Tài liệu Tài liệu dạy nghề kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch bông: BỘ CÔNG THƯƠNG
TẬP ĐOÀN DỆT - MAY VIỆT NAM
---*---
VIỆN NGHIÊN CỨU BÔNG & PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NHA HỐ
TÀI LIỆU DẠY NGHỀ
KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC
VÀ THU HOẠCH BÔNG
Người biên soạn: KS Trần Đức Hảo
Ninh Thuận - 2011
CHƯƠNG 1. NGHỀ TRỒNG BÔNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
1.1. Nghề trồng bông trên thế giới
Bông (Gossypium sp.) là loại cây trồng cho năng suất kinh tế lớn. Sản phẩm của cây bông vừa là nguyên liệu chủ yếu của ngành Dệt – May, vừa là nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp nhẹ, công nghiệp hóa chất Do vậy, cây bông được trồng ở hơn 80 quốc gia, với diện tích hàng năm khoảng 33-34 triệu ha và sản lượng đạt khoảng 20-25 triệu tấn bông xơ, có giá trị trên 20 tỷ USD. Cây bông chủ yếu được trồng tập trung ở các nước châu Á và châu Mỹ, trong đó châu Á chiếm 61% diện tích và đạt 63% sản lượng, châu Mỹ chiếm 24% diện tích và đạt 25% sản lượng bông thê...
64 trang |
Chia sẻ: khanh88 | Lượt xem: 737 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu dạy nghề kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hoạch bông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
TẬP ĐOÀN DỆT - MAY VIỆT NAM
---*---
VIỆN NGHIÊN CỨU BÔNG & PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NHA HỐ
TÀI LIỆU DẠY NGHỀ
KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC
VÀ THU HOẠCH BÔNG
Người biên soạn: KS Trần Đức Hảo
Ninh Thuận - 2011
CHƯƠNG 1. NGHỀ TRỒNG BÔNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM
1.1. Nghề trồng bông trên thế giới
Bông (Gossypium sp.) là loại cây trồng cho năng suất kinh tế lớn. Sản phẩm của cây bông vừa là nguyên liệu chủ yếu của ngành Dệt – May, vừa là nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành công nghiệp khác như công nghiệp nhẹ, công nghiệp hóa chất Do vậy, cây bông được trồng ở hơn 80 quốc gia, với diện tích hàng năm khoảng 33-34 triệu ha và sản lượng đạt khoảng 20-25 triệu tấn bông xơ, có giá trị trên 20 tỷ USD. Cây bông chủ yếu được trồng tập trung ở các nước châu Á và châu Mỹ, trong đó châu Á chiếm 61% diện tích và đạt 63% sản lượng, châu Mỹ chiếm 24% diện tích và đạt 25% sản lượng bông thế giới.
Các nước có diện tích bông đứng hàng đầu thế giới là Ấn Độ, Mỹ, Trung Quốc, Uzbekistan, Pakistan, Brazil, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Năng suất bông hạt trung bình trên toàn thế giới là 16,19 tạ/ha. Các nước có năng suất bông cao là Israel (40 – 50 tạ/ha), Úc (29 – 38 tạ/ha), Tây Ban Nha (30 – 36 tạ/ha), Syria (29 – 35 tạ/ha), Hy Lạp (22 – 29 tạ/ha), Trung Quốc (24 – 27 tạ/ha), Uzbekistan (22 – 27 tạ/ha), Ai Cập (21 – 25 tạ/ha) và Mỹ (18 – 20 tạ/ha).
Trong 10 năm trở lại đây bình quân năng suất và giá bông xơ có tăng nhưng với tốc độ chậm so với xu hướng tăng ngày càng nhanh của chí phí sản xuất do tăng giá vật tư đầu vào, chi phí lao động và một số chi phí thiết bị bổ sung và phụ trợ khác. Hiện tại, chi phí sản xuất trung bình khoảng 500 - 2500USD/ha tùy thuộc vào điều kiện sản xuất và mức năng suất đạt được (ICAC, 2008). Từ đó, thu nhập của người trồng giảm và khả năng cạnh tranh của cây bông so với các cây trồng khác thấp.
Bảng 1. Tình hình sản xuất bông của Thế giới
Năm
Diện tích (ha)
Năng suất bông hạt (tạ/ha)
Sản lượng bông hạt (tấn)
Sản lượng bông xơ (tấn)
1961
31.857.883
8,58
27.343.803
9.461.084
1962
32.177.124
9,09
29.253.188
10.214.767
1963
33.001.179
9,79
32.306.425
11.234.035
1964
33.681.776
9,99
33.656.757
11.730.610
1965
33.699.120
10,58
35.663.641
12.433.163
1966
31.529.967
10,66
33.624.329
11.629.122
1967
32.719.697
10,06
32.915.847
11.315.295
1968
33.114.197
10,77
35.678.502
12.287.730
1969
34.002.507
10,10
34.324.005
11.843.495
1970
34.149.528
10,38
35.443.518
12.045.372
1971
34.874.043
10,61
37.013.388
12.790.555
1972
35.529.533
10,92
38.803.536
13.413.730
1973
34.969.988
11,60
40.549.462
13.989.857
1974
34.904.334
11,82
41.245.475
13.985.104
1975
32.492.229
11,08
36.007.550
12.387.593
1976
31.844.570
11,00
35.038.715
11.966.689
1977
35.369.512
11,53
40.779.863
13.957.111
1978
35.434.971
10,93
38.729.247
13.237.829
1979
34.301.351
12,21
41.867.618
13.918.964
1980
34.327.779
12,01
41.214.185
13.920.955
1981
34.527.462
13,16
45.430.872
15.316.640
1982
33.175.254
13,29
44.104.451
14.845.532
1983
31.699.945
13,56
42.981.162
14.240.690
1984
34.551.169
15,87
54.823.538
18.133.682
1985
33.425.210
15,16
50.655.212
17.362.956
1986
30.857.976
14,36
44.309.614
15.172.916
1987
30.236.102
16,09
48.646.557
16.581.279
1988
33.936.770
15,64
53.081.294
18.274.352
1989
32.320.262
15,47
49.982.157
17.021.608
1990
33.139.217
16,39
54.308.340
18.638.103
1991
35.000.869
17,22
60.283.497
20.764.489
1992
33.920.953
15,35
52.053.558
17.985.155
1993
30.444.812
15,61
47.536.036
16.485.674
1994
32.084.313
16,43
52.717.205
18.362.689
1995
35.555.813
15,94
56.669.014
19.664.626
1996
34.606.395
16,08
55.648.196
19.391.284
1997
34.102.460
16,01
54.608.495
19.091.025
1998
33.553.490
15,54
52.126.163
18.213.727
1999
32.579.317
16,27
53.000.520
18.190.395
2000
31.926.649
16,62
53.058.192
18.626.772
2001
34.587.018
17,30
59.827.446
20.776.703
2002
30.702.710
17,23
52.887.009
18.378.623
2003
31.790.187
17,40
55.298.055
19.379.689
2004
35.168.021
19,84
69.768.305
24.374.857
2005
35.085.742
19,19
67.335.376
23.528.543
2006
32.918.000
22.208.000
2007
34.400.000
26.740.000
2008
33.500.000
25.700.000
2.2. Nghề trồng bông ở Việt Nam
Cây bông được loài người sử dụng rất sớm. Ở Việt Nam, nghề trồng bông dệt vải đã có từ thời xa xưa, trên 2.000 năm với chủng bông Cỏ (Gossypium arboreum L.). Chủng bông Luồi (Gossypium hirsutum L.) và bông Hải đảo (Gossypium barbadense L.) chỉ mới được du nhập vào nước ta hơn một thế kỷ nay.
Đối với Việt Nam, phát triển bông hiện tại cũng nằm trong xu thế chung của thế giới. Năng suất bông bình quân cả nước thấp (440 – 460kg xơ/ha) và tăng chậm. Hơn nữa, chi phí sản xuất cao, ước tính 11 – 12 triệu đồng/ha (570 – 600 USD/ha). Trung bình chi phí khoảng 1,1USD/1kg xơ, thuộc nhóm nước có chi phí sản xuất cao nhất (ICAC, 2008) và đang có xu hướng tăng theo giá cả vật tư, nhân công... hiện tại và sắp tới. Chính vì thế, các đơn vị sản xuất khó có thể dùng biện pháp tăng giá mua để kích thích người trồng, đồng thời, hiệu quả sản xuất bông thấp, rủi ro cao, cây bông mất ưu thế cạnh tranh so với cây trồng khác. Hơn nữa, một trong những hạn chế năng suất bông Việt Nam và làm tăng chi phí đầu vào là sâu hại (sâu đục quả, chích hút) và bệnh hại (như đốm lá, phấn trắng...) phổ biến ở các vùng.
Bảng 2. Tình hình sản xuất bông của Việt Nam
Niên vụ
DT
(ha)
NS bông hạt (tạ/ha)
SL bông hạt (tấn)
Niên vụ
DT
(ha)
NS bông hạt (tạ/ha)
SL bông hạt (tấn)
1975
-1976
6.753
3,34
2.256
1992
-1993
4.487
4,75
2.131
1976
-1977
11.660
2,48
2.892
1993
-1994
6.559
4,76
3.122
1977
-1978
10.258
2,94
3.016
1994
-1995
10.700
7,91
8.464
1978
-1979
6.661
3,36
2.238
1995
-1996
11.755
7,22
8.487
1979
-1980
6.525
3,24
2.114
1996
-1997
10.676
6,43
6.865
1980
-1981
7.008
3,93
2.754
1997
-1998
11.716
9,38
10.990
1981
-1982
11.329
3,07
3.478
1998
-1999
19.963
8,14
16.250
1982
-1983
13.443
3,05
4.100
1999
-2000
17.705
9,93
17.581
1983
-1984
14.065
3,22
4.529
2000
-2001
23.250
8,75
20.344
1984
-1985
13.777
2,53
3.486
2001
-2002
26.766
10,91
29.202
1985
-1986
12.904
2,83
3.652
2002
-2003
32.265
10,11
32.620
1986
-1987
13.171
2,96
3.899
2003
-2004
23.633
12,12
28.643
1987
-1988
13.216
2,95
3.899
2004
-2005
20.260
9,55
19.348
1988
-1989
10.356
3,63
3.759
2005
-2006
23.098
9,20
21.250
1989
-1990
11.863
3,72
4.413
2006
-2007
15.389
10,90
16.774
1990
-1991
23.831
3,03
7.221
2007
-2008
7.446
9,83
7.324
1991
-1992
15.434
4,92
7.594
Bảng 3. Tình hình sản xuất bông của Việt Nam trong những năm qua
Niên vụ
Vụ nước trời
Vụ có tưới
Tổng niên vụ
D.tích (ha)
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
D.tích (ha)
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
D.tích (ha)
N.suất (tạ/ha)
S.lượng (tấn)
01/02
24.112
11,01
26.552
2.654
9,94
2.638
26.766
10,91
29.190
02/03
28.931
9,81
28.367
3.334
12,78
4.260
32.265
10,11
32.627
03/04
19.316
11,48
22.169
4.317
15,01
6.481
23.633
12,12
28.650
04/05
18.647
8,75
16.308
1.613
18,91
3.050
20.260
9,55
19.358
05/06
21.223
8,12
17.233
1.673
20,32
3.400
22.896
9,00
20.623
06/07
14.145
10,39
14.700
1.300
20,00
2.600
15.445
11,20
17.300
07/08
6.830
9,00
6.122
616
19,51
1.202
7.446
9,83
7.324
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH CHỌN TẠO VÀ SỬ DỤNG
GIỐNG BÔNG TẠI VIỆT NAM
2.1. VAI TRÒ CỦA CHỌN TẠO GIỐNG BÔNG
Về chọn tạo giống: Cùng với các phương pháp truyền thống (nhập nội, chọn lọc quần thể, chọn lọc cá thể đối với giống thuần; lai đơn, lai ba và phân tích di truyền số lượng đối với giống lai), ứng dụng công nghệ sinh học đã được đẩy mạnh với các công nghệ chuyển gen, chọn giống nhờ chỉ thị phân tử.; hiện tại, diện tích bông biến đổi gen chiếm đến hơn 40% tổng diện tích bông thế giới (chủ yếu bông kháng sâu đục quả, chịu thuốc trừ cỏ và bông kết hợp hai tính trạng trên.
Công tác chọn tạo giống bông có các vai trò sau:
2.1. 1. Tăng giá trị đầu ra
Tăng năng suất xơ: chủ yếu dựa trên cơ sở tổ hợp hợp lý các yếu tố cấu thành năng suất nhằm tăng số hạt cây và trên một đơn vị diện tích – tức tăng số quả/cây hoặc/và tăng số hạt/quả.
Cải tiến chất lượng xơ: tiêu chuẩn các chỉ tiêu chính gồm chiều dài > 30mm, độ bền > 32gr/tex, độ mịn < 4,5M; trong đó, chú trọng sử dụng trực tiếp gen chất lượng xơ tốt của loài bông hải đảo hoặc chuyển các gen này vào loài bông luồi.
Tăng giá trị sử dụng của hạt bông như là một sản phẩm phụ: chủ yếu tạo giống có hàm lượng gossypol thấp trong hạt để sử dụng sản phẩm chế biến từ hạt như dầu, protein.
Tính thích ứng sinh thái phù hợp: đi kèm với tính thích ứng rộng trồng được nhiều vùng, vụ, cần chú trọng loại hình giống thích ứng hẹp để trồng ở những điều kiện cụ thể (chín sớm, chịu bất lợi ngoại cảnh như nóng, hạn cục bộ, mặn, ứng) nhằm tận dụng quỹ đất, thời vụ gieo trồng, khai thác triệt để tiềm năng của giống để đạt năng suất và chất lượng cao nhất.
