưởng đến Hội Liên Hiệp Phụ Nữ như là một phong trào chính trị xã hội,
31
hoạt động dưới khẩu hiệu giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền.
5.1.1 Đầu thập niên 90, các cơ quan nghiên cứu về phụ nữ và các tổ
chức hoạt động của phụ nữ và vì phụ nữ tại TP.HCM còn rất hiếm
hoi. Chỉ có:
– Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ Nữ thuộc Viện
Khoa học Xã hội TP.HCM, sau đó đổi tên là Trung tâm Nghiên
cứu Khoa học về Phụ nữ và Gia đình và nay là Trung tâm Nghiên
cứu về Giới và Phát triển. Các chủ đề nghiên cứu của Trung tâm
chú trọng đến việc phân tích địa vị, vai trò của người phụ nữ trong
gia đình và trong xã hội, phụ nữ và hạnh phúc gia đình, tình trạng
học vấn của phụ nữ
– Hội Liên Hiệp Phụ Nữ chú trọng đến các hoạt động xã hội,
nhằm vận động phụ nữ tham gia thực hiện các chủ trương chính
sách của nhà nước. Các hoạt động vì phụ nữ của hội thường ở
mức độ đem lại phúc lợi cho phụ nữ, đặc biệt là trong lãnh vực
chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
Kế hoạch hóa gia đình là công việc của ngành y tế, phụ nữ là đối
tượng vận động chủ yếu, các phương thức còn nặng về mệnh lệnh và
nhẹ về nâng cao nhận thức, hiểu biết và tính tự nguyện.
– Một ít nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội có đề cập đến
vai trò của phụ nữ như là một tác nhân phát triển nhưng những
kiến thức ấy rất hạn chế trong một số ít người, chưa đủ sâu rộng
để tạo thành một trào lưu nhận thức trong giới nghiên cứu.
5.1.2 Tuy đã có hội nghị Nairobi về phụ nữ năm 1985 với chiến
lược bình đẳng, phát triển, hòa bình, nhưng những thông tin về các
xu hướng mới này còn ít và gián đoạn. Cho đến những năm cuối
32
của thập kỷ 80, Việt Nam mới mở cửa chưa lâu, do đó các nguồn
thông tin, trao đổi với giới nghiên cứu và với các nhà hoạt động nữ
quyền trên thế giới còn rất thưa thớt.
Có thể nói rằng tại TP.HCM, cho đến đầu thập niên 90, các khái
niệm về giới, tiếp cận các vấn đề theo quan điểm giới chưa được những
người nghiên cứu về phụ nữ biết đến. Điều thuận lợi là Nhà nước Việt
Nam có chính sách giải phóng phụ nữ, chủ trương bình đẳng nam nữ,
nhờ vậy những nghiên cứu về phụ nữ cũng được phát triển theo hướng
“tăng quyền lực cho phụ nữ”, như ngôn ngữ chúng ta dùng ngày nay.
Các chủ đề phụ nữ trong khoa học kỹ thuật, phụ nữ tham gia sản xuất,
đề xuất các chính sách hỗ trợ lao động nữ thường được đề cập đến.
Tuy nhiên, xu hướng nghiên cứu là chú ý khai thác những ưu thế, nêu
gương phụ nữ vượt khó khăn để thành công, hơn là chú ý nghiên cứu
những vấn đề, những cản trở đối với người phụ nữ trên con đường tiến
đến bình đẳng giới.
5.2 Tác động của các phong trào, hội nghị thế giới và của bối cảnh
kinh tế xã hội mới đối với phát triển nghiên cứu về giới trong thập
niên 90.
Các hội nghị thế giới có tác động mạnh mẽ nhất đến sự
phát triển nghiên cứu về giới là hội nghị thế giới về dân số và phát
triển Cairo năm 1994 và nhất là hội nghị thế giới về phụ nữ lần
thứ tư ở Bắc Kinh năm 1995. Lần đầu tiên phụ nữ Việt Nam có
được một đoàn đại biểu đông đảo đến gần 150 người, với thành
phần rất đa dạng, bao gồm nhiều người trong các lãnh vực hoạt
động khác nhau. Phụ nữ TP.HCM cũng có dịp tham gia đông đảo
vào sự kiện này.
Từ sau hai hội nghị ấy, những khái niệm, thuật ngữ liên quan đến
33
khoa học về giới đã trở nên quen thuộc hơn. Truyền thông, báo chí đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc quảng bá những kiến thức này.
• Cách tiếp cận nghiên cứu sức khỏe từ góc độ khoa
học xã hội, sức khỏe cộng đồng đã được hiểu và được chú ý
phát triển.
• Các khái niệm sức khỏe sinh sản, quyền của phụ nữ
trong việc lựa chọn số con và khoảng cách giữa các lần sinh
được phổ biến rộng rãi hơn nhờ các chương trình huấn luyện và
truyền thông về dân số.
Sự tham gia của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính
phủ vào các chương trình phát triển đã góp phần phổ biến những
cách tiếp cận mới các vấn đề phát triển, trong đó vai trò của phụ
nữ như là chủ thể phát triển luôn được nhấn mạnh. Nhiều lớp
huấn luyện được tổ chức tại các địa phương, nhiều kinh nghiệm
tăng cường sự tự chủ về kinh tế và quyền lực của phụ nữ đã được
chuyển giao.
Sau một thời gian mở cửa, sự giao lưu, trao đổi giữa
những nhà nghiên cứu Việt Nam và cộng đồng khoa học vùng
Đông Nam Á và thế giới được tăng cường. Các nhà nghiên cứu
trẻ tuổi bắt đầu có điều kiện theo học các chương trình chính quy
về phụ nữ học và về giới ở nước ngoài.
Trong bối cảnh kinh tế chuyển đổi, nhiều vấn đề liên quan
đến sức khỏe phụ nữ bộc lộ rõ hơn, và có những vấn đề vừa
nghiêm trọng vừa cấp bách như tình trạng phá thai của lứa tuổi vị
thành niên, nhiễm HIV/AIDS, nạn mãi dâm, buôn bán phụ nữ và
trẻ em. Tình trạng này đòi hỏi những người hữu quan, các nhà
34
nghiên cứu và hoạt động xã hội chú trọng tìm hiểu hơn nữa sức
khỏe sinh sản, những tập tục xã hội có hại cho sức khỏe phụ nữ,
các mối quan hệ giới hầu tìm những giải pháp lâu dài cho việc cải
thiện sức khỏe phụ nữ. Chính trong khi đi tìm nguyên nhân, các
nhà nghiên cứu nhận ra rằng bạo hành phụ nữ tồn tại trong xã hội
dưới nhiều hình thức và đã có tác động nguy hại đến sức khỏe
sinh sản, và sâu xa hơn nữa là xâm phạm đến quyền con người
của phụ nữ và trẻ em gái.
Sự phát triển của các quan tâm về giới.
Số lượng các cơ sở, tổ chức nghiên cứu, đào tạo hay hoạt động về
giới gia tăng, nhiều lớp tập huấn, hội thảo về giới, về phụ nữ trong
chuyển đổi kinh tế, về sức khỏe phụ nữ và sức khỏe sinh sản đã được tổ
chức.
Khoa Phụ Nữ Học được thành lập năm 1992. Đây là
chương trình đào tạo cử nhân về phụ nữ học đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1996, 22 sinh viên đầu tiên tốt nghiệp khoa Phụ nữ học, đa
số đều có việc làm ngay. Đến năm 2003, tổng số sinh viên tốt
nghiệp khoa Phụ nữ học lên đến 418 sinh viên. Sinh viên được
trang bị các kiến thức về giới và phương pháp tiếp cận theo quan
điểm giới. Các môn học về sức khỏe phụ nữ, dân số, xã hội học
gia đình, tham vấn, đã đề cập đến sức khỏe sinh sản và vấn đề
ngược đãi, bạo hành đối với phụ nữ. Khoa Phụ nữ học đã tham gia
nhiều lớp đào tạo ngắn hạn về giới cho các ngành và địa phương.
Khoa Phụ nữ học đã thực hiện các đề tài nghiên cứu về phụ nữ và
về giới, có thể kể:
– Quá trình xã hội hóa về giới ở trẻ em
35
– Phụ nữ nhập cư trong khu vực kinh tế phi chính qui tại
TP.HCM
– Dự án hỗ trợ phụ nữ bị bạo hành
– Vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp tại Đồng
bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, nghiên cứu và đào tạo về giới vẫn còn gặp khá nhiều
trở ngại xuất phát từ những định kiến của xã hội đối với các vấn đề của
phụ nữ và bình đẳng giới. Nhằm mở rộng nội dung đào tạo, Đại học mở
bán công TPHCM đã chuyển khoa Phụ nữ học thành khoa Xã hội học từ
năm 2003. Khối kiến thức về giới trở thành một chuyên ngành phụ của
ngành xã hội học. Môn nhập môn về giới và phát triển vẫn là môn học
chung của toàn khoa Xã hội học.
• Các môn học về giới đã được giảng dạy trong chương trình
xã hội học của nhiều trường đại học. Giáo trình xã hội học về giới
đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình khung của
ngành Xã hội học.