2.2.2. Giảm chi phí sản xuất đầu vào
Chín sớm: với tổng thời gian một vụ 85%). Mặt khác, thời vụ ngắn là giải pháp kỹ thuật tiền đề để phát triển các vùng bông tập trung, trang trại trong cả 2 vụ có hiệu quả nhất.
Khả năng chống chịu sâu bệnh cao: tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học kết hợp với phương pháp truyền thống, tập trung chủ yếu các loại sâu bệnh hại chính, sâu đục quả (sâu xanh đục quả, sâu xanh da láng, sâu hồng), sâu chích hút (rầy, rệp, bọ trĩ, nhện đỏ), bệnh đốm cháy lá, phấn trắng; ưu tiên phát triển tính chống chịu nhiều mặt để tạo tính kháng bền vững và giảm thiểu chi phí phòng trừ.
2.2. TÓM TẮT TÌNH HÌNH CHỌN TẠO VÀ SỬ DỤNG GIỐNG BÔNG TẠI VIỆT NAM
2.2.1. Giai đoạn trước năm 1980
Chọn tạo và phóng thích các giống bông thường (TH1, TH2, MCU9, TM1, M456-10, D16-2).
2.2.2. Giai đoạn 1980 - 1995
Tiếp tục chọn tạo và sử dụng các giống bông thường (điển hình là giống C118).
Bắt đầu nghiên cứu tạo giống lai trong nước.
Nhập nội và thử nghiệm một số giống lai Ấn Độ, Israel (H4, Bioseed-7).
2.2.3. Giai đoạn 1995 - 2000
Đẩy mạnh chọn tạo giống bông lai F1 (theo định hướng nâng cao khả năng kháng rầy, tỷ lệ xơ và chất lượng xơ).
- Phóng thích và trồng phổ biến thế hệ giống lai thứ nhất (chủ lực là 03 giống L18, VN20, VN35: không kháng sâu, kháng rầy trung bình ® cao, tỷ lệ xơ trung bình khá, chất lượng xơ cấp I hoặc cao hơn;
- Bước đầu NC tạo giống lai cải tiến tỷ lệ xơ nhưng không thành công do các giống như NH14, NH38 kháng rầy yếu và chất lượng xơ không đạt yêu cầu).
2.2.4. Giai đoạn từ 2000 đến nay
Định hướng tạo giống: Tiếp tục chọn tạo và phổ biến giống bông lai và bước đầu thử nghiệm thế hệ giống bông thường mới:
- Đẩy mạnh hướng chọn tạo giống lai kết hợp kháng sâu và kháng rầy đồng thời nâng cao dần tỷ lệ xơ, chất lượng xơ và đưa tính chịu thuốc cỏ vào.
- Tạo giống bông thường kháng rầy, kháng sâu và chịu thuốc trừ cỏ Roundup.
Thành tựu:
- Chọn tạo và phóng thích thành công các giống lai kháng sâu thế hệ thứ hai (điển hình là 02 giống quốc gia VN15, VN01-2: kháng sâu cao, kháng rầy trung bình (VN15), cao (VN01-2), tỷ lệ xơ trung bình khá và chất lượng xơ tốt; sai quả nhưng quả nhỏ).
- Chọn tạo, công nhận tạm thời và cho phổ biến các giống lai kháng sâu thế hệ thứ ba (VN04-3, VN04-4 và VN04-5 (kháng sâu cao, kháng rầy trung bình-khá, quả to, tỷ lệ xơ cao và chất lượng xơ rất tốt).
- Chọn tạo và công nhận tạm thời một số giống lai bông thuần TM1KS và VN36PKS.
- Chọn tạo và đưa khảo nghiệm sản xuất một giống lai có mẹ là dòng bất dục đực gen; một số dòng/giống bông thường kháng rầy và kháng sâu.
2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA MỘT SỐ GIỐNG BÔNG TRỒNG PHỔ BIẾN Ở TÂY NGUYÊN
* Giống bông lai VN04-3
- Nguồn gốc: VN04-3 (TL.0034/D.20-20) là giống bông lai F1 cùng loài bông luồi (Gossypium hirsutum L./ Gossypium hirsutum L.), mẹ là dòng TL00-34 chọn lọc trong nước và bố là dòng D20-20 nhập nội từ Trung Quốc; được chọn lọc từ kết quả so sánh năm 2001-2003, khảo nghiệm và sản xuất thử từ 2004-2009; được công nhận giống quốc gia năm 2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Chín tập trung, thời gian sinh trưởng trung bình sớm (từ gieo đến nở quả 100-105 ngày. Cây sinh trưởng khỏe, dạng hình cân đối, lá to trung bình, xanh đậm, ít lông, có từ 2-3 cành đực. Hoa to trung bình, cánh hoa màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống sai quả, quả to (5,5-6.0g).. Tiềm năng năng suất cao, có thể đạt 35-45tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ cao (40-43%); giống có chất lượng xơ tốt với chiều dài xơ trung bình 32 - 33mm, độ bền 32 - 33g/tex, độ mịn 4,0 – 4,5M, độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9%).
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh trung bình yếu (cấp 3 – 4 theo thang 5 cấp), kháng sâu xanh cao, nhiễm nặng bệnh đốm cháy lá và nhiễm bệnh mốc trắng trung bình.
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; lưu ý khả năng kháng rầy yếu khi trồng trong vụ khô và ở các vùng/vụ có áp lực rầy xanh cao.
* Giống bông lai VN04-4
- Nguồn gốc: VN04-4 (TL.0035/D.20-9) là giống bông lai F1 cùng loài bông luồi (Gossypium hirsutum L./ Gossypium hirsutum L.), mẹ là dòng TL00-35 chọn lọc trong nước và bố là dòng D20-9 nhập nội từ Trung Quốc; được chọn lọc từ kết quả so sánh năm 2001-2003, khảo nghiệm và sản xuất thử từ 2004-2009; được công nhận giống quốc gia năm 2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Chín rất tập trung, thời gian sinh trưởng trung bình sớm (từ gieo đến nở quả 100-105 ngày). Cây sinh trưởng khỏe, dạng hình cân đối, đốt thân cành nhặt, lá to trung bình, xanh đậm, ít lông, có từ 1-2 cành đực. Hoa to trung bình, cánh hoa màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống sai quả, quả to (6,0-6,5g).. Tiềm năng năng suất cao, có thể đạt 35-45tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ cao (40-43%); giống có chất lượng xơ tốt với chiều dài xơ trung bình 32 - 33mm, độ bền 32 - 33g/tex, độ mịn 4,0 – 4,5M, độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9).
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh trung bình yếu (cấp 3 – 4 theo thang 5 cấp), kháng sâu xanh cao, nhiễm nặng bệnh đốm cháy lá và nhiễm bệnh mốc trắng trung bình.
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; lưu ý khả năng kháng rầy yếu khi trồng trong vụ khô và ở các vùng/vụ có áp lực rầy xanh cao.
* Giống bông lai VN01-2
- Nguồn gốc: VN01-2 (CS.95/VN36P) là giống lai F1 cùng loài bông luồi (G. hirsutum x G. hirsutum) giữa giống mẹ CS.95 (nhập nội từ Mỹ)và giống bố VN36P (nhập nội từ Israel); được chọn lọc từ kết quả so sánh năm 1998, khảo nghiệm và sản xuất thử từ 2000-2004; được công nhận giống quốc gia năm 2004.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: Thời gian sinh trưởng trung bình (từ gieo đến nở quả 110-115 ngày. Cây sinh trưởng rất khỏe, dạng hình cân đối và thoáng, lá to trung bình, xanh nhạt, nhiều lông, có từ 2-3 cành đực, cành quả nhiều và vươn dài. Hoa to trung bình, cánh hoa màu trắng và phấn màu trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Giống rất sai quả, quả to trung bình (4,5-5.0g). Giống biểu hiện ưu thế lai cao cả về sinh trưởng và năng suất so với bố mẹ và đối chứng trong các thí nghiệm so sánh và khảo nghiêm. Tiềm năng năng suất cao, có thể đạt 30-40tạ/ha trong điều kiện thuận lợi. Tỷ lệ xơ khá (36-38%); phẩm chất xơ tốt với chiều dài >30mm; độ mịn khá (4-4,5g); độ bền >30g/tex; độ đều >85% và độ chín tốt (>0.9%).
- Đặc tính nông học: Giống trồng thích hợp trong điều kiện trồng nhờ nuớc trời hoặc có tuới bổ sung, dễ trồng và có thể sử dụng ở hầu hết các vùng; khả năng kháng rầy xanh và sâu xanh khá, nhiễm bệnh mốc trắng. Giống rất sai hoa, quả, thời gian nở quả, thu hoạch kéo dài. Mặt khác, khả năng tái sinh và tự đền bù cao, nếu trong thời gian đầu gặp điều kiện không thuận lợi (sinh trưởng kém, sâu bệnh phá hại ), cần tiếp tục chăm sóc thời kỳ sau để tận dụng bông tái sinh.
*. Giống bông thuần VN36PKS
- Nguồn gốc: là giống bông thuần thuộc loài bông luồi (Gossypium hirsutum L.), được chọn lọc từ quần thể hồi giao (D97-5/TM1)BC4 ở thế hệ thứ 5; trong đó, giống mẹ nhận D97-5 được nhập nội từ Mỹ, nhiễm rầy xanh chích hút, kháng sâu xanh đục quả cao, tỷ lệ xơ cao, chất lượng xơ tốt và giống bố hồi qui TM1 nguồn gốc trong nước, nhiễm sâu đục quả, kháng rầy xanh khá, cứng cây, quả to, năng suất cao. Giống được công nhận tạm thời và cho phép sản xuất thử ở các vùng bông trong nước theo Quyết định số 210/QĐ-TT_CCN ngày 30/6/2010.
- Đặc tính sinh trưởng, thực vật học: thuộc nhóm chín trung bình muộn (thời gian nở quả 115 – 120 ngày); có khả năng sinh trưởng khỏe, tái sinh mạnh, thân lá rất nhiều lông, lá to trung bình, màu xanh bạc, quả dài nhọn, cuống quả dài, cánh hoa và hạt phấn trắng.
- Đặc tính năng suất, phẩm chất xơ: Sai quả, quả to trung bình (khối lượng quả 5,0 – 5,5g), tỷ lệ xơ khá (37 – 38%); chất lượng xơ đạt yêu cầu nguyên liệu công nghiệp Dệt May (chiều dài > 28mm; độ bền >28g/tex và độ mịn 4,6 -5,0M); cho năng suất bông hạt cao. Tại các vùng khảo nghiệm, năng suất trung bình VN36PKS đạt 26,4 tạ/ha (năm 2007); 30,7tạ/ha (năm 2008) và 27,3tạ/ha, tương đương với đối chứng đang trồng phổ biến là các giống bông lai VN15 và VN01-2. Trong điều kiện trồng mật độ cao, sử dụng các giống thường này mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn do giảm chi phí đầu vào và tăng năng suất quần thể.
- Khả năng chống chịu sâu bệnh: kháng rầy xanh chích hút cao (cấp 0 – 1 theo thang 5 cấp), kháng sâu xanh đục quả cao, nhiễm bệnh mốc trắng.
* Giống bông thường TM1
- Nguồn gốc: Thuộc loài bông luồi (G. hirsutum), chọn lọc từ quần thể lai tự nhiên giữa giống TH1 (chọn từ Camd 1-2 của Mỹ) và giống luồi địa phương Baghe (Bình Thuận); được chọn lọc và thuần hóa từ năm 1982-1985 tại Viện NCCB&CCS, khảo nghiệm từ 1986 và công nhận giống quốc gia năm 1992
- Vùng/vụ sản xuất: Thích hợp ở các vùng Nam Trung bộ (Ninh Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa trong vụ Mưa và vụ Đông Xuân.
- Đặc điểm sinh trưởng, thực vật học: Thời gian sinh trưởng trung bình (từ gieo đến nở quả 105-110 ngày). Cây khỏe, dạng hình tháp cân đối, thoáng, số cành quả vừa, có 1-2 cành đực, lá to trung bình, có nhiều lông cả 2 mặt do vậy trên ruộng nhìn có màu trắng bạc hơn so với các giống khác. Cành quả gấp khúc, mắt cuống lá thô, có nhiều cành nách, quả nách.
- Đặc điểm năng suất, phẩm chất xơ: Giống có quả to (khối lượng 5,0-5,5g); tiềm năng năng suất cao, trong điều kiện thuận lợi có thể đạt 20-25tạ/ha; tỷ lệ xơ trung bình khá (35-37%); xơ dài 25-27mm, độ mịn tốt (4,2Mi), độ bền 18-20g/tex, độ đều 47-48% và độ chín tốt (>90%).
- Đặc tính nông học: Giống có bộ rễ phát triển mạnh, chịu hạn tốt, có thể cho năng suất cao hơn các giống khác tại các vùng khô hạn; khả năng tái sinh, tự đền bù cao và kháng rầy.
CHƯƠNG 3. KỸ THUẬT CANH TÁC BÔNG
BÀI 1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ SINH THÁI
CỦA CÂY BÔNG
1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÂY BÔNG
1.1. Rễ bông
Rễ bông là bộ phận sinh trưởng sớm nhất của cây và thuộc loại rễ cọc, rễ chính có thể ăn sâu xuống đất 2 - 3 m và rễ ngang có thể ăn xa gốc tới 0,6 - 1 m, mạng lưới rễ tập trung chủ yếu ở tầng đất 5 - 30 cm tùy theo từng loại đất. Bộ rễ bông phát triển mạnh hay yếu tùy theo giống và điều kiện đất đai và kỹ thuật canh tác. Khi đủ ẩm, hạt bông nảy mầm và rễ bắt đầu phát triển. Sự hình thành bộ rễ bông có thể được phân thành 4 giai đoạn như sau:
- Thời kỳ rễ phát triển: Từ khi hạt nảy mầm đến khi cây bông bắt đầu có nụ. Trong thời kỳ này trung bình rễ có thể dài được 2 cm/ngày đêm, trong khi các bộ phận trên mặt đất chỉ tăng được 0,4 - 0,5 cm/ngày đêm.