• Chương trình hợp tác Việt Nam – Hà Lan đã hỗ trợ nhiều
đề tài nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong sản xuất nông
nghiệp, trong phát triển cộng đồng.
• Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ nữ và Gia đình đã
tổ chức các lớp học đầu tiên về phụ nữ do GS. Miriam Darce
Frenier giảng. Trung tâm đã tiến hành nghiên cứu các đề tài về nữ
công nhân trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế như lao động nữ nhập
cư, nữ công nhân trong các xí nghiệp liên doanh.
• Các trung tâm công tác xã hội của thanh niên, Hội Bảo trợ
36
Trẻ em, một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài triển khai những
dự án liên quan đến sức khỏe sinh sản, phòng chống AIDS.
• Phòng Nghiên cứu Công tác xã hội thuộc Hội Tâm lý Giáo
dục TP.HCM là một đơn vị triển khai nhiều hoạt động nghiên cứu
và huấn luyện về giới trong các dự án phát triển cộng đồng.
• Các tổ chức xã hội, y tế đã có những chuyển hướng rõ rệt
trong cách tiếp cận và triển khai các dự án, trong đó các khía cạnh
xã hội được tăng cường, các vấn đề xã hội được chú ý nghiên cứu,
Hội Liên Hiệp Phụ nữ TP.HCM đã tiến hành đề án nghiên cứu
tình hình di cư và buôn bán phụ nữ qua biên giới. Dự án do Đại sứ
quán Hà Lan tài trợ.
• Một số mạng lưới kết hợp các tổ chức nghiên cứu về phụ
nữ đã hình thành: FRAPNET liên kết các nhà nghiên cứu phụ nữ
học Đại học British Columbia – Canada và các cơ quan nghiên
cứu phụ nữ học ở Việt Nam và ở các nước khác trong vùng Đông
Nam Á và Nam Á. WONET liên kết các giáo sư phụ nữ học của
đại học California-Berkeley với các nhà nghiên cứu phụ nữ học
của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc. Các cơ quan có
nghiên cứu và đào tạo về phụ nữ học, về giới ở TP.HCM, Cần
Thơ và Hội Liên Hiệp Phụ nữ cũng đã xây dựng mối liên kết.
• Thành phố hiện có nhiều trung tâm tư vấn về tâm lý, tình
yêu, hôn nhân, gia đình hoạt động, thể hiện đậm nét một xu
hướng hành động và ứng dụng.
Trên đây chỉ là một vài trường hợp tiêu biểu, chưa phản ánh hết sự
phong phú của các hoạt động liên quan đến khoa học về giới đã phát
triển trong mười năm trở lại đây.
37
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY
1. Đây là chương mở đầu, có tính chất thông tin. Tài
liệu liên quan đến chương này không nhiều.
2. Sinh viên có thể tìm hiểu và suy nghĩ về tính khoa
học và sự cần thiết của ngành học.
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Cần chú ý đến đặc điểm và mục tiêu của PNH. PNH là một ngành
khoa học nghiên cứu mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới. Một
nhận xét chung là phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi và phân biệt đối xử.
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO
LUẬN NHÓM
1. Sinh viên có thật sự được thuyết phục rằng
PNH/khoa học về giới là một ngành khoa học và cần được đưa
vào chương trình xã hội học? Nêu những lập luận cho quan điểm
của sinh viên.
2. Sinh viên hiểu thế nào về tình trạng bị thiệt thòi của
phụ nữ?
38
CHƯƠNG II
GIỚI TÍNH VÀ GIỚI
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG II
Chương II trình bày và phân tích hai khái niệm rất căn bản trong
nghiên cứu về giới, đó là khái niệm giới tính và giới. Khi nghiên cứu
giới, cần phân biệt giới tính (dịch từ tiếng Anh sex) chỉ những đặc điểm
sinh học của nam giới và nữ giới, có tính phổ quát và không thay đổi,
với giới (dịch từ tiếng Anh gender) chỉ những đặc điểm mà xã hội hoặc
các nền văn hóa gán cho nam giới và nữ giới. Khác với giới tính, những
đặc điểm giới có tính đặc thù của từng xã hội và có thể thay đổi.
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI
HỌC CHƯƠNG NÀY:
– Hiểu và phân biệt được những đặc điểm thuộc về giới tính
và giới.
– Ảnh hưởng của văn hóa và giáo dục của môi trường xã hội
và gia đình đối với những quan niệm về vị trí, vai trò và quyền
của nam giới và nữ giới.
– Sự phổ biến của mô hình xã hội trong đó nam giới đóng vai
trò thống trị.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập huấn về
giới, Hà Nội, 1996. (Chương trình bày về giới tính và giới).
39
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN:
1. Giới tính
Một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh học
dùng để chỉ một phạm trù sinh học. Trong ý nghĩa đó, nam và nữ khác
nhau về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính: nam và nữ.
Những khác biệt căn bản về giới tính:
– Hình dạng bên ngoài của cơ thể: nam giới cao hơn, nặng
hơn, thể lực mạnh hơn phụ nữ.
– Khác nhau về cấu tạo nhiễm sắc thể, hormone, về cơ thể
học.
– Khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trò của giới
tính: phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.
Những sự khác nhau về cơ thể đã là cơ sở cho một số lý thuyết về
sự khác biệt giới tính về mặt tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta không thể đơn
giản kết luận rằng sự khác biệt về sinh học sẽ tất yếu dẫn đến những
khác biệt về tâm lý, và đặc biệt là về năng lực và vai trò trong xã hội của
hai giới.
2. Giới
Thuật ngữ giới được dùng trong nghiên cứu về phụ nữ mang một
ý nghĩa khác, không phải để miêu tả các đặc điểm của giới tính sinh học.
Giới là một phạm trù khoa học xã hội, được sử dụng để nói về các vai
trò, thái độ và giá trị của giới tính do các cộng đồng xã hội gán cho.
Như vậy, giới được xác định trong mối quan hệ giữa nam và nữ về
quyền lực, vị trí xã hội và phân công lao động.
40
Những tính chất của quan hệ giới được tạo dựng qua quá trình
lịch sử, có tính xã hội, không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian,
có thể khác nhau trong những bối cảnh văn hóa, xã hội khác nhau.
Ví dụ: cũng là những phụ nữ Việt Nam với những đặc trưng sinh
học không thay đổi, nhưng phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến bị lệ
thuộc nhiều vào nam giới, còn phụ nữ ngày nay đã đạt nhiều tiến bộ,
được bình đẳng với nam giới trên nhiều phương diện.
Có nhiều quan điểm trong dòng tư tưởng cho rằng giới là một
phạm trù xã hội và các lý thuyết thường rất phức tạp. Nhưng các lý
thuyết căn cứ vào điều kiện xã hội để định nghĩa nam giới, nữ giới là
được chấp nhận nhiều nhất. Các lý thuyết này cho rằng những đặc điểm
của giới nam hay giới nữ là do cha mẹ và những người khác tác động
đến và lặp đi lặp lại nhiều lần mà tạo nên.
Viện Nghiên cứu phát triển của đại học Sussex ở Anh đã đi đầu
trong việc nghiên cứu hình thành khái niệm về giới. Một trong những
nhà nghiên cứu là Ann Whitehead đã đưa ra một định nghĩa về khái
niệm giới trong một cuộc hội thảo vào năm 1978 với chủ đề “Sự lệ
thuộc kéo dài của phụ nữ trong quá trình phát triển”. Sau đây là một số
cơ sở của khái niệm giới nêu trên:
Không có một nghiên cứu nào về phụ nữ và phát triển mà không
phải là vấn đề của cả nam lẫn nữ, nghĩa là phải đặt nó trong mối quan hệ
giữa nam và nữ.
Những mối quan hệ giữa nam và nữ là do xã hội tạo nên chứ không
phải do sinh học.
Các quan hệ giới ngày nay thường được thể hiện thông qua sự
thống trị của nam giới và sự phụ thuộc của nữ giới. Chúng ta có thể thấy
41
những hình thức phụ thuộc khác nhau:
– công việc nội trợ của phụ nữ không được đánh giá đúng
mức.
– phụ nữ làm những việc có lương thấp.
– phụ nữ ít được tham gia quản lý các nguồn tài nguyên, do
đó kém hơn nam giới trong lãnh vực ra quyết định.
Đặc trưng của giới là do giáo dục mà có. Đứa trẻ được dạy dỗ và
phải học để làm con trai hoặc con gái. Ví dụ: con trai không được khóc,
không chơi búp bê, lớn lên phải được học hành cao, có sự nghiệp; con
gái phải dịu dàng, phải giúp mẹ làm việc nhà, khi lớn lên thì việc lấy
chồng, có con được xem là quan trọng hơn sự nghiệp Các quan niệm
vốn có này của cha mẹ, gia đình đối với đứa trẻ khiến nó phải điều chỉnh
hành vi sao cho phù hợp với sự chờ đợi và dần dần trở thành khuôn mẫu
cụ thể đối với mỗi giới.