- Thời kỳ rễ sinh trưởng mạnh: Kể từ khi ra nụ, mỗi ngày đêm rễ cái có thể dài thêm 2,5 cm và rễ phụ có thể ăn rộng ra xung quanh gốc bông tới 50 cm.
- Thời kỳ rễ đạt sức hút lớn: Trong thời gian cây bông ra hoa và kết quả, về cơ bản bộ rễ đã hoàn thiện, sức hút của rễ đạt tối đa, đây cũng là thời kỳ cây bông cần nhiều dinh dưỡng nhất.
- Thời kỳ suy thoái của bộ rễ: Khi quả bắt đầu nở, rễ bông bắt đầu suy tàn và năng lực hấp thụ của rễ giảm rõ rệt.
Để đạt được năng suất cao cần có những biện pháp kỹ thuật tác động để tăng khả năng hút dinh dưỡng của bộ rễ. Các yếu tố ngoại cảnh như dinh dưỡng trong đất, thành phần lý hóa tính đất, ... cần phải thuận lợi cho sự phát triển của bộ rễ.
1.2. Thân và cành bông
Thân chính của cây bông cao từ 0,7 - 1,5 m tùy theo giống và điều kiện môi trường. Trên thân bông có 20-30 đốt, các lóng ở phần gốc và ngọn cây thường ngắn hơn ở giữa. Thân cây thường có lông, riêng loài bông hải đảo có thân nhẵn. Thân thường có màu xanh hoặc đỏ tía, màu sắc thân đậm hay nhạt tùy theo tuổi cây và giống. Người ta thấy rằng trong một giống bông, chiều cao của thân có xu hướng tương quan thuận với tiềm năng năng suất. Cây bông có hai loại cành là cành đực (monopodial) và cành quả (sympodial). Cành đực thường mọc từ đoạn thân sát đất, cành đực không trực tiếp ra hoa, quả mà từ cành đực mới mọc ra các cành thứ cấp mang quả (chúng giống như thân chính). Cành quả là cành được mọc từ thân chính hay mọc từ cành đực.
Nhìn chung có ba dạng cây bông khác nhau đó là cây có dạng cành đực (monopodian), cành quả (sympodian) và cành cấp 0 (không có cành quả). Tùy theo các dạng cành khác nhau mà chúng tạo nên cây có dạng hình tháp, bụi hoặc trụ.
Dạng cây cành đực: Là dạng cây đặc trưng cho các loài bông hoang dại hay một số giống bông một năm ở vùng nhiệt đới. Những cây có dạng cành này là loại bông có cành quả đầu tiên mọc ở nách lá thứ 13 - 30.
Dạng cây cành quả: Những loài bông được thuần hóa và trồng trọt hiện nay chủ yếu thuộc dạng cành quả và cành quả đầu tiên nằm ở nách lá thứ 3 - thứ 10 và các cành đực hoàn toàn nằm ở nách lá dưới của những nách lá của cành quả đầu tiên. Cành đực ở đây chỉ ra hoa và kết quả ở cành thứ cấp. Số lượng cành đực trên cây thường do đặc tính của giống quy định, tuy nhiên cây có thể tự điều khiển số lượng cành đực, nếu mật độ gieo trồng dày thì số lượng cành đực ít. Cành quả được hình thành từ nách lá phụ và ra hoa, quả trực tiếp trên cành, cành quả mảnh dẻ và có dạng dích dắc. Số lượng cành quả/cây thường do giống quy định, thông thường có 20 - 25 cành quả/cây và cành dài 20 - 60 cm.
Bông có dạng cành cấp 0 được tạo ra bởi đột biến tự nhiên, dạng này cây không có cành quả, quả được đính trực tiếp vào các nách lá trên thân cây.
1.3. Lá bông
Bông là loại cây 2 lá mầm. Cứ mỗi đốt trên thân chính và trên cành đều có một lá và chúng mọc theo kiểu so le. Trên lá có rất nhiều hạch độc (gossypon), đặc tính này của cây bông nhằm chống lại sâu, bệnh. Mặt dưới lá có tuyến mật (nectary) để hấp dẫn côn trùng trong việc thụ phấn của cây, tuy nhiên, vẫn có những giống bông không có hạch độc và tuyến mật do đột biến tự nhiên tạo nên. Một đặc tính quan trọng nữa của lá bông là ở 2 mặt của lá thường có lông. Độ lông trên lá có liên quan đến tính chống chịu sâu chích hút như rầy xanh, bọ trĩ, nhện đỏ.
Thông thường lá bông có màu xanh, trong những trường hợp đột biến thì lá có màu đỏ. Hình dạng lá bông và diện tích lá ở các giống và loài khác nhau rất khác nhau và đa dạng. Thông thường, các loài bông trồng trọt có dạng lá xẻ thành 3 thùy nông, các loài hoang dại có dạng lá xẻ thùy sâu.
1.4. Nụ, hoa và quả bông
Nụ bông được ra trên cành quả. Nụ bông xuất hiện cùng với cành quả thứ nhất. Nụ hình tháp cân được bao bọc bằng 3 lá bắc. Thời gian từ khi hạt nảy mầm đến khi nụ thứ nhất xuất hiện kéo dài 20 - 30 ngày tùy theo giống và điều kiện môi trường. Thông thường mỗi nụ được mọc ra từ một nách lá ở trên cành quả. Những giống bông có kiểu nụ mọc chùm hoặc mọc ở thân chính là những trường hợp được tạo ra do đột biến hoặc do kết quả của sự kết hợp giữa những giống bông dạng cành quả bình thường với những giống bông có dạng cành cấp không.
Hoa bông là loại hoa lưỡng tính, bao gồm các phần chính là nhụy, nhị, bầu và 5 cánh hoa. Hoa bông có nhiều đặc điểm đặc trưng cho giống và loài. Cánh hoa và hạt phấn hoa của 2 loài bông cỏ và hải đảo có màu vàng đậm, còn ở loài bông luồi có màu trắng sữa hoặc vàng nhạt. Trong tràng hoa của loài bông hải đảo và 2 loài bông cỏ có vết sắc tố antoxian (antocyanin - màu đỏ tía), còn ở loài bông luồi không có sắc tố này. Ở gốc hoa có tuyến mật. Những đặc điểm trên của hoa bông nhằm để hấp dẫn côn trùng giúp cho sự thụ phấn của hoa được dễ dàng. Thời gian khi hạt nảy mầm đến khi hoa thứ nhất nở kéo dài 45-70 ngày tùy theo giống và điều kiện môi trường.
Hoa bông thường bắt đầu nở vào thời gian từ 7 - 9 giờ sáng tùy theo nhiệt độ và ẩm độ môi trường, nếu nhiệt độ cao thì hoa nở sớm. Bình thường hạt phấn có sức sống tốt trong 24 giờ kể từ sau khi hoa nở. Sau khi hoa nở được 24 - 48 giờ thì quá trình thụ tinh được hoàn thiện. Bông được coi là cây tự thụ phấn, song tỷ lệ giao phấn chéo khá cao 1-12%, thậm chí có thể lên tới 20%.
Quả bông thuộc loại quả nang, được hợp thành bởi 3 - 5 lá noãn, mỗi lá noãn chiếm một phòng của quả. Vỏ quả có chứa hạch độc và diệp lục, song khả năng quang hợp của vỏ quả hầu như không có. Khối lượng của quả bông thường đạt 3-6 g, thông thường các giống thuộc loài bông luồi có khối lượng quả lớn nhất, tiếp đến loài bông hải đảo và sau cùng là bông cỏ. Loài bông cỏ châu Á, châu Phi và hải đảo có dạng quả dài và đầu quả nhọn hơn so với loài bông luồi. Quả bông có từ 3-5 múi, các múi bông có hạt bông và xơ dính quanh hạt. Quả bông có hình cầu, khi chín các múi bung ra.
1.5. Hạt bông
Hạt bông có màu nâu đen và hình bầu dục, nhọn một đầu, bao gồm lông áo, vỏ và nội nhũ. Lông áo là phần ngoài cùng bám vào vỏ hạt và có màu trắng nhạt hoặc nâu vàng. Mức độ lông áo đặc trưng cho các loài bông trồng trọt hiện nay. Các giống thuộc loài bông cỏ và bông luồi thường có lớp lông áo dày, loài bông hải đảo thường có lông áo rất mỏng, thậm chí không có lông áo (hạt nhẵn). Khối lượng hạt bông là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng của hạt và cấu thành nên tỷ lệ xơ của giống. Thông thường khối lượng 100 hạt của các giống thuộc loài bông hải đảo là 8 - 10 g, của 2 loài bông cỏ là 7 - 8 g và của loài bông luồi là 8 - 13g. Trên cùng một cây thì quả ở gần thân chính và gần gốc có khối lượng hạt lớn hơn khối lượng hạt ở những quả tại các vị trí khác trên cây.
1.6. Xơ bông
Xơ bông là sản phẩm chính của cây bông. Cùng với năng suất, sự phát triển của sản xuất bông phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất xơ bông. Phẩm chất xơ bông rất khác nhau ở mỗi giống cũng như ở các loài, thông thường các giống thuộc loài bông hải đảo có phẩm chất xơ tốt nhất, tiếp đến loài bông luồi và cuối cùng là 2 loài bông cỏ châu Á và châu Phi. Tuy nhiên, xơ của mỗi loài bông có vai trò khác nhau trong việc sản xuất các sản phẩm khác nhau không thể thay thế cho nhau được. Xơ bông được hình thành chủ yếu từ xenlulô (90%), ngoài ra còn một tỷ lệ rất thấp các chất khác chiếm 10%.
Bản chất của xơ bông là một tế bào có dạng hình ống dẹp, rỗng giữa chứa đầy chất nguyên sinh, được sinh trưởng từ tế bảo biểu bì ngoài của vỏ hạt, có độ dài bằng 1000 - 5000 lần so với bề rộng của nó. Xơ bông chín có dạng xoắn hình ống, từ ngoài vào trong có 3 lớp: Lớp biểu bì bằng cutin, lớp sơ cấp và lớp thứ cấp, trong cùng là một khoang rỗng.
Một cấu trúc điển hình của xơ bông là hệ thống rỗng bao gồm nhiều lỗ nhỏ tạo thành dạng xốp như tổ ong. Đặc tính cấu tạo tự nhiên này của xenlulô tạo nên tính hút, bám và trơ đối với độ ẩm, không khí, ... của xơ bông. Cấu tạo ở hệ thống tổ ong này khác nhau ở các giống, loài là một trong những nguyên nhân tạo nên tính chất cơ lý của xơ khác nhau giữa các giống, loài.
Một cấu trúc quan trọng khác nữa của xơ là sự đồng đều kết dính với nhau giữa các mắt xích phân tử trong các vi sợi, tạo nên tính bền của xơ tạo nên khả năng co giãn và tính dẻo của sợi được kéo từ xơ bông tự nhiên. Sự sắp xếp có định hướng của các phân tử quyết định đến độ xoăn các vi sợi trong lớp thứ cấp của xơ và ảnh hưởng đến độ bền và sức căng của xơ bông.
2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI CỦA CÂY BÔNG
Bông là cây trồng cạn ưa nóng có nguồn gốc từ những vùng khác nhau trên thế giới tùy theo loài, song chúng đều xuất xứ ở các vùng có khí hậu nhiệt đới hoặc á nhiệt đới. Mặc dù có nguồn gốc xứ nóng, song hiện nay bông được trồng trải dài từ 47 - 48 vĩ độ Bắc (Bắc Biển Đen) đến 30 vĩ độ Nam, gần Narrabri- Úc và Áchentina. Hơn 50% diện tích bông được trồng từ 30 vĩ độ Bắc trở lên. Điều này đã nói lên tính thích nghi rộng của cây bông. Tuy nhiên, hiện nay những vùng có năng suất bông cao đều là những vùng có khí hậu lục địa và bông được trồng trong điều kiện có tưới, thâm canh cao và trên các loại đất trung tính (pHKCl = 6,5 - 7,5) có kết cấu viên bền vững, thoát nước tốt.
2.1. Yêu cầu về nhiệt độ của cây bông
Để cho cây bông sinh trưởng và phát triển bình thường, kể cả giai đoạn nảy mầm, nhiệt độ không khí tối thích là 25 - 300C. Yêu cầu tổng tích ôn của cây bông biến động từ 15600C - 20000C tùy theo giống. Nếu nhiệt độ thấp hơn 250C thì cây bông sinh trưởng chậm lại và gần như ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ giảm xuồng 170C. Nhiệt độ tối thiểu để cho hạt nảy mầm là 120C và để hình thành lá sò là 160C. Nếu nhiệt độ cao (37-400C) thì cây bông ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ cao ảnh hưởng mạnh nhất ở giai đoạn cây bông ra hoa rộ, trong những ngày mùa hè cây bông chủ yếu phát triển vào ban đêm khi nhiệt độ đã giảm xuống. Tuy nhiên, vẫn có những loài bông hoang dại có thể phát triển được trong điều kiện nhiệt độ 400C, những loài bông này nhiệt độ tối cao cho chúng là 450C.