Walter Mischel đã quan sát hai đặc tính là tính tấn công và tính lệ
thuộc thường được xem là rất gắn bó với giới tính thì thấy trẻ con khi
còn nhỏ không phân biệt. Sau này, có sự phân biệt vì trẻ học qua xã hội,
chứ không phải bẩm sinh.
Nếu phụ nữ bẩm sinh là thụ động và lệ thuộc, và nam giới có tính
chủ động và độc lập thì điều đó phải thể hiện ở mọi nơi và mọi thời kỳ.
Trong thực tế, các nhà dân tộc học cho thấy có sự khác nhau giữa các xã
hội. Một nghiên cứu ở Papua New Guinea cho thấy tình trạng các bộ
lạc ở đây hoàn toàn khác với những giả định thông thường về tâm lý
nam và nữ. Ở một bộ lạc thứ nhất, người ta thấy có sự khác biệt về hành
vi giữa nam và nữ, nhưng cả hai giới đều được huấn luyện để sống hòa
thuận, hợp tác với nhau, đáp ứng những yêu cầu của nhau. Ở một bộ lạc
42
thứ hai, ngược lại cả hai giới đều rất hung dữ. Ở một bộ lạc thứ ba, mối
quan hệ giữa hai giới lại khác: phụ nữ là người điều khiển, quản lý, nam
giới ít có trách nhiệm hơn và lệ thuộc hơn. Như vậy, dưới nhãn quan của
chúng ta, những người đàn ông của bộ lạc này là đàn bà và đàn bà lại là
đàn ông.
Các quan niệm, khuôn mẫu được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, con gái thì phỏng theo mẹ, con trai phỏng theo cha. Vì vậy quá
trình biến đổi vai trò của giới thường diễn ra một cách chậm chạp và
khó khăn.
Để thay đổi quan hệ giới và các đặc trưng giới, cần vượt qua những
định kiến và quan niệm cũ, tức là bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức của
từng người về vị trí, vai trò của mỗi giới và đặc biệt là các quan hệ giới
giữa nam và nữ để tiến tới thiết lập những quan hệ mới trên cơ sở bình
đẳng và hợp tác giữa hai giới. Bình đẳng giới không có nghĩa là nam
giới và nữ giới giống nhau mà có nghĩa là nam và nữ giới đều có những
quyền và cơ hội như nhau, không bị phân biệt đối xử vì họ là nữ giới
hoặc nam giới.
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY
1. Phân biệt hai khái niệm cơ bản giới tính sinh học và giới xã hội là
nền tảng cho những quan điểm về giới và phát triển. Hiểu định
nghĩa của hai khái niệm này không khó, nhưng sinh viên cần chú ý
phân biệt được những đặc điểm thuộc về giới hay giới tính trong
thực tế, vì những định kiến về giới đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều
người.
2. Cần suy nghĩ để ngày càng được thuyết phục rằng những đặc
điểm về giới là có thể thay đổi được, và trong thực tế những thay
43
đổi này đang tiếp diễn và tạo cơ sở cho những nỗ lực hướng đến
bình đẳng giới.
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Giới tính chỉ sự khác biệt giữa nam giới và nữ giới về mặt sinh học,
có tính phổ biến và không thay đổi. Trong sự khác biệt này, nữ giới phải
đảm nhiệm chức năng sinh học là mang thai, sinh con và cho con bú.
Giới là một phạm trù khoa học xã hội, được sử dụng để nói về các
vai trò, thái độ và giá trị của giới tính do các cộng đồng xã hội gán cho.
Những tính chất của quan hệ giới được tạo dựng qua quá trình
lịch sử, có tính xã hội, không cố định mà có thể thay đổi qua thời gian,
có thể khác nhau trong những bối cảnh văn hóa, xã hội khác nhau. Giáo
dục đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhận thức về đặc
điểm, vai trò và quan hệ của giới nam và giới nữ.
Để thay đổi quan hệ giới và các đặc trưng giới, cần vượt qua
những định kiến và quan niệm cũ, tức là bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức
của từng người về vị trí, vai trò của mỗi giới và đặc biệt là các quan hệ
giới giữa nam và nữ để tiến tới thiết lập những quan hệ mới trên cơ sở
bình đẳng và hợp tác giữa hai giới.
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO
LUẬN NHÓM
1. Thảo luận nhóm:
Sinh viên thảo luận về giáo dục đối với con trai và con gái trong
các mẫu gia đình khác nhau và tác động của các kiểu mẫu giáo dục này
đối với sụ hình thành nhận thức về giới, về vai trò giới nơi con cái. Có
thể chọn mẫu gia đình còn nâng ảnh hưởng tư tưởng phong kiến, gia
44
đình có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn. Cuối cùng, sinh viên có thể
phân tích giáo dục bình đẳng đối với nam và nữ đem lại lợi ích gì cho cả
nữ giới, nữ giới và cho sự phát triển hài hòa của gia đình và xã hội.
Bài tập nhóm này có mục đích giúp sinh viên phân biệt được hai
khái niệm giới và giới tính và thấy sự ích lợi của sự phân biệt này.
Phương pháp thực hiện:
a. Sinh viên điền vào hai cột dưới đây những nhận định của
mình hoặc của đa số về những đặc điểm về tính tình, công việc,
vai trò, hoài bão... của nam giới và nữ giới. Ghi ngay những suy
nghĩ đến với mình, không đắn đo, suy luận nhiều.
Nữ giới Nam giới
45
b. Sau khi điền xong, nhóm xem xét từng đặc điểm
trong cột “nữ giới” và xem có những đặc điểm nào có thể đặt
được trong cột “nam giới”. Làm tương tự với cột “nam giới”. Nói
cách khác, xem nam giới có thể làm những gì mà nữ giới làm, và
ngược lại. Sinh viên sẽ thấy những chức năng sinh học không thể
hoán vị được, còn những đặc điểm khác đều có thể hoán vị được,
cho dù trong thực tế không diễn ra như vậy. Đó là những đặc
điểm thuộc về giới. Bài tập này cũng cho ta nhận thức về vai trò
rập khuôn của nam giới và nữ giới.
2. Hoạt động chung cho cả lớp: Xác định đặc điểm giới hay giới
tính.
Một sinh viên đọc các nhận định sau đây, cả lớp xác định đó là đặc
điểm thuộc về giới tính hay thuộc về giới.
Nếu thuộc về giới: các sinh viên đứng dậy; nếu thuộc về giới tính:
các sinh viên ngồi yên. Nếu có khác biệt ý kiến, sinh viên giải thích và
biện hộ cho ý kiến của mình.
1. Phụ nữ sinh con, đàn ông thì không.
2. Trẻ em gái hiên lành và nhút nhát, trẻ em trai mạnh
46
dạn và có óc khám phá.
3. Ở nhiều nước, thu nhập của lao động nữ chỉ bằng
70% thu nhập của lao động nam.
4. Phụ nữ cho con bú bằng sữa mẹ, nam giới cho con
bú sữa trong bình.
5. Phụ nữ chịu trách nhiệm nuôi con.
6. Nam giới là người quyết định.
7. Ở Ai Cập thời cổ đại, nam giới ở nhà và dệt vải. Nữ
giới điều hành các hoạt động kinh tế của gia đình. Nữ giới thừa
kế tài sản, nam giới không thừa kế.
8. Nam vỡ giọng vào tuổi dậy thì, nữ không vỡ giọng.
9. Phụ nữ bị cấm làm những việc nguy hiểm như làm
việc dưới hầm mỏ, nam làm những việc nguy hiểm này.
10. Nữ ít có khả năng lãnh đạo, nam có khả năng lãnh đạo
hơn.
47
CHƯƠNG III
SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG
THEO GIỚI
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG III
Chương III trình bày cách phân loại công việc trong nghiên cứu
về giới, với mục đích phân tích sự khác biệt về gánh nặng công việc đối
với nam và nữ giới. Trong khuôn khổ đó, các hoạt động được phân ra
làm ba loại chính: sản xuất/kinh tế; tái sản xuất/chăm sóc, nuôi dưỡng;
cộng đồng. Công cụ để khảo sát các hoạt động sẽ được trình bày trong
phần bài tập.
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY:
1. Hiểu được nội dung và tính chất của ba loại công việc sản xuất,
tái sản xuất và cộng đồng.
2. Sự phân công lao động có thể khác nhau tùy theo bối cảnh văn
hóa, xã hội, tùy theo tầng lớp xã hội và nhận thức của từng gia
đình.
3. Phân biệt được hai khái niệm điều kiện sống và địa vị của phụ
nữ; hiểu được các hoạt động tác động đến điều kiện sống hoặc đến
địa vị của phụ nữ.
4. Hiểu và sử dụng được công cụ phân tích hoạt động của nam giới
và nữ giới.
48
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập
huấn về giới, Hà Nội, 1996. (Chương trình bày phân công lao
động theo giới).
– TRẦN THỊ VÂN ANH, LÊ NGỌC HÙNG, Phụ nữ, giới
và phát triển, NXB Phụ nữ, 1996.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN:
1. Sự phân công lao động theo giới.
Sự khác biệt giữa nam và nữ giới trong công việc là yếu tố quan
trọng trong quan hệ giới, góp phần tạo ra sự chia rẽ và đôi khi nảy sinh
đối kháng giữa nam và nữ giới. Nhưng sự khác biệt này cũng góp phần
tạo ra sự trao đổi, lệ thuộc lẫn nhau, hợp tác với nhau trong việc duy trì
cuộc sống và mưu sinh cho gia đình. Phụ nữ là người đóng góp chính
cho kinh tế và đời sống của gia đình, nhưng thường thường công việc
của họ đem lại ít thu nhập hơn nam giới.
Phần lớn phụ nữ ở các nước đang phát triển, nhất là ở nông thôn
thực hiện những công việc trong một nền kinh tế tự túc. Công việc của
họ không được tính bằng tiền, họ không được trả lương, do đó những
thành quả kinh tế của họ cũng không được tính toán đầy đủ vào các chỉ
tiêu kinh tế quốc gia – Có thể nói phần lớn các công việc mà phụ nữ
đảm trách là những công việc âm thầm, vô hình, không được thấy rõ
và không được thừa nhận.
Sự phân công lao động theo giới có thể khác nhau trong các nền
văn hóa hoặc thời đại khác nhau. Điều này chứng tỏ các công việc của
nam và nữ giới không do giới tính quy định mà là do bối cảnh xã hội,
49
phong tục tập quán, giáo dục và gia đình.
Ví dụ: Ở Việt Nam, đa số tiểu thương buôn bán ở chợ là phụ nữ,
nhưng ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ rất ít phụ nữ buôn bán ở chợ mà lại do nam
giới đảm trách.
Khi khảo sát một vùng, một cộng đồng theo quan điểm phân tích
giới, ta phải đặt câu hỏi ở đó có những hoạt động kinh tế, xã hội gì, và
trong các hoạt động ấy, nam làm gì, nữ làm gì.
2. Phân loại công việc
Có thể phân ra 3 loại công việc:
– Hoạt động sản xuất: một cách tổng quát đó là các
hoạt động kinh tế đem lại thu nhập bao gồm các hoạt động sản
xuất nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Về hình thức tổ
chức, đó có thể là những hoạt động sản xuất nhỏ, tiểu thương tiểu
chủ, hay là làm nhân viên ăn lương, làm chủ các doanh nghiệp sản
xuất và dịch vụ. Cả nam lẫn nữ đều tham gia hoạt động sản xuất,
nhưng thường vai trò và trách nhiệm của nữ giới thấp hơn và ít
thấy rõ hơn nam giới.
– Hoạt động tái sản xuất: bao gồm việc chăm sóc nhà
cửa, lo nấu ăn cho tất cả gia đình, lấy nước và chất đốt, mua sắm,
chăm sóc sức khỏe cho mọi thành viên trong gia đình, nuôi nấng
và dạy dỗ con cái.
Ví dụ: Đi chợ, nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc người bệnh trong gia
đình - Ta thường gọi là “việc nhà”. Những hoạt động ấy rất quan
trọng vì chúng giúp cho mọi người trong gia đình tái tạo sức lao động,
giúp nuôi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai. Tuy nhiên,
50
các hoạt động tái sản xuất này lại không được xem là công việc thực sự.
Thường là phụ nữ (mẹ và con gái) chịu trách nhiệm chính về những việc
này trong gia đình. Ở những xã hội mà mức sống còn thấp, các công
việc nhà chiếm rất nhiều thì giờ. Chẳng hạn, việc đi chợ, nấu ăn, lấy
nước và củi ở những gia đình nghèo, không có bếp ga hoặc bếp điện,
không có tủ lạnh, không có nước máy làm mất nhiều thì giờ hơn một
bà nội trợ ở các nước phát triển, có đầy đủ tiện nghi trong nhà.
Một đặc điểm cần lưu ý là người phụ nữ làm các công việc tái tạo
sức lao động này không chỉ riêng cho họ mà cho tất cả thành viên trong
gia đình.
– Hoạt động cộng đồng: bao gồm những hoạt động,
dịch vụ phục vụ cho tập thể: gia đình, họ hàng, cộng đồng ở địa
phương. Đó là các lễ hội, kỵ giỗ, các hoạt động văn hóa, xã hội,
tôn giáo Các hoạt động này thường mang tính tự nguyện,
không đem lại thu nhập và không được phân tích, tính toán trong
các phân tích có ý nghĩa kinh tế. Tuy nhiên, đây là những hoạt
động quan trọng cho sự phát triển của các cộng đồng.
Cả nam lẫn nữ đều tham gia vào hoạt động cộng đồng. Có khi
nam giới vì bận rộn với công việc sản xuất nên nữ giới lại trở thành
người chăm lo nhiều hơn các hoạt động cộng đồng của họ hàng, khu
phố.
Nhìn chung, cả nam lẫn nữ đều có tham gia ba mảng hoạt động
nêu trên. Loại công việc rất phân tán, tủn mủn mà lại ít được đánh giá
cao về mặt kinh tế là các hoạt động tái sản xuất thì lại do nữ giới đảm
nhận. Như vậy, cần chú ý đến điều kiện làm việc của nữ giới vất vả và
đa dạng, phân tán hơn nam giới nhiều, phải đảm nhiệm nhiều việc cùng
một lúc, vừa lo kinh tế, vừa lo việc nhà, và cả việc cộng đồng. Trong lúc
51
đó nam giới có thể chỉ tập trung vào một công việc chính là hoạt động
kinh tế.
Với điều kiện làm việc như vậy, dễ hiểu tại sao phụ nữ khó tập
trung tâm trí chi cho một việc, hoặc tại sao phụ nữ lại chỉ làm được
những việc nhỏ, không có tầm nhìn lâu dài, ít hướng đến những việc có
quy mô lớn.
Với quan điểm tiếp cận giới, những người xây dựng dự án phát
triển cần chú ý đến điều kiện làm việc phân tán, đa dạng của phụ nữ để
xây dựng những hoạt động thích hợp, tạo điều kiện cho phụ nữ có thể
tham gia được.
Việc phân tích công việc do nam giới và nữ giới làm giúp thấy rõ
hơn:
Tất cả các loại công việc được thực hiện trong gia đình, trong cộng
đồng, xã hội và giá trị đích thực của các việc này.
Đánh giá được ảnh hưởng khác nhau của các dự án đối với nam
giới và nữ giới, tiến đến việc xây dựng các kế hoạch phát triển đem lại
lợi ích cho cả 2 giới.
Các hoạt động có thể giúp phụ nữ bớt gánh nặng của công việc.
Các biện pháp bảo đảm cho phụ nữ có điều kiện tham gia vào các
dự án.
3. Vị trí và điều kiện sống của phụ nữ
Các dự án phát triển thường có mục đích cải thiện điều kiện sống
của người dân theo quan điểm tiếp cận giới và phát triển, cần làm rõ
điều kiện sống hàng ngày của phụ nữ và vị trí của họ trong xã hội.
52
– Điều kiện sống liên quan chủ yếu đến các điều kiện vật
chất, sức khỏe, học vấn của bản thân người phụ nữ, không so
sánh với nam giới. Ví dụ: họ làm việc gì, họ và con họ có những
nhu cầu gì.
– Vị trí kinh tế – xã hội của phụ nữ được xét trong viễn cảnh
so sánh với nam giới.
Ví dụ: So sánh trình độ học vấn, cơ hội có việc làm, lương giữa
nữ và nam giới – Sự tham gia của phụ nữ vào các cấp lãnh đạo so với
nam giới.
Trong một gia đình hoặc trong một cộng đồng nghèo, nam giới,
nữ giới và trẻ em đều cùng chịu nghèo khổ và thiệt thòi, và cùng có
những nhu cầu như nhau: nước sạch, dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe.
Tuy nhiên nam và nữ sống và cảm nhận những nhu cầu đó một cách
khác nhau.
Ví dụ: Về nhu cầu nước và chất đốt. Người phụ nữ vì phải đảm
nhiệm các công việc nội trợ hàng ngày (nấu ăn, giặt giũ) nên thấy có
nhu cầu rất bức thiết về cấp nước, chất đốt, chăm sóc sức khỏe, nâng cao
thu nhập.
Nam giới với trách nhiệm truyền thống là trụ cột kinh tế của gia
đình có thể dành ưu tiên cho việc tiếp cận các nguồn lực: đất đai, kỹ
thuật, nguyên vật liệu.
Các dự án phát triển có thể tác động đến điều kiện sống và vị trí
của phụ nữ và nam giới một cách khác nhau.
Một dự án cấp nước ở nông thôn có thể cải thiện điều kiện sống
của phụ nữ rất nhiều nhưng không ảnh hưởng mấy đến nam giới.
53
Ngược lại, một dự án đưa giống mới hoặc kỹ thuật mới vào nông
nghiệp có thể làm cho điều kiện làm việc của phụ nữ trở nên vất vả hơn
vì họ phải tăng cường việc nhổ cỏ, vệ sinh đồng ruộng, vốn là một hoạt
động mà phụ nữ phải đảm nhiệm.