Nếu nhiệt độ vượt khỏi nhiệt độ tối ưu ở giai đoạn cây bông ra nụ - giai đoạn đầu của chu kì sinh trưởng phát triển thì cây bông sinh trưởng nhanh hơn so với ở điều kiện nhiệt độ tối thích, tuy nhiên cây bông có thể xuất hiện một số biến thể về hình thái như vị trí ra cành quả thứ nhất thấp hơn hoặc số lượng cành đực/cây tăng hơn. Nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối đa của cây cũng làm giảm khả năng thụ phấn, trong trường hợp này quả bông thường rụng nhiều và có nhiều hạt lép. Nếu nhiệt độ cao hơn 400C thì hạt phấn mất khả năng thụ phấn hoàn toàn.
Nhiệt độ môi trường cao hay thấp ảnh hưởng rất lớn đến quá trình quang hợp, hô hấp, khả năng hút dinh dưỡng và vận chuyển các chất trong cây dẫn đến thực tế là thúc đẩy hoặc làm chậm lại sự sinh trưởng và phát triển của cây bông. Nhiệt độ cao hay thấp cũng ảnh hưởng đến sự hình thành xơ bông. Trong giới hạn nhiệt độ không khí tối thích cho sự sinh trưởng của cây bông, nếu nhiệt độ tăng thì sự sinh trưởng về chiều dài xơ kém, song sự sinh trưởng về bề rộng của xơ được tăng lên.
2.2. Yêu cầu về ánh sáng của cây bông
Bản chất của cây bông là ưa ánh sáng, không chịu được rợp, trong một ngày lá bông luôn thay đổi vị trí để làm cho phiến là vuông góc với hướng của ánh sáng mặt trời để lá nhận được nhiều ánh sáng. Ánh sáng được coi là yếu tố sống còn đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây bông.
Trong điều kiện thiếu ánh sáng, cường độ quang hợp của cây giảm, cây bông sinh trưởng và phát triển chậm và vóng, thời gian phát dục qua các giai đoạn kéo dài, nụ, hoa và quả rụng nhiều.
Thời gian chiếu sáng trong ngày cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây bông. Cây bông sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện đêm dài và ngày ngắn. Trong điều kiện ngày dài, cây bông phát triển chậm và bước vào giai đoạn sinh trưỏng sinh thực chậm so với điều kiện ngày ngắn. Ngược lại, thời gian chiếu sáng trong ngày dài, cây bông phát triển nhanh và bước vào giai đoạn sinh trưởng sinh thực sớm.
2.3. Yêu cầu về nước của cây bông
Nghiên cứu về nhu cầu nước của cây bông, nhiều tác giả đã ví bông là cây “chân ướt đầu khô”, điều đó cho thấy cây bông cần nhiều nước cùng với ẩm độ không khí thấp cho sinh trưởng và phát triển của mình, tuy nhiên, bông là cây chịu hạn tốt. Để sinh trưởng và phát triển bình thường và cho năng suất cao thì cây bông đòi hỏi phải có chế độ nước thích hợp.
Trong chu kỳ sinh trưởng, cây bông cần 500 - 800m3 nước/ha. Nhu cầu nước của cây bông khác nhau ở những giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây. Khi diện tích quang hợp của lá còn ít (giai đoạn trước khi cây có nụ), bình quân 1 ha đất trồng bông cần 10 - 12 m3. Nhu cầu nước của cây bông tăng nhanh và cao ở giai đoạn cây có hoa và hình thành quả (giai đoạn nụ 1 ha cần 30 - 35 m3, giai đoạn hoa nhu cầu này là 90 - 100 m3 và nhu cầu nước giảm đi ở giai đoạn nở quả là 30 - 40 m3/ha). Những vùng có lượng mưa thấp hơn 500 mm/6 tháng chỉ có thể trồng được bông nếu có tưới.
Tuy cây bông cần nhiều nước nhưng lại không chịu úng. Khi bị úng, đất thiếu oxy, sự hô hấp của rễ bị trở ngại, quá trình trao đổi ion bị đình trệ, rễ ngừng sinh trưởng và chết.
Cây bông yêu cầu độ ẩm không khí thấp. Nếu độ ẩm không khí cao, nấm bệnh dễ xâm nhiễm, phát triển làm cho cây bông dễ bị rụng nụ, rụng đài, quả bông dễ thối, chín muộn và khó nở quả.
2.4. Yêu cầu về đất đai và dinh dưỡng của cây bông (trình bày chuyên đề riêng)
BÀI 2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CÂY BÔNG
DÙNG LÀM CƠ SỞ CHO KỸ THUẬT CANH TÁC BÔNG
1. Sinh lý hạt bông
* Hạt bông: Hạt màu nâu đen hình bầu dục nhọn một đầu. Cấu tạo hạt bông gồm: - Lông áo
- Vỏ
- Nhân Nội nhũ
Phôi
Lông áo là lớp xơ ngắn bao quanh vỏ hạt. Cũng từ vỏ hạt các tế bào biểu bì ngoài phân hóa ra tế bào xơ bông chiếm 31-40%/trọng lượng bông hạt.
Thành phần hóa học của hạt bông:
Protein
21,7%
N
3,0%
CaO
0,2%
Gluxit
45,6%
P2O5
1,1%
MgO
0,54%
Lipit
21,4%
K2O
1,25%
Tro
3,96%
Hạt bông khi gia công thu được:
Lông áo 5% Nhân 40%
Vỏ hạt 32% Dầu bông 18% trọng lượng
Trọng lượng 100 hạt: Bông cỏ 5-7 gam
Bông luồi 8-13 “
Hải đảo 8-10 “
* Giai đoạn ngủ nghỉ và nảy mầm
Hạt bông mới thu hoạch xong có năng lực và sức nảy mầm thấp, vì trong những hạt bông đó có một số chất làm cản trở sự nảy mầm của hạt, mặt khác sự chín của hạt giống bông chưa đạt mức độ cao (chưa hoàn toàn chín) Thí dụ: Acide absisic và Paracunaric tồn tại trong vỏ hạt. Các thí nghiệm cho thấy, nếu loại bỏ vỏ hạt thì sự nảy mầm hạt bông đến sớm hơn thường lệ, hoặc nếu tác động liên tục lên hạt bông trong những ngày ở nhiệt độ 50oC thì cũng làm cho sự nảy mầm đến sớm, vì quá trình này làm cho các chất cản trở bị loại trừ. Trong khi bảo quản trong điều kiện thích hợp thì cũng làm cho hàm lượng các acide này giảm xuống đáng kể.
Trong hạt bông độ ẩm thường là 7% nước. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều nước cho thấy, với lượng nước trong hạt bông như trên, trong điều kiện 20-32oC thì sự nảy mầm có thể bảo quản được đến tháng thứ 28.
Nếu ẩm độ hạt 14% và nhiệt độ 21oC thì sau 17 tháng sẽ hoàn toàn mất khả năng nảy mầm, nhiệt độ 32oC thì sau 4 tháng khả năng nảy mầm mất hoàn toàn. Nguyên nhân là do độ ẩm cao kết hợp với sự tăng nhiệt độ dẫn đến sự giảm đột ngột hàm lượng đường, các chất chứa phospho, các Nuclotit, protein và các vitamin, và sự tăng lên của các acid béo tự do. Ví dụ: ở trong hạt bông có độ ảm 15% thì hàm lượng acide béo tự do tăng lên 24 lần so với hạt có độ ẩm 7%.
Trong thời gian bảo quản 1-2 năm, trong hạt bông hàm lượng một số Amino acide tăng lên (Cerin, Sistin) và acide Asparagin và Glutamic cũng tăng lên 2 lần. Nhiều loại protein có hoạt tính men hoàn toàn mất đi, những điều tra nêu trên cho thấy đó là những nguyên nhân làm cho sự nảy mầm của hạt giống giảm đi trong quá trình bảo quản.
Chúng ta thấy rằng sự hút nước của bất kỳ loại hạt giống nào cũng phụ thuộc vào 2 yếu tố chính: Hàm lượng nước trong hạt và độ ẩm không khí nơi cất giữ hạt giống.
Vấn đề bảo quản đòi hỏi phải thiết lập được sự cân bằng độ ẩm có thể được. Với độ ẩm không khí cao, mà hạt giống có độ ẩm thấp, đương nhiên phải có sự hút nước, và sự cân bằng đó bị phá vỡ, trong hạt xuất hiện nước tự do và các quá trình trao đổi tăng nhanh. Lượng nước trong hạt tăng lên đến 12-13%, sự hô hấp bắt đầu tăng lên, quá trình trao đổi tăng nhanh chóng, dẫn đến mất sức nảy mầm của hạt giống. Nếu bảo quản ở điều kiện có ẩm độ không khí 70% thì sau tháng thứ 20 khả năng nảy mầm bị mất, Ngược lại, trong điều kiện tối ưu với độ ẩm 20% khả năng nảy mầm có thể bảo quản đến tháng thứ 70. Rõ ràng rằng độ ẩm trong quá trình bảo quản ảnh hưởng lớn đến sự nảy mầm của hạt giống bông.
Nếu đối với hạt sử dụng vào quá trình công nghiệp khác (ép dầu,), để tránh mất các chất dinh dưỡng tiêu tốn vào quá trình hô hấp, thì hạt bông cần phải đem sấy khô.
Đối với hạt giống thì không được sấy, mà phải được phơi vài nắng nhẹ.
Các yếu tố ngoại cảnh chính cần thiết cho sự nảy mầm
* Nước: Nước tham gia vào nhiều phản ứng hóa học xảy ra trong hạt giống và là môi trường để tồn tại các hoạt động sống của cây, nó là yếu tố ngoại cảnh cần thiết để “Đánh thức” hạt giống sau một chu kỳ sinh trưởng (Seed to seed).
Sự hút nước chủ yếu qua mocropile (đầu nhỏ) và Khalaza (đầu to) của hạt, ngoài ra nước cũng được thấm qua vỏ hạt. Sự hút nước của hạt phụ thuộc vào thành phần của hạt (các chất hòa tan trong nước như đường, acid hữu cơ, acid amin, tinh bột, protẻin, xenlulo, lipit, karotin).
* Nhiệt độ: Nhiệt độ là yếu tố tạo điều kiện cho sự xâm nhập của nước vào hạt. Ví dụ: ở nhiệt độ 15oC độ ẩm của hạt có thể đạt 50% sau 48-60 giờ, và nếu ở nhiệt độ 30oC thì độ ẩm trên có thể đạt sau 24-36 giờ.
Đối với cây bông nhiệt độ trung bình tối thiểu để hạt bắt đầu nảy mầm là 12-14oC, tuy nhiên có những giống nhiệt độ này thấp hơn; nhiệt thích hợp cho nảy mầm là 25-30oC.
* Oxy: Ngoài nước và nhiệt độ hạt giống còn cần oxy cho quá trình nảy mầm. Sự thiếu oxy thường xảy ra trong các trường hợp hạt bông gieo bị mưa to hoặc mưa kéo dài tạo nên váng bề mặt hoặc giống được gieo sâu trong điều kiện khu ruộng ẩm ướt.
Thiếu oxy, trong hạt hình thành rượu Etylic (acid lactic) và các sản phẩm thải khác gây độc hại cho sự nảy mầm của hạt bông.
Các biện pháp tăng khả năng nảy mầm
Tuy với kích thước và trọng lượng bé, nhưng hạt bông chứa đầy đủ những thành phần cần có của hạt giống để chờ điều kiện thuận lợi phát triển thành cá thể hoàn toàn độc lập về mọi mặt. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi hạt đều được nảy mầm, mà nguyên nhân không nảy mầm đó rất đa dạng và phức tạp đã được các nhà nghiên cứu tổng hợp như sau:
Có một số hạt cứng như đá, các giống Tashkent, cản trở sự xâm nhập của nước vào hạt, làm cho hạt chậm hoặc kém nảy mầm. Để khắc phục nguyên nhân trên người ta sử dụng phương pháp xử lý nước nóng 100oC trong vài giây (làm cho vỏ hạt nứt ra) hoặc xử lý bằng rượu Etylic và Axeton trong 2-3 phút (các chất cản trở xâm nhập của nước vào hạt sẽ hòa tan trong rượu và axeton).
Kích thước và trọng lượng riêng của hạt giống không đồng đều, do vậy sự nảy mầm của chúng cũng không đồng đều.
Để tăng khả năng nảy mầm hạt giống phải được chọn lọc phân loại theo trọng lượng riêng. Hạt giống có trọng lượng lớn có nghĩa là có chứa nhiều protein, lipit và nhiều chất khác cần thiết cho sự nảy mầm. Tất nhiên chúng sẽ nảy mầm tốt hơn các hạt giống có trọng lượng bé hơn. Nếu loại có trọng lượng hạt lớn nảy mầm 95% thì loại hạt có trọng lượng trung bình đạt 92% và loại hạt nhẹ chỉ đạt 73%. Có thể dùng dung dịch Nitrat amôn (NH4NO3) với trọng lượng riêng: 1; 1,04; 1,07; 1,12; 1,14 và 1,16 để tách hạt giống. Hạt nào nhẹ hơn nổi lên trên sẽ không dùng làm hạt giống (phương pháp này hơi khó làm).
* Bằng biện pháp canh tác cũng có thể tăng khả năng nảy mầm của hạt giống:
- Canh tác lô bông giống trên nền đầy đủ dinh dưỡng, tạo đều kiện cho hạt bông chứa đầy đủ các chất hữu cơ và chất khoáng. Đây là yếu tố cần thiết cho hạt nảy mầm. Theo tài liệu nhiều nước cho thấy rằng canh tác bông trong điều kiện thiếu phospho thì trong các bộ phận tạo quả chứa ít phospho (0,3%), nếu thu làm hạt giống thì tỷ lệ nảy mầm thấp (không đáng kể). Ngược lại, nếu trong bộ phận tạo quả có chứa 0,8% phospho thì hạt giống nảy mầm bình thường.