Một dự án có thể ảnh hưởng không tốt hoặc ảnh hưởng tích cực
đến vị trí của người phụ nữ: ảnh hưởng xấu nếu các hoạt động hạ thấp
vai trò hoặc loại trừ phụ nữ ra khỏi các hoạt động hay làm cho phụ nữ
mất quyền kiểm soát. Tác động tích cực nếu người phụ nữ được tham
gia như là một tác nhân tích cực cải thiện tình hình.
Ví du: Một dự án cấp nước nông thôn có thể thay đổi vị trí của
phụ nữ nếu dự án chú ý đến việc huấn luyện kỹ thuật, huấn luyện kỹ
năng quản lý, kiến thức về sức khỏe cho phụ nữ, nếu người phụ nữ được
tham gia vào ban quản lý dự án.
Cần lưu ý rằng nếu không có quan điểm phân tích giới các
chương trình nhắm đối tượng là phụ nữ không đương nhiên cải thiện
điều kiện sống hay địa vị của người phụ nữ. Nhìn chung nhiều hoạt
động hỗ trợ phụ nữ thường nhắm đến việc cải thiện điều kiện sống của
họ, tăng cường khả năng của phụ nữ để họ có thể thực hiện tốt hơn vai
trò và những trách nhiệm truyền thống của họ. Các hoạt động này
thường tìm cách giúp phụ nữ thụ hưởng các lợi ích và tiếp cận được với
các nguồn tài nguyên (học tập, thu nhập), nhưng ít chú ý đến tăng
cường sự kiểm soát của phụ nữ đối với các nguồn tài nguyên này. Các
hoạt động này cũng ít chú ý đến việc tăng cường vị trí, vai trò của phụ
nữ so với nam giới và phát huy vai trò của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ
nữ cùng nam giới tham gia vào các hoạt động xã hội như một tác nhân
của phát triển và biến đổi xã hội.
Các chỉ báo của sự cải thiện địa vị phụ nữ thường không rõ ràng
54
như sự cải thiện điều kiện sống của phụ nữ, vì chúng có tính chất định
tính hơn là định lượng. Chúng ta có thể xem xét các chỉ báo sau:
Làm cho nam và nữ giới ngày càng chấp nhận phụ nữ là những
người có quyền quyết định ở cộng đồng.
Làm cho phụ nữ tự tin hơn và tự lập về kinh tế.
Có thêm nhiều tổ chức của phụ nữ và các tổ chức này được nhiều
người biết đến.
Có thêm nhiều phụ nữ trong các chương trình học tập và
đào tạo.
Sức khỏe của phụ nữ và trẻ em được cải thiện.
Cải thiện địa vị của phụ nữ về mặt pháp lý.
Giảm được những hành vi ngược đãi phụ nữ.
Phụ nữ được tăng quyền tự chủ đối với việc sinh con.
Giảm sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ.
Gia tăng các mối quan tâm và nâng cao nhận thức của công chúng
về các vấn đề phụ nữ.
55
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY
1. Sinh viên cần nắm vững công cụ phấn tích một ngày làm việc
của nam giới và nữ giới để áp dụng khi tiến hành nghiên cứu về
giới.
2. Cần khách quan khi tìm hiểu các hoạt động của nam giới và
nữ giới. Sự phân công lao động có thể khác nhau tùy theo tầng lớp
xã hội.
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Trong ba loại công việc, chỉ có các hoạt động kinh tế đem lại thu
nhập cho các gia đình thường được chú trọng và có ảnh hưởng đến vị
trí, vai trò của cá nhân trong xã hội. Cả nam lẫn nữ giới đều tham gia
vào hoạt động này, nhưng vị trí của phụ nữ thường thấp hơn. Các hoạt
động chăm sóc, nuôi dưỡng thường do phụ nữ đảm nhiệm lại không
đem lại thu nhập bằng tiền, lại phân tán, tủn mủn, chiếm nhiều thời gian,
điều này gây trở ngại cho sự thăng tiến của phụ nữ. Cần tìm những giải
pháp hài hòa hai gánh nặng công việc. San sẻ việc nhà giữa nam và nữ
là một hướng đi hợp lý.
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO
LUẬN NHÓM
Bài tập nhóm: một ngày làm việc của nam giới và nữ giới
Có thể phân sinh viên thành 4,5 hoặc 6 nhóm, tùy theo số lượng
sinh viên. Mỗi nhóm có ít nhất 4 người, nhiều nhất 8 người. Không nên
lập nhóm quá đông vì như vậy sinh viên sẽ khó thảo luận.
Mỗi nhóm chọn khảo sát một loại gia đình. Gợi ý những loại gia
đình như sau:
56
• Nông dân nghèo
• Nông dân bậc trung
• Dân nghèo thành thị
• Cán bộ – nhân viên bậc trung
• Gia đình doanh nhân
• Bà mẹ nông dân đơn thân.
Để thuận tiện cho thảo luận, sinh viên sẽ chỉ khảo sát công việc
của người chồng và người vợ . Với trường hợp bà mẹ đơn thân thì chỉ
kháo sát công việc của bà mẹ.
– Nên chọn các cặp vợ chồng trung niên, trong độ tuổi từ 30
đến 45 tuổi, con cái chưa trưởng thành để thấy khối lượng công việc
ở giai đoạn bận rộn nhất của các gia đình.
– Đối với mỗi gia đình, sinh viên nên nêu vài đặc điểm kinh
tế, xã hội, nhân khẩu: tuổi, nghề nghiệp, số con, trình độ văn hóa.
– Sinh viên ghi càng chi tiết càng tốt các công việc của người
chồng, người vợ trong ngày, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ.
– Sau khi ghi các công việc, sinh viên thống kê cho nam
riêng, cho nữ riêng tổng số giờ làm việc hoặc nghỉ ngơi cho từng
loại công việc theo bảng sau:
Công việc Số giờ thực hiện
Sản xuất / kinh tế
Tái sản xuất, chăm sóc, nuôi dưỡng
57
Nghỉ ngơi trong ngày
Ngủ
________________
Tổng số giờ: 24 giờ
– Tùy theo kết quả khảo sát, sinh viên cho nhận xét và bình
luận về công việc của nam giới và nữ giới, những thuận lợi và trở
ngại của hai giới trong phân công lao động.
Thời gian Phụ nữ làm Nam giới làm
58
BÀI ĐỌC THÊM
BẤT BÌNH ĐẲNG VỀ GIỚI
GIỮA CÁC NHÀ KHOA HỌC
heo kết quả một cuộc điều tra về lương của những người làm
trong lĩnh vực y tế và sinh học, phái nữ chỉ được trả thù lao bằng
2/3 so với các đồng nghiệp nam. Tại Mỹ, lương trung bình của nhà
khoa học nữ là 72.000 USD, so với mức 94.000 USD của nam giới.
Công bố trên đây được Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Mỹ đưa ra sau
khi điều tra gần 20.000 người làm công tác nghiên cứu, quản lý, giáo sư,
giảng viên trong lĩnh vực khoa học đời sống và chăm sóc sức khỏe.
Lý giải về hiện tượng này, Hiệp hội cho hay: “Đàn ông tiến xa hơn
trong sự nghiệp. Họ làm việc nhiều hơn và thuộc nhóm các lĩnh vực y tế
có thu nhập cao hơn”.
Tuy nhiên, Catherine Didion, Giám đốc Hiệp hội Phụ nữ làm
công tác khoa học, nhận định lời giải thích này “là lập luận được đưa ra
từ 2 thập kỷ trước, chứ không phải là ngày nay”. Bà nhấn mạnh phụ nữ
giờ đây đã đóng vai trò không nhỏ trong đội ngũ khoa học, chiếm tới
50% trong nhiều lĩnh vực, và rằng không có lý do nào cho việc tồn tại
những bất bình đẳng về lương theo giới. “Nhiều phụ nữ có chất lượng
công việc và kinh nghiệm tốt. Lương của họ xứng đáng ngang với các
đồng nghiệp nam giới”, Didion nói.
Theo cuộc điều tra, sự phân biệt về lương theo giới tính thể hiện
T
59
rõ nhất trong lĩnh vực vật lý, các tổ chức và các công ty khoa học.
Chẳng hạn, lương trung bình của các nhà quản lý nam là 160.000 USD,
trong khi lương cho phái nữ ở vị trí tương tự là 125.000 USD. Đối với
các nhà vật lý, lương của nam giới trung bình là 125.000 USD, so với
90.000 USD của nữ giới.
2/3 số nhà khoa học nữ được hỏi cho biết công việc của họ bị hạn
chế phần nào do sự nghiệp của chồng. Khoảng 1/3 cho biết công việc
của họ bị ảnh hưởng “rất nhiều” bởi hôn nhân. Ngược lại, chỉ có 7% nhà
nghiên cứu nam cho biết nghề nghiệp của người vợ có ảnh hưởng đáng
kể đến công việc của họ.
B.H. (Theo CNN)
17/10/2001
60
CHƯƠNG IV
NHU CẦU GIỚI
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG IV
Chương III giới thiệu một cách tiếp cận được sử dụng khá
rộng rãi trong các khảo sát các nhóm dân cư, đó là khảo sát nhu
cầu. Chương này giới thiệu những đặc điểm và cách xác định nhu
cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược trong những khảo sát về giới.
II. NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY
1. Định nghĩa và cách xác định nhu cầu thiết thực và
nhu cầu chiến lược, mối liên hệ giữa hai loại nhu cầu này.
2. Tầm quan trọng của nhu cầu chiến lược trong quá
trình tiến đến bình đẳng giới.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ, UNICEF, UNDP, Tài liệu tập huấn về
giới, Hà Nội, 1996. (Chương trình bày nhu cầu giới).
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN
Muốn xây dựng các hoạt động hay dự án hỗ trợ một nhóm dân cư,
1 nhóm phụ nữ hay một cộng đồng thì việc tìm hiểu và xác định nhu cầu
của họ là cần thiết.
61
1. Nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược
Trong các loại nhu cầu của phụ nữ (hay của dân cư nói chung)
người ta thường phân ra 2 loại: nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến lược.
1.1 Nhu cầu thiết thực
Nhu cầu thiết thực thường liên quan đến điều kiện sống và làm
việc của phụ nữ. Các nhu cầu này xuất phát từ điều kiện sống và làm
việc khó khăn, thiếu thốn nguồn lực hoặc tài nguyên. Do đó, phụ nữ
nghèo ở các nước đang phát triển thường dễ xác định các nhu cầu thiết
thực, liên quan đến dinh dưỡng, thực phẩm, nguồn cung cấp nước, sức
khỏe và việc học tập của con cái, gia tăng thu nhập. Đây là những nhu
cầu trước mắt mà cái dự án phát triển có thể đáp ứng trong một thời gian
ngắn, ví dụ trang bị thêm phương tiện, máy móc, huấn luyện kỹ thuật,
trang bị máy bơm, xây trường, bệnh viện, cung cấp bác sĩ, y tá, giáo
viên lập nhóm tín dụng – tiết kiệm. Thường thường, các dự án nhằm
mục đích đáp ứng nhu cầu thiết thực và cải thiện điều kiện sống của phụ
nữ tiếp tục duy trì mối quan hệ truyền thống giữa nam và nữ giới, ít chú
trọng thay đổi địa vị của phụ nữ.
1.2 Nhu cầu chiến lược
Nhu cầu chiến lược của phụ nữ xuất phát từ vị trí lệ thuộc, thiệt
thòi của họ trong gia đình và ngoài xã hội – Nhu cầu chiến lược là lâu
dài và liên quan đến việc cải thiện địa vị của người phụ nữ so với nam
giới. Ví dụ: đối với người nghèo, được tham gia vào quá trình dân chủ,
bàn bạc và ra quyết định là một nhu cầu chiến lược.
Đối với phụ nữ, đạt đến bình đẳng giới là một nhu cầu chiến lược.
Tăng quyền lực cho phụ nữ để họ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp
cận các nguồn nhân lực, tham gia bình đẳng với nam giới trong tiến
62
trình ra quyết định là nhu cầu chiến lược, lâu dài không những của phụ
nữ mà cả của nam giới.
Nhu cầu chiến lược khó được xác định hơn nhu cầu thiết thực. Bản
thân người phụ nữ cảm nhận được vị trí lệ thuộc của họ nhưng không
biết làm thế nào để thay đổi, và họ thường dành ưu tiên cho nhu cầu
thiết thực và sự sống còn của gia đình họ.
Có thể xác định một số nhu cầu chiến lược của phụ nữ như sau:
– Giảm ngược đãi, bạo hành đối với phụ nữ.
– Tăng cường sự tự chủ về kinh tế.
– Tăng sự tham gia chính trị của phụ nữ.
– Cải thiện điều kiện học tập và tương lai của con cái.
– Tiến đến một sự phát triển công bằng về nhân ái.
– Nam giới cùng tham gia thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
2. Các phương thức đưa nhu cầu chiến lược vào các hoạt động hoặc
dự án
2.1 Tiến hành phân tích giới trước khi bắt đầu dự án.
Ở cộng đồng, có thể dùng phương pháp tham gia, bao gồm cả
nam lẫn nữ để thu thập thông tin. Phân tích giới bao gồm sự phân công
lao động theo giới tính, loại công việc, tiếp cận và kiểm soát tài nguyên
và lợi ích, các yếu tố ảnh hưởng, một vài chỉ báo về sự thay đổi theo thời
gian.
Tham khảo ý kiến phụ nữ: để tìm hiểu các tổ chức phụ nữ, những
người đại diện và các phương thức tiếp tục tham khảo ý kiến và làm việc
63
với phụ nữ.
Vận động sự hợp tác của nam giới – Cần tìm cơ hội để nam và nữ
giới cùng thảo luận để nam giới và cộng đồng hiểu rằng sự tham gia của
phụ nữ cũng đem lại lợi ích cho nam giới.
Mở rộng cơ hội tham gia cho phụ nữ vào các hoạt động của cộng
đồng, vào các tổ chức của phụ nữ, và vào tiến trình ra quyết định.
Hỗ trợ các tổ chức phụ nữ.
2.2 Tóm tắt các đặc điểm của nhu cầu thiết thực và nhu cầu chiến
lược.
Nhu cầu thiết thực Nhu cầu chiến lược
– Cần đáp ứng
tức thì, ngắn hạn
– Dài hạn
– Đáp ứng cho
một thành phần phụ nữ
đặc thù.
– Chung cho
hầu hết thành phần phụ
nữ
– Liên quan
đến những nhu cầu hàng
ngày: ăn, ở, thu nhập,
sức khỏe con cái.
– Liên quan
đến địa vị thiệt thòi của
phụ nữ:lệ thuộc, thiếu
học vấn, thiếu nguồn
lực, bị ngược đãi, nghèo
đói.
– Có thể được
đáp ứng bằng cách cung
ứng các vật chất, máy
– Có thể đáp
ứng bằng nâng cao nhận
thức, tăng sự tự tin, phát
64
móc triển giáo dục, tăng
cường các tổ chức phụ
nữ, phụ nữ tham gia
chính trị.
– Đáp ứng nhu
cầu:
Kết hợp phụ nữ vào
các dự án phát triển như là
người thụ hưởng lợi ích
hoặc là người tham gia.
Có thể cải thiện
điều kiện sống của phụ
nữ.
Thường không thay
đổi mối quan hệ giữa
nam và nữ giới.
– Đáp ứng nhu
cầu:
– Phụ nữ tham
gia như một tác nhân của
phát triển.
– Có thể cải
thiện vị trí, địa vị người
phụ nữ.
– Tăng quyền
lực cho phụ nữ, cải thiện
mối quan hệ giữa 2 giới.
65
V. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI HỌC CHƯƠNG NÀY
1. Sinh viên cần liên hệ với những kiến thức về phương pháp
tiếp cận theo nhu cầu, những ưu điểm và hạn chế của phương pháp
này.
2. Đối với một số nhu cầu, việc phân định nhu cầu thiết thực và
nhu cầu chiến lược chỉ có tính chất tương đối, ví dụ nhu cầu có việc
làm vừa là thiết thực, vừa là chiến lược.
VI. TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
1. Nhu cầu thiết thực thường là những nhu cầu liên quan đến
điều kiện vật chất, dễ xác định, nhưng ít góp phần thay đổi vị trí xã
hội của phụ nữ. Nhu cầu chiến lược liên quan đến tình trạng thiệt
thòi của phụ nữ, có tính chất lâu dài, khó nhận diện. Việc đáp ứng
nhu cầu chiến lược góp phần nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ.
2. Có thể ứng dụng cách tiếp cận nhu cầu vào các đề tài nghiên
cứu về giới và phát triển để xác định nhu cầu cần đáp ứng nhằm cải
thiện điều kiện sống và nâng cao địa vị của người phụ nữ.
VII. CÂU HỎI ĐỂ SINH VIÊN TỰ TRẢ LỜI HOẶC THẢO
LUẬN NHÓM
1. Bài tập nhóm: Từng nhóm sinh viên xác định các loại hoạt động
và nhu cầu trong bảng dưới đây. Bài tập này giúp sinh viên xác
định các loại nhu cầu và khả năng ứng dụng những khái niệm này
vào các hoạt động của các dự án phát triển.
2. Sinh viên xếp loại các loại động theo bao loại: sản xuất (SX), tái
sản xuất (TSX), cộng đồng (CĐ), và các hoạt động ấy đáp ứng nhu
cầu thiết thực (NCTT)hay nhu cầu chiến lược (NCCL) đối với phụ
66
nữ.
Lưu ý: Có những hoạt động đáp ứng cả hai loại nhu cầu.