- Độ sâu lúc gieo hạt cũng là một yếu tố quyết định sự nảy mầm của hạt giống. Gieo nong trên bề mặt hạt thiếu ẩm, ngược lại gieo quá sâu hạt thiếu oxy và thừa ẩm.
Trường hợp gieo quá sâu, sự trao đổi khí giữa hạt đang nảy mầm và không khí bị phá vỡ, trong đất hàm lượng acid cabonic tăng lên và oxy giảm, phá vỡ các quá trình chuyển hóa các chất dinh dưỡng, tạo thành nhiều chất độc làm cho hạt chết. Do đó, độ sâu khi gieo hạt phải thích hợp (phần này trình bày ở phần kỹ thuật canh tác bông).
2. Các giai đoạn phát triển của cây bông
* Giai đoạn nảy mầm (từ khi nảy mầm đến xòe lá mầm): 4-7 ngày.
Hạt tốt rồi chưa đủ, muốn mọc nhanh, mọc đều phải có nhiều điều kiện khác mà cơ bản nhất là nhiệt, ẩm và oxy.
Nhiệt: Tốt nhất 25-30oC, dưới 10oC và trên 40oC hạt hầu như không mọc, 55-60oC mà ẩm thì hạt chết.
Độ ẩm: 90% độ ẩm (giữ nước) của đất.
Oxy: Cần nhiều, đất nặng gieo xong gặp mưa, đất đóng váng là hạt không mọc.
Ở miền Nam, nhiệt độ nói chung thích hợp, vấn đề chính là cần giải quyết tốt mâu thuẫn giữa độ ẩm và độ thoáng (ẩm quá mất thoáng, thoáng quá mất ẩm).
Ở hạt bông lại có vấn đề trút vỏ ngoài và ngoi lên mặt đất, cho nên khi gieo hạt phải bảo đảm độ ẩm thích hợp, làm đất nhỏ vừa phải, độ sâu thích hợp và độ nén đất vừa phải.
* Giai đoạn cây con (từ khi xòe hai lá mầm đến khi có nụ): 24-36 ngày.
Giai đoạn này là giai đoạn rễ được phát triển ưu tiên và cuối giai đoạn cành và lá mới bắt đầu phát triển.
a) Cũng như các sinh vật cao cấp, đây là giai đoạn thơ ấu, cây bông rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh và nếu phát triển không tốt ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng về sau. Điều kiện để phát triển tốt là: Nước, oxy, dinh dưỡng đủ.
Điều kiện tối thích lúc này là: nhiệt độ đất > 20oC, nhiệt độ không khí 25-30o C. Đất đủ ẩm, thoáng, không được bão hoà nước. Từ nẩy mầm-ra lá thật đầu tiên, nếu trời ấm (25oC), ẩm thì hết 5-6 ngày, nếu trời lạnh (nhiệt độ < 15oC) kéo dài 15 - 16 ngày và sau đó cứ 2 - 6 ngày ra 1 lá thật.
Thiếu nước, thiếu oxy cỏ lấn hoặc tỉa không kịp thời cây chen chúc. Thiếu dinh dưỡng làm cho cây còi cọc, ảnh hưởng rất lớn đến các giai đoạn sau.
Các biện pháp kỹ thuật cần chú ý trong giai đoạn này là:
- Tỉa kịp thời
- Làm cỏ sớm
- Xới
- Chỉ tưới nước khi cần và tưới nhẹ, và không để úng.
b) Thường ở đốt thứ ba (lá thật thứ 3) có khi sớm hơn như ở bông cỏ đốt thứ 2 bắt đầu ra cành và thường là cành đực, có khi là cành quả (giống không cành đực). Phân biệt cành đực với cành quả chủ yếu ở chỗ cành đực không trực tiếp ra hoa.
Sau khi ra 1-2-3, có khi tới 12-14 cành đực (như ở bông Ba Ghe) thì đến các cành quả. Từ thấp lên cao cành quả dài thêm, có nhiều đốt (hoa) hơn, đến mức tối đa ở cành thứ 4-7 rồi sau đó lại ngắn dần (tán cây hình thoi). Cành quả có nhiều loại hình 0, 1, 2, 3, 4, cũng khi do ảnh hưởng của ngoại cảnh, sau khi ra một số cành quả rồi, cây bông lại ra 1-2 cành đực phía trên (nhiệt độ, phân bón). Đó là biểu hiện sinh trưởng mạnh hơn phát dục.
Ở nách cành quả, ở nhiều giống còn có cành phụ, cành phụ có thể là một cành đực (lá), một cành hoa hoặc một hoa.
Mục đích của trồng bông là ra nhiều hoa quả, vậy cây bông ra nhiều cành lá, cành nách thì không có lợi. Nhiều cành lá khó phun sâu, quang hợp kém, rụng quả nhiều. Muốn có nhiều quả ít lá phải chọn giống, bón phân tưới nước hoặc tháo nước đúng cách, có khi phải can thiệp một cách cơ giới (đánh cành lá), bấm ngọn
* Giai đoạn nụ-hoa (25-35 ngày) và ra hoa rộ
a) Từ nụ đến hoa trong điều kiện miền Nam chỉ 20-25 ngày và nếu tính từ ngày gieo đến khi nở hoa đầu tiên chỉ cần 55-60 ngày, sau đó hoa cứ tiếp tục nở mãi và trong thời gian này trên cây bông luôn luôn có hoa, quả non, quả già. Thời gian cây bông có hoa có thể kéo dài 2 tháng, nhưng cũng có thể rút ngắn lại 1 tháng hay hơn một chút bằng cách chọn giống, điều tiết nước, phân, trừ sâu tốt. Rút ngắn thời gian bông có hoa rất lợi vì thời gian này cây bông rất mẫm cảm với sâu nhất, công trừ sâu và chăm sóc khác sẽ giảm đi nếu ra hoa qủa tập trung.
b) Trình tự nở hoa: hoa nở dần theo trình tự xuất hiện nụ từ dưới lên trên (1-2 ngày) và từ trong ra ngoài (5-6 ngày). Cần chú ý quy luật này vì chất lượng xơ bông tuỳ thuộc nhiều vào vị trí quả bông trên cây. Ở Thanh Hóa, Vũ Công Hậu đã nghiên cứu kỹ ảnh hưởng của vị trí đến chất lượng trên những cây bông thuộc giống Quầy Vịt (xem sách Kỹ thuật trồng bông trang 57). Nói vắn tắt: “Trừ vài quả ở sát gốc do độ ẩm cao, đất cát dính vào, bông thu hoạch những lứa đầu (bông gốc) là những bông tốt nhất về chất lượng hạt cũng như chất lượng xơ.
c) Quy luật nở hoa thụ phấn: Nụ hoa chiều hôm trước phồng lên, sáng hôm sau khoảng 7-9 giờ thì nở. Hoa to, màu sặc sỡ, có nhiều tuyến mật nên hấp dẫn côn trùng mang phấn ở cây bông khác tới. Như vậy, côn trùng, không phải là gió, là môi giới thụ phấn. Tỷ lệ ngoại hoa thụ phấn khá cao (2-3 đến 20%), do đó gen hình của cây bông không ổn định, khác với các cây tự hoa thu phấn chặt chẽ như lúa, đậu.. và các cây này gen hình ổn định, độ đồng đều cao hơn.
Mặt khác, công nghiệp se sợi, dệt vải bằng xơ bông hiện nay rất hiện đại, đòi hỏi xơ bông phải đồng đều về nhiều tính năng (độ bền, độ mịn, độ chín, độ đều xơ) nên bắt buộc phải có giống bông thuần, và đảm bảo độ thuần cho giống bông khó hơn ở những cây tự hoa thụ phấn.
Muốn cho giống bông thuần, khó có thể ngăn cản ong, bướm đến lấy mật hoa bông (ở trại thí nghiệm phải buộc túi từng hoa một). Phương pháp đơn giản là chỉ trồng một giống. Ong, bướm có mang phấn hoa lạ đến thì cũng là phấn hoa của cùng giống bông đó, do đó vẫn bảo đảm được độ thuần.
d) Thụ phấn tốt thì đậu quả. Không đậu quả thì hoa rụng, ta gọi là rụng đài, nếu rụng thì quả non rụng từ ngày thứ 2-3 đến ngày thứ 10 kể từ khi hoa nở, sau ngày thứ 10 nếu quả không rụng thì coi như quả đã đậu.
Tỷ lệ rụng đài ở cây bông thường cao, do đó phải tìm cách hạn chế. Trước hết nếu bị sâu ăn nụ, hoa, hay quả non thì đài thế nào cũng rụng. Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng nhiều nhất đến rụng đài là độ ẩm không khí cao, hoa nở gặp trời mưa đầu, đất qúa tốt, bón nhiều phân đạm bông bốc lá. Cũng có giống bông rụng đài nhiều, giống bông rụng đài ít. Ví dụ bông luồi rụng nhiều hơn bông hải đảo. Giống chín muộn thường rụng nhiều hơn giống chín sớm.
Đứng về mặt kỹ thuật canh tác, bắt đầu từ khi hoa nở, và đặc biệt trong khi nở hoa là thời kỳ nhựa lưu thông mạnh, nhựa sống được hút từ đất qua rễ lên cành lá, chất dinh dưỡng tập trung vào hoa, quả non, rất hấp dẫn đối với sâu. Thời kỳ này phải chú ý:
Nụ, hoa nhiều, quả non nhiều, tập trung nhiều sâu đục quả, nhất là sâu xanh rất phàm ăn nên phải rất cảnh giác trong việc phòng trừ sâu.
Nước cần phải đầy đủ, tuyệt đối không để cho ruộng bông bị hạn, phải tưới nhiều nhưng thoát nước cũng phải nhanh, nếu bị úng cũng như bị hạn, đài sẽ rụng hàng loạt.
Quang hợp mạnh, cần ánh sáng, cần thoáng, không để cho bông bốc lá và nếu nhiều lá quá có thể phải bấm ngọn, đánh lá, nhưng chú ý không đánh lá quá nhiều, “chột” cây bông.
* Giai đoạn quả nở
a) Từ khi hoa nở đến khi quả nở phải mất một thời gian từ 42-55 ngày tuỳ giống, tuỳ quả to nhỏ. Nếu tính từ khi gieo qua các giai đoạn phát dục, trong điều kiện thuận lợi, phải mất một thời gian như sau:
- Gieo – mọc 4-7 ngày
- Mọc – nụ 28-36 “
- Nụ - hoa 25-35 “
- Hoa – nở quả 42-55 “
99-133 ngày
Còn 40-50 ngày nữa quả tiếp tục nở hết rồi nhổ cây.
Sau khi thụ phấn tốt, đài không rụng thì quả bông lớn dần.
Nửa thời gian đầu 20-25 ngày quả lớn rất nhanh nhưng vẫn còn mầm non, sâu xanh, sâu loang rất thích ăn, sâu hồng cũng hay đến đẻ.
Cũng nửa thời gian đầu xơ bông (tế bào lớp ngoài của biểu bì hạt) dài ra rất nhanh nhưng vỏ xơ còn mỏng.
- Nước và nắng là hai yếu tố cần thiết nhất cho bông lúc này, nhưng càng về sau nước càng ít đi và nắng càng cần nhiều hơn.
b) Khi quả đã già, thành thục hoàn toàn thì vỏ quả mất nước co lại, trụ giữa bị linhin hóa cứng, không co được nên bị sức kéo của vỏ kéo vỡ thành 4-5 mảnh tùy theo số Carpel múi, múi bông bị phơi ra nhưng còn dính vào mảnh vỏ quả.
Xơ bông khô đi và nở bồng lên, múi bông dính nhiều hay ít vào vỏ, nở tốt hay xấu tùy giống nhưng cũng tùy vào thời tiết, nhất là nắng và khô.
Có những giống bông quả nở ít hoặc phải bóc vỏ để lấy bông ra, có những giống bông hễ chín thì múi bông rơi xuống đất.
Vậy phải tùy giống mà xác nhận thời gian thu hoạch nhưng nói chung, phải để bông nở toác chỉ nhặt lấy múi, không bứt cả quả về rồi mới gỡ múi, bỏ vỏ, nhưng cũng không nên để lâu quá trên cây, xơ kém phẩm chất do bụi, nắng gió, rệp và bọ chích hút châm vòi vào hạt.
BÀI 3. ĐẤT TRỒNG BÔNG TẠI TÂY NGUYÊN
1. Lý tính đất
Cây bông có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy nhiên, bông sinh trưởng tốt trên những loại đất có nhiều màu, có cấu tượng viên bền vững, thành phần cơ giới trung bình, thoát nước tốt, tầng canh tác dày. Mặt khác, cây bông chịu úng kém, do đó đất trồng bông phải có địa thế cao ráo và có mực nước ngầm trong đất 1,0-1,5 m là thích hợp.
Đất trồng bông không được đọng nước, úng thủy trong thời gian cây sinh trưởng. Do đó, chỉ có các loại đất cao như các nhóm đất đỏ Latosol, đất vàng đỏ podzolic, đất xám podzolic, đất giồng, đất đen, đất phù sa không ngập nước cạnh các bờ sông mới có thể gieo bông được đầu mùa mưa. Những đất thoái hóa, tầng đá ong dày, lại ở gần mặt đất không thích hợp cho bông.
Ở vùng Tây Nguyên, đất có ưu điểm nổi bật về mặt lý tính. Mặc dù có thành phần sét cao (>50%) nhưng lại rất thoáng khí. Chế độ nước và khí của đất đỏ bazan là một mẫu hình tuyệt vời cho sự dung hòa có lợi cho sự phát triển của cây trồng.