Loại hoạt
động
Đáp ứng nhu
cầu
Loại hoạt động
X SX Đ
N
CTT
NC
CL
1. Đào tạo, việc làm
a) Kỹ năng
Học nấu ăn
May công nghiệp
Tin học
Tập thể dục
b) Tiếp cận sử dụng vốn
Cấp cho hộ gia đình
Cấp cho phụ nữ
2 Chính sách nhà ở: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất
Tên của chồng
Tên của chồng và vợ
67
3. Dịch vụ cơ bản
a) Địa điểm của nhà trẻ
Tại cộng đồng
Tại nơi làm việc của
người mẹ
Tại nơi làm việc của
người cha
b) Giao thong
Chỉ có xe bus vào giờ
cao điểm
Xe bus hoạt động liên
tục từ 4giờ sáng đến 11 giờ
đêm
c) Giờ họp các tổ khuyến nông
Vào buổi sáng
Vào buổi tối
68
CHƯƠNG V
PHỤ NỮ TRONG PHÁT TRIỂN, PHỤ NỮ
VÀ PHÁT TRIỂN, GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT CHƯƠNG V
Chương III trình bày diễn tiến của hai khái niệm chính là “phụ nữ
trong phát triển” và “giới và phát triển”. Hai khái niệm này được đặt
trong bối cảnh những diễn biến của các mô hình phát triển từ 1970 đến
nay cũng như những phát triển về mặt lý thuyết của phụ nữ học và của
khoa học về giới.
II.NHỮNG ĐIỀU SINH VIÊN CẦN ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI HỌC
CHƯƠNG NÀY
1. Hiểu được nội dung của quá trình “phụ nữ trong phát triển”
và “giới và phát triển”
2. Liên hệ hai khái niệm này với những quan điểm về phát triển
và về bình đẳng giới.
3. Sự phát triển của khái niệm “giới và phát triển” đã làm
phong phú thêm những hoạt động hướng đến bình đẳng giới.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRẦN THỊ VÂN ANH, LÊ NGỌC HÙNG, Phụ nữ, giới và phát
triển, NXB Phụ nữ, 1996, chương 2& 3, tr. 65 – tr.152.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN
Từ thập niên 1970 đến nay, thuật ngữ “phụ nữ trong phát triển”
69
(women in development –WID) ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Phụ nữ trong phát triển được hiểu là sự hòa nhập người phụ nữ
vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội, chính trị.
1. Nguồn gốc của khái niệm phụ nữ trong phát triển
Khái niệm này bắt đầu được sử dụng từ thập niên 1970, sau khi
quyển sách “Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế” của Elster
Boserup được xuất bản. Boserup là người đầu tiên phân tích sự phân
công lao động theo giới tính trong nền kinh tế nông nghiệp. Boserup đã
phân tích tác động của những cải tiến kỹ thuật đối với nam giới và nữ
giới và đưa ra những kết luận sau:
– Ở những vùng mật độ dân cư thưa thớt, còn áp dụng lề lối
du canh, phụ nữ đảm nhận hầu hết công việc đồng áng.
– Ở những vùng mật độ dân số cao hơn, có công cụ như cày,
bừa nam giới làm nhiều công việc đồng áng hơn.
– Ở những vùng thâm canh, có tưới nước, cả nam và nữ cùng
tham gia lao động.
Trước đó Boserup đã có những nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp
rất có giá trị được các nhà nghiên cứu xã hội và quy hoạch sử dụng từ
lâu. Trong tác phẩm này, Boserup dùng giới như là một cơ sở để phân
tích, đặt trọng tâm vào sự phân công lao động và những tác động khác
nhau đối với giới của các chiến lược phát triển và hiện đại hóa.
Thuật ngữ phụ nữ trong phát triển được Ủy ban phụ nữ của
Washington D.C. sử dụng nhằm để kêu gọi sự chú ý của các nhà làm
chính sách Mỹ đối với khái niệm này. Các nhà phụ nữ học Mỹ luôn luôn
bênh vực cho sự hội nhập chính thức của phụ nữ, dựa trên cơ sở pháp lý
70
vào trong các hệ thống kinh tế. Họ đặt ưu tiên vào các chiến lược phát
triển và chương trình hành động nhằm giảm xuống mức thấp nhất
những thiệt thòi của phụ nữ trong hoạt động sản xuất và chấm dứt sự
phân biệt đối xử đối với họ.
Như vậy, cách tiếp cận của phụ nữ trong phát triển gắn liền với
những tiêu chuẩn của hiện đại hóa vốn là luồng tư tưởng chiếm ưu thế
trong sự phát triển của thế giới từ thập niên 1950 đến 1970. Trong thời
gian này, người ta cho rằng hiện đại hóa, công nghiệp hóa sẽ cải thiện
điều kiện sống của dân cư các nước đang phát triển. Người ta lập luận
rằng với sự phát triển giáo dục sẽ có một tầng lớp những người lao động
và những nhà quản lý giỏi; điều này đến lượt nó sẽ làm thay đổi các xã
hội nông nghiệp thành những xã hội công nghiệp hiện đại. Với sự phát
triển kinh tế của các nước này thì những thành quả của hiện đại hóa (sức
khỏe, điều kiện sống được cải thiện) sẽ lan tỏa ra khắp mọi thành
phần của xã hội. Sau này, quan điểm này còn được các kinh tế gia Mỹ
theo cách tiếp cận “nguồn vốn con người” ủng hộ. Họ chủ trương đầu tư
mạnh vào các hệ thống giáo dục và xây dựng một đội ngũ nòng cốt
những người lao động và quản lý giỏi. Trong các dự án này, rất hiếm khi
người phụ nữ được xem xét như là một yếu tố riêng để phân tích trong
những nghiên cứu về hiện đại hóa của thời kỳ này. Những kinh nghiệm
của nam giới được phổ quát hóa chung cho cả nữ giới. Người ta cho
rằng mọi người đều hưởng thụ như nhau một khi xã hội ngày càng được
hiện đại hóa.
Đến thập niên 1970, quan điểm về hiện đại hóa nêu trên bị nhiều
nhà nghiên cứu phê phán. Họ cho rằng địa vị của người phụ nữ được cải
thiện rất ít, thậm chí có nơi hoàn cảnh người phụ nữ có phần xấu đi. Ví
dụ: trong các ngành công nghiệp, phụ nữ bị đẩy xuống những công việc
có thu nhập thấp, có hại cho sức khỏe, vì phụ nữ có trình độ học vấn
71
thấp, và một phần vì họ được xem như không phải là người làm ra thu
nhập chính. Trong nông nghiệp, những nghiên cứu của thập niên 1970
xác nhận lại những phát hiện của Boserup, đó là những cải tiến kỹ thuật
thường hướng đến nam giới hơn là phụ nữ. Phụ nữ cũng ít được thừa
hưởng những lợi ích của học vấn.
Như vậy, trong phạm vi khái niệm phụ nữ trong phát triển, người
ta thừa nhận rằng những kinh nghiệm về phát triển của phụ nữ khác với
nam giới, từ đó củng cố hướng nghiên cứu chú trọng đến những kinh
nghiệm và cách nhìn nhận của phụ nữ trong các vấn đề liên quan đến
phát triển. Tuy nhiên, cách tiếp cận này đã dựa trên những giả thuyết về
phát triển đã bắt đầu bị phê phán trong thập niên 1970.
Các thống kê bắt đầu cho thấy là phụ nữ ít được hưởng những
thành quả của sự tiến bộ mà nhiều nước đã cố gắng thực hiện từ thập
niên 1960, do đó người ta cần có một chiến lược mới. Cho đến giữa thập
niên 1970, các tổ chức tài trợ bắt đầu thiết lập các chương trình can
thiệp để điều chỉnh những bất cân xứng trong phát triển. Trong nhiều
trường hợp, các giải pháp được chấp nhận là chuyển giao kỹ thuật, cung
ứng các dịch vụ kỹ thuật, vốn hoặc phát triển các kỹ thuật thích nghi
nhằm làm giảm bớt gánh nặng công việc của phụ nữ.
Cách tiếp cận phụ nữ trong phát triển khởi đầu từ chỗ chấp nhận
cơ cấu xã hội hiện hữu. Thay vì tìm hiểu lý do tại sao phụ nữ được
hưởng ít thành quả của các chiến lược phát triển trong quá khứ, cách
tiếp cận phụ nữ trong phát triển chỉ đặt trọng tâm vào việc làm thế nào
để người phụ nữ có thể hòa nhập tốt hơn vào các tiến trình phát triển.
Cách tiếp cận tránh được việc tìm hiểu nguồn gốc cũng như tính
chất của sự lệ thuộc và áp bức phụ nữ, mà chỉ bênh vực cho việc tham
gia bình đẳng hơn vào giáo dục, việc làm và các lãnh vực khác của xã
72
hội. Hơn nữa, vì WID gắn sâu vào lý thuyết hiện đại hóa nên nó không
thừa nhận sự đóng góp của những quan điểm triệt để hơn như lý thuyết
về sự lệ thuộc của Marx, cũng như những phân tích tân mác-xít. WID
cũng có xu hướng bỏ qua tác động của giai cấp, chủng tộc, văn hóa, và
có xu hướng phi lịch sử. WID xem giới là một đơn vị để phân tích
nhưng không thừa nhận có những sự phân chia và các mối quan hệ bóc
lột giữa phụ nữ với nhau, cũng không thừa nhận là sự bóc lột là một
thành tố của hệ thống tích lũy tư bản.
Cách tiếp cận WID có xu hướng chỉ đặt trọng tâm vào các khía
cạnh sản xuất của LĐ phụ nữ, không chú ý, hoặc rất ít, đến khía cạnh tái
sản xuất:ấu ăn, giặt giũ, chăm sóc con, việc nhà nghĩa là những hoạt
động giúp tái sản xuất sức lao động của cuộc sống người phụ nữ. Do đó,
những dự án kiểu WID thường nhắm đến các hoạt động tăng thu nhập
trong đó người phụ nữ được huấn luyện các kỹ năng nghề nghiệp, đôi
khi được tập hợp lại thành những hợp tác xã để làm tiếp thị. Một vài
khía cạnh về an sinh xã hội được thêm vào các dự án: giáo dục, vệ sinh,
chăm sóc sức khỏe Thông thường, những người làm dự án ít khi điều
nghiên thị trường sản phẩm, và nhất là không chú ý đến tình trạng phụ
nữ đã bị quá tải vì công việc và trách nhiệm. Giả thuyết thông thường là
hoạt động phát sinh lợi tức đã đủ hấp dẫn để thúc đẩy người phụ nữ sắp
đặt thời gian để tham gia dự án. Nhưng khi các dự án nâng cao thu nhập
thành công và có nguồn thu nhập quan trọng thì thường bị đàn ông
chiếm lấy. Cách tiếp cận WID không thể tự vệ trước thực tại này vì nó
không đấu tranh với những mối quan hệ xã hội về giới để tiến tới bình
đẳng giới. Nó dựa trên giả thuyết rằng các mối quan hệ về giới sẽ tự nó
thay đổi khi phụ nữ có vai trò đầy đủ trong phát triển.
73
2. Phụ nữ và phát triển (Women and Development – WAD):
WAD hay là cách tiếp cận tân mác-xít về nữ quyền mới xuất hiện
vào nửa sau của thập niên 1970. Theo cách nhìn này thì phụ nữ luôn
luôn là một phần của các quá trình phát triển. Một tác giả (Achola
Okello) cho rằng khái niệm “hòa nhập phụ nữ vào trong phát triển” gắn
rất mật thiết với việc duy trì sự lệ thuộc về kinh tế của các nước đang
phát triển đối với các nước phát triển.
Như vậy, cách tiếp cận WAD đặt trọng tâm vào các mối quan hệ
giữa phụ nữ và các quá trình phát triển hơn là các chiến lược hòa nhập
phụ nữ vào phát triển. Xuất phát điểm của cách tiếp cận này là phụ nữ
đã luôn luôn là một tác nhân kinh tế quan trọng trong xã hội của họ,
công việc mà phụ nữ thực hiện cả trong gia đình và ngoài gia đình đóng
vai trò trung tâm trong việc duy trì xã hội, nhưng sự hòa nhập này chỉ
góp phần duy trì cơ cấu của sự bất bình đẳng hiện nay trên bình diện
quốc tế. Cách tiếp cận WAD cho rằng nam giới các tầng lớp nghèo ở
các nước đang phát triển cũng là nạn nhân của cơ cấu bất bình đẳng trên
bình diện quốc tế, nhưng WAD lại không phân tích các mối quan hệ
giới trong nội bộ từng giai cấp. Dù sao ở mức độ lý thuyết, WAD đặt
trọng tâm vào tác động của giai cấp, nhưng ở mức độ xây dựng dự án,
WAD cũng có xu hướng như WID: tập hợp phụ nữ lại, không chú trọng
phân tách sự phân chia thành giai cấp, chủng tộc v.v để đấu tranh cho
địa vị của người phụ nữ.
WAD có một quan điểm có tính chất phê phán hơn WID về địa vị
của người phụ nữ, nhưng đã không phân tích được một cách đầy đủ các
mối quan hệ giữa chế độ gia trưởng, các phương thức sản xuất và sự lệ
thuộc, áp bức phụ nữ. Tóm tắt lại, WAD xem xét hoàn cảnh người phụ
nữ trước hết trong bối cảnh một cơ cấu bất bình đẳng giai cấp trên bình
74
diện quốc tế. Như vậy, vấn đề của người phụ nữ sẽ dần được giải quyết
nếu cơ cấu xã hội bình đẳng hơn. Quan điểm này không khuyến khích
việc nghiên cứu các vấn đề riêng của phụ nữ, vì cho rằng cả nam và nữ
đều chịu nhiều bất công về giai cấp.
WID và WAD đều có nhược điểm là chỉ chú trọng đến khía cạnh
sản xuất. Họ xem các hoạt động của phụ nữ trong gia đình (chăm sóc
con cái) là không có giá trị kinh tế; do đó, họ chỉ thường chú trọng
đến các hoạt động phát sinh nâng cao lợi tức.
3. Giới và phát triển (Gender and Development: GAD)
Xuất hiện trong thập niên 1980 thay thế cho những trọng tâm
nghiên cứu của WID trước đây. Nguồn gốc lý thuyết của nó được tìm
thấy trong thuyết nữ quyền theo khuynh hướng xã hội và đã lấp trống
được khoảng cách các lý thuyết về hiện đại hóa để lại bằng cách gắn kết
những mối quan hệ về sản xuất với các quan hệ về tái sản xuất bằng cách
xem xét tất cả các khía cạnh của đời sống người phụ nữ. Các nhà nữ
quyền theo khuynh hướng xã hội đã cho rằng cấu trúc xã hội về sản xuất
và tái sản xuất là cơ sở của sự áp bức phụ nữ và đặt trọng tâm phân tích
các mối quan hệ xã hội về giới, tìm hiểu tính chất của vai trò của phụ nữ
và nam giới trong các xã hội khác nhau. Tìm hiểu tại sao phụ nữ lại luôn
luôn có vai trò thứ yếu? Các nhà nghiên cứu nữ quyền theo khuynh
hướng xã hội cũng chú ý nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ gia trưởng
đối với vấn đề này.
Kate Young đã xác định một số điểm mấu chốt trong cách tiếp
cận GAD. Có lẽ điều có ý nghĩa nhất là GAD khởi đi từ một quan điểm
toàn diện, xem xét toàn bộ tổ chức xã hội, đời sống kinh tế – chính trị để
hiểu được sự hình thành của những khía cạnh khác nhau trong xã hội.
75
Như vậy, GAD quan tâm đến cấu trúc xã hội về giới và các vai
trò, trách nhiệm, mong ước của nam giới và phụ nữ, chứ không tách rời
đối tượng phụ nữ ra như là một đối tượng riêng biệt. Nói cách khác,
những phân tích GAD tìm hiểu xa hơn các vai trò của phụ nữ và nam
giới trong xã hội, GAD còn nghiên cứu các mối quan hệ giữa nam và
nữ, tác động của các mối quan hệ này đối với sự phát triển, và các lực có
thể duy trì hay là thay đổi các mối quan hệ này.
Như vậy, cách tiếp cận GAD không chỉ nhằm hòa nhập phụ nữ
vào trong phát triển mà còn nhằm tìm kiếm những tiềm năng về sáng
kiến phát triển nhằm biến đổi các mối quan hệ bất bình đẳng về giới và
tăng quyền lực cho phụ nữ. Mục tiêu dài hạn của GAD là sự tham gia,
hợp tác bình đẳng của cả nam và nữ trong việc xác định và xây dựng
tương lai chung cho họ.
Thay vì chỉ nhấn mạnh đến sự đoàn kết giữa phụ nữ với nhau,
GAD ủng hộ sự tham gia của nam giới để họ chia xẻ mối quan tâm của
họ về các vấn đề công bằng và công bằng xã hội.
Các nhà nghiên cứu nữ quyền xu hướng xã hội cũng như cách
tiếp cận GAD rất quan tâm đến sự áp bức phụ nữ trong gia đình và đi
vào “lãnh vực riêng tư” để phân tích các mối quan hệ vợ chồng. GAD
cũng nhấn mạnh đến sự tham gia nhiều hơn của nhà nước vào việc tăng
cường giải phóng phụ nữ, Nhà nước phải có nhiệm vụ cung cấp các
dịch vụ xã hội cho phụ nữ. Vấn đề này ngày càng trở nên có tính chính
trị trong thập niên 1980, vì có nhiều quốc gia đã giảm trợ cấp hoặc tư
nhân hóa các dịch vụ chăm sóc trẻ em và chăm sóc sức khỏe.
– GAD xem phụ nữ là tác nhân của những thay đổi, của phát
triển, chứ không đơn thuần là người thụ hưởng những hỗ trợ cho
phát triển, và họ nhấn mạnh rằng phụ nữ phải tự tổ chức lại và
76
phải có tiếng nói chính trị mạnh hơn.
– GAD thừa nhận tầm quan trọng của sự đoàn kết giai
cấp cũng như những sự phân biệt giai cấp, nhưng nhấn mạnh rằng
ý thức hệ gia trưởng tác động cả trong nội bộ giai cấp và xuyên
qua tất cả các giai cấp để áp bức phụ nữ.
– Một điểm mấu chốt mà GAD nhắm tới là tăng
cường các quyền hợp pháp của phụ nữ, kể cả những quyền thừa
kế và đất đai.
Vấn đề khó: cách tiếp cận GAD đi xa hơn WID, đòi hỏi phải có
sự thay đổi cơ cấu xã hội và thuyên chuyển quyền lực: xem ra đây là
một điều khó thực hiện ở mức độ quốc gia và quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dhmo_gioi_va_phat_trien_5932_2127888.pdf