Ở nước ta nói chung các loại đất phù sa ven sông (Eutric Fluvisols), đất cát đỏ (Rhodic Arenosols), đất nâu (Haplic Lixisols) và các loại đất trồng hoa màu thoát nước tốt đều rất thích hợp để trồng bông. Ở vùng núi Tây Nguyên, các loại đất đen (Luvisols), đất xám (Haplic Acrisols), đất đỏ bazan (Rhodic Ferralsols) trên các chân đất đồi dốc, thoai thoải rất thích hợp cho việc trồng bông trong vụ mưa.
2. Hóa tính đất
Tại vùng bông Tây Nguyên, cây bông thường được trồng trên 3 loại đất chính, đó là: đất đen, đất đỏ bazan và đất xám.
+ Đất đen (Luvisols): Đây là loại đất có diện tích khá lớn. Loại đất này có độ chua và hàm lượng các nguyên tố dinh dưỡng thích hợp cho sinh trưởng của cây bông. Cây bông trồng trên loại đất này thường cho năng suất cao và ổn định; ngoài ra nó còn không bị cạnh tranh với các loại cây công nghiệp dài ngày.
+ Đất đỏ Bazan (Rhodic Ferralsols): Loại đất này phần lớn là đất chua, nghèo Cation trao đổi. Cây bông trồng trên loại đất này thường có hiện tượng chết cây con sau khi mọc, cây còi cọc và năng suất không cao. Hơn nữa, cây bông thường xuyên bị cạnh tranh bởi các cây công nghiệp dài ngày.
+ Đất xám (Haplic Acrisols): Đây là loại đất nghèo dinh dưỡng. Cây bông trồng trên loại đất này không bị cạnh tranh với các cây trồng khác nhưng thường cho năng suất và hiệu quả kinh tế kém.
Một số đặc tính lý hóa chính của đất trồng bông vùng này có thể được tóm tắt như sau:
Bảng 3. Tính chất hóa học của đất trồng bông chính vùng Tây Nguyên.
Chỉ tiêu
Đất xám
Đất đỏ Bazan
Đất đen
Số mẫu phân tích
30
15
45
pH KCl
4,57
4,65
5,38
Ca++ (mE /100 gr đất)
2,45
2,26
11,41
Mg++ (mE /100 gr đất)
1,02
1,08
8,06
CEC (mE /100 gr đất)
7,19
8,24
24,92
Lân dễ tiêu (mg P2O5 /100 gr đất)
8,38
9,21
13,20
Kali dễ tiêu (mg K2O /100 gr đất)
10,54
18,85
30,92
Mùn tổng số (%)
1,32
3,30
3,20
3. Tiêu chuẩn đất trồng bông
Để mở rộng diện tích và nâng cao năng suất bông ở Việt Nam, hàng loạt các vấn đề kỹ thuật đã được đặt ra; trong đó, đất đai cũng đang là yếu tố hạn chế năng suất và hiệu quả kinh tế của cây bông. Môi trường hóa học đất không thích hợp đang là vấn đề lớn, hạn chế việc mở rộng diện tích và nâng cao năng suất bông.
Kết quả nghiên cứu về đất đai và dinh dưỡng cho cây bông ở Việt Nam cho thấy, sinh trưởng và năng suất bông luôn có tương quan thuận với trị số pHKCl của đất, tổng các cation trao đổi, độ no bazơ, hàm lượng lân và kali dễ tiêu trong đất. Ngược lại, sinh trưởng và năng suất bông luôn tồn tại tương quan nghịch với độ chua thủy phân, độ chua trao đổi và đặc biệt là hàm lượng nhôm di động trong đất. Đồng thời, các nghiên cứu cũng đã xác định được một trong những tiêu chuẩn chính để chọn đất trồng bông, đó là:
+ Trên đất có pHKCl 3,5 mg /100g đất thường xảy ra hiện tượng chết cây bông con.
+ Những loại đất có hàm lượng nhôm di động trong khoảng từ 1 đến 3,5 mg /100 g và pHKCl gần bằng 4,5 thì cây bông có thể sống nhưng còi cọc và ít có khả năng cho năng suất.
+ Trên đất có pHKCl > 4,5 và hàm lượng Al3+ < 1 mg /100 g đất, cây bông có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt.
Kết luận:
1. Năng suất bông hạt luôn có mối tương quan nghịch với các chỉ tiêu độ chua và tương quan thuận với các chỉ tiêu về độ bão hòa các bazơ, hàm lượng kali, lân dễ tiêu và canxi trao đổi cũng như mùn tổng số. Tuy nhiên tùy loại đất và hóa tính của nó mà có thể yếu tố này hay yếu tố kia trở thành quan trọng hơn.
2. Sự phản ứng của cây bông đối với các chỉ tiêu hóa tính đất cho thấy cây bông rất ưa đất gần trung tính và hơi kiềm. Các loại đất trẻ ít bị rửa trôi, đất phù sa mới, đất có đá mẹ giàu các nguyên tố kiềm, đất vùng khô hạn là những loại đất thích hợp cho cây bông. Ngược lại các loại đất bị rửa trôi mạnh, đất chua, nghèo các nguyên tố kiềm và kiềm thổ không thích hợp cho việc trồng bông.
3. Hiện tượng cây bông con chết hàng loạt là do đất bị rửa trôi mạnh, làm nghèo hầu hết các cation kiềm và kiềm thổ, đồng thời làm tăng độ chua và nhôm di động trong đất, gây độc cho rễ cây.
4. pH thấp chỉ là một biểu hiện của đất bị rửa trôi hoặc bị khai thác mạnh. Ngoài ra sự suy giảm canxi, magie, kali trao đổi, lân dễ tiêu, độ no bazơ và sự tăng lên của nhôm di động trong đất là các biểu hiện đồng thời của loại đất này mà tùy theo mức độ có thể từ làm giảm năng suất đến làm chết cây bông con ngay từ khi mới mọc.
5. Đối với đất phát triển trên bazan ở Đắc Lắc, sự chua hóa do rửa trôi gắn rất chặt với sự nghèo đi của hàm lượng kali trao đổi. Vì vậy hàm lượng kali trao đổi trong đất có tương quan rất chặt với sinh trưởng của cây bông.
Chú ý:
1. Do nguyên nhân bông chết không chỉ đơn thuần là một yếu tố nên chưa phân định được rạch ròi ranh giới, tuy nhiên để tránh trồng bông vào những đất gây chết hoặc làm bông còi cọc suốt vụ, không cho năng suất, chúng tôi đề nghị sử dụng ngưỡng pH an toàn cho cây bông là pHKCl > 4,5 hoặc hàm lượng kali trao đổi > 15 mg/100 g đất cho vùng đất đỏ bazan.
2. Để gìn giữ và tăng cường độ phì cho đất trồng bông, chống hiện tượng chua hóa, mất khả năng canh tác trong các năm sau cần chú ý sử dụng các dạng phân trung tính và kiềm, tránh hoặc hạn chế dùng các loại phân chua sinh lý với số lượng lớn. Cần chú ý sử dụng các loại phân chứa nhiều nguyên tố kiềm và kiềm thổ như vôi, phôt phát nghiền, thecmophosphat v. v... Riêng phân kali - là loại rất cần cho đất đỏ bazan trồng bông - thì vẫn phải bón đủ số lượng thích hợp nhưng nên cân đối với phân lân kiềm (Thermofosfat) để làm giảm sự chua hóa của đất.
4. Kỹ thuật làm đất
- Vệ sinh đồng ruộng: trước khi gieo bông cần tiêu hủy tàn dư, cây ký chủ của các đối tượng sâu, bệnh hại bông.
- Đất phải được cày bừa kỹ, đảm bảo tơi xốp và dễ canh tác. Rạch hàng vuông góc với hướng mặt trời mọc với khoảng cách hàng từ 0,7 - 0,8m; trong điều kiện đất bằng phẳng, nên cắt băng từ 7-10m, nếu đất dốc, cắt băng ngắn hơn để tiện cho việc tưới tiêu.
BÀI 4. ĐIỀU KIỆN THỜI TIẾT, THỜI VỤ TRỒNG VÀ MẬT ĐỘ TRỒNG
CỦA VÙNG BÔNG TÂY NGUYÊN
1. Điều kiện thời tiết vùng bông Tây Nguyên: Bao gồm các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Gia Lai.
Đây là vùng có rất nhiều triển vọng đối với cây bông. Chế độ mưa ở vùng này chia thành 2 nhóm khác nhau rõ rệt. Số liệu khí tượng nhiều năm cho thấy: Phía Tây Trường Sơn, mùa mưa bắt đầu vào cuối tháng 4; mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng 200 đến 300mm /tháng và hơn 20 ngày mưa/tháng. Mùa mưa ở đây thường kết thúc vào cuối tháng 11.
Thời vụ gieo bông cho vùng Tây Trường Sơn có thể được tiến hành từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8 hàng năm. Kết quả điều tra cho thấy, nông dân vùng Tây Trường Sơn gieo bông chủ yếu tập trung trong tháng 7. Trong đó, thời vụ gieo cho năng suất cao nhất là cuối tháng 6 và đầu tháng 7 dương lịch.
Bảng 4. Số liệu khí tượng trung bình nhiều năm tại Cư Jút-Đắk Nông.
Tháng
Nhiệt độ không khí (oC)
Ẩm độ (%)
Số giờ nắng/tháng
Lượng mưa (mm)
Số ngày mưa/ tháng
T.bình
Max.
Min.
1
21,6
34,1
13,1
78
204,7
4,0
1
2
22,6
35,6
14,8
77
207,0
16,1
1
3
25,0
37,6
14,8
73
247,6
26,4
2
4
26,0
37,8
19,8
78
198,3
157,1
12
5
25,6
37,2
20,5
83
186,8
215,6
17
6
25,1
33,8
19,6
85
185,6
210,5
19
7
24,5
32,9
19,7
87
163,8
222,4
19
8
24,3
32,4
20,1
88
161,2
274,3
21
9
24,0
31,8
19,7
89
134,2
262,4
21
10
23,8
31,8
18,8
88
134,1
240,2
17
11
22,6
32,0
14,1
86
140,9
151,0
8
12
21,3
31,2
10,1
84
126,2
49,6
5
Sơ đồ 1. Chế độ mưa và thời vụ gieo bông cho vùng Tây Trường Sơn.
Thời vụ gieo bông
Đầu mùa mưa
Cuối mùa mưa
Các tháng mưa nhiều
Thời vụ gieo cho cây trồng vụ 1
Thời kỳ nở quả và thu hoạch
Chế độ mưa
Mùa mưa
Mùa khô
Tháng
4
5
6
7
8
9
10
11
12
1
2
3
2. Mật độ và phương pháp gieo hạt
- Mật độ gieo thích hợp khoảng từ 5,5 - 6,0 vạn cây/ha, tương ứng với khoảng cách hàng là 0,7 - 0,9m x 0,20 - 0,25m x 1 cây.
- Gieo hạt ở bên mép luống, phía mặt trời mọc, độ cao gieo hạt là 2/3 luống so với đáy rãnh. Gieo 1-2 hạt/hốc, khoảng cách hốc 0,20-0,25m, độ sâu lấp hạt 1-1,5cm và nén chặt hạt.
BÀI 5. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA CÂY BÔNG
VÀ VIỆC BÓN PHÂN CHO CÂY BÔNG
1. Vai trò của một số nguyên tố đối với cây bông
Cây bông cũng như các cây trồng khác cần rất nhiều nguyên tố dinh dưỡng, trong đó các nguyên tố đa lượng như N, P và K chiếm hàm lượng lớn. Chúng có nhiều trong hạt và lá, thứ đến là trong thân và quả, rất ít trong xơ. Trong sản xuất người ta chỉ cung cấp N, P, K cho cây bông dưới dạng phân bón.
Vai trò của một số nguyên tố đối với cây bông như sau:
- Nitơ (N): là chất cây bông cần để sinh trưởng và phát dục, là thành phần cấu tạo nên các chất protein, acid nucleic, diệp lục tố, các loại men và các loại sinh tố. Không có nguyên tố nitơ thì không thể hình thành các chất protein và không có protein thì không có sự sống. Do đó ảnh hưởng của N tới sinh trưởng và phát dục của cây bông hết sức to lớn. Cung cấp phân đạm đầy đủ có thể tăng diện tích lá, hàm lượng protein, diệp lục kết quả quang hợp và các hoạt động sinh lý khác cũng tăng lên và làm tăng năng suất, tăng chiều dài xơ, hàm lượng protein và dầu trong hạt. Trong từng giai đoạn sinh trưởng, cây bông hút N theo tỷ lệ khác nhau:
Từ khi gieo đến hình thành cây con: 4,4% tổng lượng N
Từ giai đoạn cây con đến bắt đầu ra nụ: 12,8% tổng lượng N
Từ khi ra nụ đến bắt đầu hình thành quả: 43,3% tổng lượng N
Từ khi hình thành quả đến khi chín: 39,5% tổng lượng N
Nếu thiếu đạm thì cây bông sinh trưởng và phát triển chậm, thấp, bé, phiến lá nhỏ và có màu xanh nhạt, tổng số cành quả trên cây ít, nụ và hoa rụng nhiều, quả nhỏ và nhẹ dẫn đến năng suất bông thấp. Nếu thừa đạm cây sinh trưởng dinh dưỡng mạnh, lá to và phiến lá mỏng, lóng dài, nhiều cành đực, cây vóng, nụ ít và bé, đài rụng nhiều, quả chín muộn và cũng dẫn đến năng suất thấp.
- Photpho (P): P là nguyên tố cấu tạo nên acid nucleotic, protein, acid amin và ATP cùng các chất hóa học khác. P tham gia hoạt hoá quá trình quang hợp, nâng cao cường độ quang hợp, cải thiện dinh dưỡng P của cây trồng, tăng cường sự hợp thành các chất đường bột. P là một thành phần của men trao đổi NH4+ và NO3-, tham gia vào quá trình chuyển hóa N có lợi cho việc hấp thu phân đạm. P xúc tiến bộ rễ phát triển, đẩy nhanh sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực, làm cho cây bông sớm ra nụ, ra hoa, xúc tiến hạt mau chín, nở xơ, tăng hàm lượng dầu trong hạt, tăng khối lượng quả, độ bền xơ...
Một hecta bông không được tưới lấy đi ở đất khoảng 45kg P2O5 và chia cho từng giai đoạn sinh trưởng của cây bông như sau:
Gieo- giai đoạn cây con: 2,5%
Cây con- ra nụ hoa đầu tiên: 7,8%
Nụ hoa đầu tiên- trái lớn đầu tiên: 3,4%
Trái lớn đầu tiên- trái chín: 56,0%
Nếu bông có tưới với năng suất đạt trên 40 tạ/ha hấp thu lên đến 80 kg P2O5/ha. Cứ mỗi kiện bông xơ (220 kg) cần bón khoảng 24-25kg P2O5.
Khi thiếu lân cây bông sinh trưởng chậm, bộ rễ kém phát triển, lá có màu lục tối, cây nhỏ và thấp ra hoa và quả khó khăn, đậu quả kém, chín muộn, quả nhỏ, hạt lép nhiều và năng suất thấp.
- Kali (K): Kali là nguyên tố có số lượng lớn nhất trong các nguyên tố vô cơ có mặt trong cây bông. Trong cây bông, kali chủ yếu phân bố ở các tổ chức có trao đổi vật chất mãnh liệt. Kali hoạt hóa của hơn 60 loại men trong cơ thể sinh vật và nó xúc tiến các hoạt động trao đổi chất như quá trình chuyển hóa đường ở cây bông, xúc tiến quá trình quang hợp, xúc tiến sự hình thành protein, tổng hợp các hydrat cacbon và vận chuyển chúng, xúc tiến quá trình tổng hợp xelluoza...
Khi thiếu kali, cây bông xuất hiện sự mất màu xanh lục, sau đó chuyển sang vàng, rồi ngọn lá và rìa lá khô đi, quăn xuống phía dưới, sau cùng toàn bộ phiến lá chuyển sang màu đỏ nâu. Thiếu kali nặng làm lá khô và rụng, quả nhỏ, nở khó, độ chín của xơ thấp.
- Các nguyên tố dinh dưỡng khác
Trong cây, magiê (Mg) vừa là yếu tố cấu tạo (cấu tạo nên các sắc tố chlorophyll) vừa là chất hoạt hóa của nhiều loại men. Magiê ảnh hưởng đến quá trình hình thành gluxit, lipit và protein; ảnh hưởng đến quá trình hút và vận chuyển P trong cây. Khi thiếu magiê, lá trở nên vàng hay trắng, nếu thiếu nhiều có thể bị rụng lá non.
Lưu huỳnh (S) tồn tại trong protein và có liên quan đến sự hình thành diệp lục. Thiếu lưu huỳnh làm lá bị vàng do cây bị mất diệp lục và hình thành sắc tố autoxian, đốt ngắn, thân nhỏ, hệ rễ phát triển kém và chậm ra hoa, biểu hiện bên ngoài hơi giống hiện tượng thiếu N.
Sắt (Fe) là thành phần của nhiều men oxy hóa, rất cần cho sự tổng hợp của diệp lục tố.
Ngoài ra, các nguyên tố vi lượng Ca, Mg, S, Zn, B, Mn, Cu, Mo, Na, Cl cũng là các nguyên tố ảnh hưởng trực tiếp đến số quả/cây và năng suất bông hạt. Các nguyên tố trên cũng ảnh hưởng đến chỉ số khối lượng quả khô và khối lượng thân lá khô.
2. Bón phân cho bông
a) Kết quả nghiên cứu về loại phân bón
Kết quả phân tích đất cho thấy, phần lớn đất trồng bông hiện nay đều thuộc loại hơi chua, hàm lượng các cation trao đổi thấp và nghèo lưu huỳnh.
- Phân lân nung chảy: Kết quả nghiên cứu ở Đắc Lắc cho thấy, với cùng một liều lượng P2O5 như nhau thì bón lân nung chảy cho năng suất bông cao hơn bón super lân là 1,77 tạ /ha (tương đương 11,13%).
- Phân lưu huỳnh: Kết quả nghiên cứu hiệu quả của phân S bón cho bông đã chỉ ra rằng, việc bón lưu huỳnh ở dạng SO42- (Sulfat amon hay Sulfat kali) đều mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với đối chứng.
b) Nghiên cứu về liều lượng phân bón
Kết quả điều tra về tình hình sử dụng phân bón cho bông của 300 hộ nông dân cho thấy, lượng phân bón bón cho bông giữa các hộ có sự chênh lệch khá lớn, điều này có thể do điều kiện đất đai và trình độ thâm canh của họ khác nhau.
Bảng 5. Kết quả điều tra về lượng phân bón được sử dụng cho cây bông tại Đăk Lăk
Nội dung
Đắc Lắc
Trung bình
Min
Max
N (kg/ha)
90,58 ± 33,52
25,7
205,0
P2O5 (kg/ha)
46,83 ± 21,51
7,0
106,7
K2O (kg/ha)
42,67 ± 25,66
0,0
134,3
Tại Đắc Lắc: Mức phân bón thích hợp nhất là 90 kg N, 45 kg P2O5 và 45 kg K2O /ha; Các nghiệm thức bón phân với mức cao đều cho hiệu quả kinh tế giảm so với công thức này.
c) Nghiên cứu về thời kỳ bón phân
Bảng 6. Ảnh hưởng của thời kỳ bón phân đến năng suất bông
Thời kỳ bón phân
(NSG - ngày sau gieo)
Đắc Lắc
Số quả
/m2
Năng suất
(tạ /ha)
(25, 50 NSG)
43,2
18,2
(20, 40, 60 NSG)
39,2
17,4
(25, 50, 75 NSG)
48,5
19,9
(20, 40, 60, 80 NSG)
44,3
18,7
Kết quả nghiên cứu về thời kỳ bón phân cho thấy, tại Đắc Lắc, bón thúc vào các giai đoạn 25, 50 và 75 ngày sau gieo cho năng suất cao nhất. Tuy nhiên, việc bón thúc 3-4 lần tốn công lao động và khó chăm sóc, do vậy hiện nay chúng tôi đang khuyến cáo bón thúc 2 lần vào giai đoạn 20-25 và 45-50 ngày sau gieo.
3. Kỹ thuật bón phân
Thời kỳ bón
Bón lót: trước khi gieo hạt với liều lượng 100% phân hữu cơ vi sinh, 100% phân lân, 100% phân sulphate amôn và 30% phân kali.
Bón thúc lần 1 sau gieo 25-30 ngày: 50% urê và 35% kali.
Bón thúc lần 2 sau gieo 50-55 ngày: 50% urê và 35% kali.
Nếu ruộng bông sinh trưởng và phát triển kém thì có thể bón thúc bổ sung lần 3 hoặc chỉ bón vào những chỗ bông xấu.
Kỹ thuật bón
Bón vào một bên mép luống (1/3 so với đáy rãnh), lấp phân kết hợp với chỉnh sửa hàng và qua mép luống, bón đến đâu lấp phân ngay đến đó và lấp kỹ để tránh mất phân.
Phun phân qua lá
Để cung cấp phân vi lượng cho cây bông, nên phun các loại phân bón lá hiện đang sử dụng trên cây bông theo khuyến cáo của nhà sản xuất; cuối vụ, nên sử dụng KNO3 phun cho cây bông từ 3 - 4 lần/vụ. Phun phân bón lá có thể phun kết hợp với thuốc bảo vệ thực vật để giảm số lần phun.
BÀI 6. SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG
MEPIQUATE CHLORIDE (PIX) VÀ
CHẤT ỨC CHẾ SINH TRƯỞNG ETHREL CHO CÂY BÔNG
I. SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG MEPIQUATE CHLORIDE (PIX)
Mepiquate chloride là chất điều hòa sinh trưởng ngoại sinh có tên hóa học là 1,1 -Dimethylpiperidinium chloride và tên thương mại là PIX, có tác dụng ức chế quá trình sinh trưởng dinh dưỡng của thực vật. Trên cây bông, Mepiquate Chloride hạn chế hiện tượng sinh trưởng rậm rạp, làm giảm sinh trưởng chiều cao cây, chiều dài cành, tăng hàm lượng diệp lục trong lá, tăng khả năng quang hợp và tăng tỷ lệ đậu quả. Ta thấy cây bông thấp hơn, gọn hơn, lá xanh đậm hơn nhưng quả lại nhiều hơn.
PIX được phun 3 lần/vụ, cụ thể như sau:
- Lần 1: vào giai đoạn 50% số cây có nụ đầu tiên (khoảng 30 - 35 ngày sau gieo) với liều lượng 50ml/ha. (pha 1 gói 5ml cho 1 bình 16 lít nước để phun cho 1000 m2)
- Lần 2: vào giai đoạn 50% số cây có hoa đầu tiên nở (khoảng 45 - 50 ngày gieo) với liều lượng 75ml/ha (pha 1,5 gói = 7,5ml cho 1 bình 16 lít nước để phun cho 1000 m2)
- Lần 3: vào giai đoạn nở hoa rộ (khoảng 70 - 75 ngày sau gieo) với liều lượng 100ml/ha (pha 1 gói 5ml cho 1 bình 16 lít nước để phun, phun 2 bình cho 1000 m2).
Cách phun: Phun ướt đều mặt lá bông.
Lưu ý: Liều lượng PIX từng thời kỳ có thể thay đổi, tuỳ thuộc tình hình sinh trưởng của ruộng bông. Có thể kết hợp phun PIX cùng với thuốc BVTV và phân bón qua lá để giảm số lần phun thuốc (chỉ phối trộn đối với những sản phẩm được khuyến cáo được kết hợp với nhau).
II. SỬ DỤNG CHẤT ỨC CHẾ SINH TRƯỞNG ETHREL
Việc sử dụng chất ức chế sinh trưởng ethrel phun cho bông vào giai đoạn nở quả đã có tác dụng thúc đẩy quá trình nở quả nhanh. Nếu phun khi ruộng bông có quả đầu tiên sẽ giúp cho bông chín tập trung và rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây bông từ 6 – 12 ngày.
Phun vào giai đoạn 50% số cây có quả đầu tiên nở, phun Ethrel 480 LS với liều lượng 2 lít/ha, pha 100 ml cho 1 bình phun 16 lít, 1000 m2 bông phun 4 bình, phải phun ướt đều mặt lá.
BÀI 7. THU HOẠCH, PHÂN LOẠI BÔNG
1. Đặc điểm nở quả của cây bông
Thời gian từ khi gieo đến khi cây bông có quả nở thường từ 100 đến 115 ngày. Giống như trình tự nở hoa, quả bông chín theo trình tự từ cành dưới lên và từ trong ra ngoài. Thời kỳ đầu tốc độ nở quả thường chậm hơn. Đợt thu hái đầu tiên khi cây có 2 – 3 quả nở và thường được tiến hành sau khi quả đầu tiên nở từ 10 – 15 ngày, những đợt sau cách đợt trước 7 – 8 ngày.
Các lần thu hoạch khác nhau thường có chất lượng xơ rất khác nhau, cần phải phân loại khi thu hoạch để tăng độ đồng đều của bông xơ.
2. Những sai sót thường gặp khi thu hoạch bông hạt
- Thu bông chưa nở đầy đủ: Bông nở đầy đủ là những quả bông có các múi bông bung, xốp, toàn bộ bông phủ kín quả. Quả chưa chín đủ múi bông chưa bung, còn ở dạng múi cau, vỏ quả đang còn tươi, màu xanh. Những quả bông chưa nở hết thường xơ, hạt có độ ẩm cao, nếu không phơi kịp thì dễ bị mốc, làm giảm chất lượng.
- Thu lẫn bông múi cau, bông vàng ố, bông đen: Khi quả chín gặp mưa, bông sẽ bị thối dẫn đến múi bông không thu được, hạt bị thối lép, hoặc do ẩm nên bông bị mốc. Những loại bông này không được thu để chung với loại bông tốt vì nó sẽ giảm phẩm cấp bông hạt, nên để riêng.
- Để lẫn lá, tai quả, đất: khi thu hái không cẩn thận, dễ bị dinh đất, lá khô, tai quả vào bông hạt, nhất là thu hoạch hái về buổi trưa nắng, chiều, tai lá khô và giòn.
- Để lẫn vật lạ, nhất là sợi nilon (P.P.): Khi để lẫn sợi nilon vào bông sẽ gây khó khăn lớn cho công đoạn nhuộm màu công nghiệp. Đây là vấn đề hết sức cẩn trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến phẩm cấp.
3. Dụng cụ thu hoạch – cách thu và phân loại khi thu hoạch
Dụng cụ thu hoạch tốt nhất làn sọt tre, bao bố, bao vải. Thu bông tốt trước, bông múi cau, sâu bệnh thu đợt sau. Hoặc có thể mang 2 túi, một túi đựng bông tốt, một túi đựng bông xấu.
Cần phải phân loại ngay trong lúc thu hái, làm như vậy sẽ đỡ tốn công về nhà phân loại lại.
Thời gian thu tốt nhất là 8 – 11 giờ sáng và 3 – 6 giờ chiều.
Nếu thực hiện tốt thì có đến 90% bông loại I còn nếu để lẫn thì ngược lại có 90% bông loại II và loại III
Bông thu hái về phải phơi ngay, chỉ cần phơi 2 – 3 nắng là khô (cắn hạt bông kêu là được)
CHƯƠNG 4. SÂU BỆNH HẠI BÔNG
Cây bông (Gossypium spp.) là cây trồng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, ... Xơ bông là nguồn nguyên liệu quan trọng hàng đầu của ngành dệt, các sản phẩm phụ khác như hạt bông dùng để sản xuất dầu ăn, khô dầu bông dùng để chế biến các loại thực phẩm, thức ăn gia súc, phân bón và thân cây bông làm chất đốt.
Ở Việt Nam, cây bông là cây cung cấp nguyên liệu để dệt vải. Tiềm năng đất đai trồng bông của nước ta còn rất lớn. Tuy vậy, sản xuất bông trong nước chỉ mới đáp ứng được khoảng 2% nhu cầu xơ bông cho ngành dệt (Tập đoàn Dệt May Việt Nam, 2008). Do đó, mở rộng diện tích trồng bông, đẩy mạnh thâm canh, chủ động tưới tiêu để tăng năng suất, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu nguyên liệu xơ bông ổn định cho ngành dệt là một yêu cầu cấp thiết ở nước ta.
Một số loài sâu chích hút đang gây hại nguy hiểm cho cây bông như bọ trĩ (Scirtothrips dorsalis Hood, Thrips palmi Karny), rầy xanh (Amrasca devastans Distant), rệp (Aphis gossypii Glover) và nhện đỏ (Tetranychus urticae Koch). Bên cạnh đó, cây bông cũng bị nhiều loại bệnh (xanh lùn, mốc trắng, thán thư, chết rạp cây con,) và cỏ dại gây thiệt hại cho năng suất và chất lượng xơ bông.
1. Một số loài sâu hại chính trên cây bông và biện pháp phòng trừ
1.1. Rệp (Aphis gossypii Glover)
Rệp sống chủ yếu ở mặt dưới lá và ngọn non, hút dịch cây làm cho lá co rút lại, cây sinh trưởng kém. Trong quá trình gây hại, rệp còn thải ra chất mật dính tạo điều kiện cho nấm muội đen phát triển, ảnh hưởng đến quang hợp của cây. Nếu gây hại vào giai đoạn bông nở quả sẽ làm nhiễm bẩn xơ bông (sticky), giảm chất lượng bông xơ. Nhưng nguy hiểm hơn, rệp là véc-tơ truyền virut gây bệnh xanh lùn cho cây bông, một đối tượng dịch hại rất nguy hiểm trên cây bông. Rệp trưởng thành đẻ con và sống quần tụ lại thành đám. Khi mật độ phát triển cao, trong quần thể sẽ xuất hiện những cá thể rệp có cánh để phát tán đi nơi khác tìm nguồn thức ăn. Chính những cá thể rệp có cánh là tác nhân lan truyền nhanh mầm bệnh xanh lùn nếu chúng sống trên cây có mầm bệnh
Trong mùa mưa, rệp thường xuất hiện khi cây bông được 7-10 ngày tuổi. Số lượng phát triển chậm và thường đạt đỉnh cao khi cây được 40-50 ngày tuổi. Khi lượng mưa lớn có thể rửa trôi đáng kể một lượng rệp trên ngọn bông. Mặt khác, mưa tạo điều kiện cho nấm ký sinh rệp (Neozygites fresenii) phát triển. Vì vậy, mật độ rệp giảm hẳn sau những đợt mưa lớn.
Ngoài cây bông, rệp bông còn cư trú trên nhiều cây trồng và cây dại khác như đậu bắp (Abelmoschus esculentus), dưa hấu (Citrullus vulgaris), dâm bụt (Hibiscus rosanensis), bịp giấm (Hibiscu sabdariffa), bí ngô (Cucurbita sp.), cà (Solanuam sp.), ké hoa đào (Urea lotaba), ké hoa vàng (Sida rhombifolia), chổi đực (Sida acuta, cò chà phả (Thespecia lampas).
* Biện pháp phòng trừ
- Trồng xen bông với các cây họ đậu, ngô, tạo điều kiện cho các loài thiên địch của rệp cư trú.
- Phủ mặt luống bằng rơm rạ hoặc màng PE trắng trong, màu đen ành bạc có tác dụng rất rõ trong công việc giảm mật độ và tác hại của rệp trên cây bông.
- Xử lý hạt bằng các thuốc nội hấp có hoạt chất Imidacloprid hoặc Thiamethoxan hạn chế tác hại của rệp ở giai đoạn đầu vụ. Trong trường hợp áp lực rệp cao, có thể phun thuốc để phòng ngừa sự lây lan của bệnh xanh lùn. Một số loại thuốc có thể khuyến cáo để trừ rệp là: Acelant 4EC, Mospilan 3EC, Pegasus 500SC. Các loại thuốc như: Actara 350FS, Admire 50EC, Confidor 100SL có thể dùng ở giữa và cuối vụ, kết hợp với trừ rầy hoặc bọ trĩ.
1.2. Rầy xanh (Amrasca devastans Distant)
Tác hại của rầy xanh hai chấm
Rầy xanh hai chấm gây hại trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của cây bông từ khi bông có lá sò đến khi thu hoạch. Cả rầy non và trưởng thành đều chích hút dịch cây. Mức độ tác hại của nó tuỳ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng và mật độ của rầy trên cây bông. Cây bông ở giai đoạn còn nhỏ (có lá sò đến 3,4 lá thật) bị rầy xanh hai chấm hại làm mép lá có màu vàng. Trên lá bông non bị hại có các chấm đen nhỏ li ti, gây hại nặng làm lá non lá héo trông giống như bị luộc, mép lá co lại, lá bị khô đen làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây bông. Khi cây bông đã lớn, rầy xanh hai chấm gây hại làm cho mép lá mới đầu bị biến vàng và cong lại; khi bị hại nặng thì toàn lá có màu đỏ huyết dụ, với nhiều lá khô cháy gọi là hiện tượng “cháy rầy”, lá trở nên khô giòn và rụng, cây không có khả năng phục hồi.
Trong điều kiện trồng bông muộn thời vụ, rầy xanh xanh hai chấm gây hại sớm hơn do có sự tích luỹ về số lượng trên đồng từ những thời vụ trước. Khi trên đồng bông, ở những thời vụ sớm hơn thức ăn trở nên không hấp dẫn thì thời vụ muộn sẽ là nơi thu hút rầy xanh hai chấm đến gây hại, áp lực rầy lớn, mức độ gây hại càng nặng. Cùng với các yếu tố về thời tiết bất lợi cho sinh trưởng, phát triển của cây, rầy xanh hai chấm cũng góp phần đáng kể làm giảm năng suất và chi phi phòng trừ rầy xanh cũng cao hơn so với trồng bông gọn vụ.
Cả rầy non và rầy trưởng thành thường sống tập trung ở 2/3 thân phía dưới, chủ yếu ở lá bánh tẻ và hút dịch cây gây nên hiện tượng thiếu dinh dưỡng và mất nước. Gây hại nhẹ làm cho lá chuyển màu hơi vàng, mép lá cong lên làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Nếu gây hại nặng, lá sẽ chuyển sang màu nâu vàng rồi màu đồng đỏ, khô và rụng, giai đoạn cây lớn, rầy gây hại sẽ làm rụng nụ và làm quả chín ép, hạt lép, giảm chất lượng xơ bông và 30-40% năng suất.
Rầy có mặt ở tất cả các vùng trồng bông. Trong điều kiện vụ mưa, rầy thường chỉ phát sinh mạnh từ tháng 10 trở đi và gây hại cho cây bông vào cuối vụ. Các giống bông có lông như: VN35KS, VN36PKS, VN01-2 có khả năng chống chịu rầy cao hơn các giống bông lá nhẵn hoặc ít lông như VN04-3, VN04-4, VN15, TM1KS,...
Thiên địch của rầy xanh hai chấm
Đến nay đã xác định được 14 loài là thiên địch bắt mồi của rầy xanh hai chấm. Trong số các loài bắt mồi ăn thịt thì nhóm nhện lớn bắt mồi là nhóm có số lượng phong phú và xuất hiện thường xuyên nhất trên cây bông. Thức ăn của nhện lớn bao gồm nhiều loại côn trùng khác nhau, trong đó có rầy xanh hai chấm.
Trong thực tế sản xuất bông ở Việt Nam, phản ứng của các loài thiên địch với sự gia tăng số lượng rầy xanh hai chấm thường chậm. Chính vì vậy, vai trò của thiên địch không rõ trong việc kìm hãm số lượng của rầy xanh hai chấm, đặc biệt trong điều kiện thời tiết bất thuận.
Các cây ký chủ của rầy xanh hai chấm
Một số cây trồng và cây dại là ký chủ của rầy xanh là đậu bắp, dâm bụt, bịp giấm, cà gai, cà pháo, ké hoa đào, ké hoa vàng, cối xay, thầu dầu , hướng dương.
* Biện pháp phòng trừ:
- Sử dụng giống kháng là biện pháp chủ lực trong việc quản lý rầy xanh hại bông. Mật độ long trên lá bông tỷ lệ thuận với khả năng kháng rầy, lông càng nhiều, khả năng kháng càng cao.
- Phủ mặt luống bằng rơm rạ hoặc màng PE trắng trong, màu đen ành bạc có tác dụng hạn chế sự phát sinh và gây hại của rầy xanh trên cây bông.
- Xử lý hạt bằng các thuốc nội hấp có hoạt chất Imidacloprid hoặc Thiamethoxan hạn chế tác hại của rệp ở giai đoạn cây con. Trong trường hợp cây bông bị rầy xanh gây hại đến cấp 3 (mép lá có màu vàng và hơi cong) thì có thể tiến hành phun các loại thuốc sau: Applau – mip, Karate 2.5EC, Oshi. Các loại thuốc thuộc nhóm Imidacloprid như: Admire 50EC, Confidor 100SL, Comphai 100SL, Mire Tox, Disara, có hiệu lực trừ rầy khá nhưng không nên sử dụng ở giai đoạn đầu vụ (trong trường hợp hạt đã được xử lý thuốc trừ sâu chích hút)
1.3. Bọ trĩ (Scirtothrips dorsalis Hood và Thrips palmi Karny)
Có 3 loài bọ trĩ gây hại được tìm thấy trên cây bông, trong đó Scirtothrips dorsalis Hood và Thrips palmi Karny là 2 loài gây hại chính. Trong điều kiện vụ mưa, bọ trĩ thường xuất hiện vào cuối vụ và không gây ảnh hưởng đến năng suất bông.
Giai đoạn cây con là giai đoạn xung yếu nhất của cây bông đối với bọ trĩ. Bọ trĩ non và bọ trĩ trưởng thành sống dọc theo gân lá, cào rách biểu bì và hút nhựa cây. Bọ trĩ gây hại làm cho lá bị nhăn nheo, lá chuyển sang màu ánh bạc, khô giòn và dễ rụng. Khi cây bắt đầu có lá thật, bọ trĩ thường tấn công vào chồi non và làm thui đỉnh sinh trưởng, cây ngừng phát triển và chết. ở giai đoạn cây lớn, bọ trĩ hại nặng sẽ gây nên rụng nụ, hạt lép và giảm năng suất làm giảm từ 10- 30% năng suất.
Hầu hết các giống bông trồng trong sản xuất hiện nay đều không kháng bọ trĩ. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy, các giống bông nhiều lông có khả năng chịu đựng bọ trĩ cao hơn so với các giống lá nhẵn và ít lông, mặc dù mật độ bọ trĩ trên giống nhiều lông có xu hướng cao hơn.
* Biện pháp phòng trừ:
- Biện pháp sinh học được sử dụng rộng rãi trong phòng trừ bọ trĩ ở nhiều nước trên thế giới là bọ xít Orius sp và nhện nhỏ bắt mồi, đặc biệt là loài Orius sp.
- Trồng bông phủ màng rơm rạ hoặc màng PE trắng mỏng, màng PE đen có ánh bạc... có tác dụng làm giảm số lượng bọ trĩ rõ rệt.
- Thời vụ gieo trồng đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế sự gây hại của bọ trĩ. Gieo trồng vào các tháng 12, 1, 2 thường bị bọ trĩ nặng hơn so với thời gian trước và sau đó.
- Phun thuốc hóa học: các nhóm thuốc có hiệu quả trừ bọ trĩ là: nhóm thuốc Abamectin, Imidacloprid, thiamethoxam. Tuy nhiên 2 nhóm thuốc Imidacloprid và thiamethoxam không nên khuyến cáo áp dụng cho 2 lần phun đầu tiên ở gian đoạn đầu vụ.
1.4. Sâu xanh (Helicoverpa armigera Hubner)
Sâu xanh trên cây bông ở Việt Nam được xác định là loài Helicoverpa armigera. Trưởng thành đẻ trứng rãi rác ở mặt trên lá non, ngọn non, tai đài của nụ. Mỗi ngài cái đẻ từ 800-2800 trứng. Thời gian phát dục của trứng kéo dài từ 2-3 ngày. sâu non mới nở, ăn một phần vỏ trứng rồi bò đi tìm bộ phận non để gây hại. Đến tuổi 2 sâu bắt đầu đục vào nụ, quả non. Một sâu non tuổi 2,3 có thể gây hại 3-5 nụ/ngày đêm. Sâu đục nụ làm nụ xoè và rụng. Sâu gây hại trong hoa, ăn hết nhuỵ hoa. Gây hại ở quả non làm rụng quả non rụng. Sâu tuổi lớn đục vào quả, để lộ phần thân ra ngoài. Quả bị đục dễ bị nước mưa thấm vào gây thối quả. Khi đẫy sức, sâu ngừng ăn, bò theo thân cây và chui xuống đất để hoá nhộng. Ngoài cây bông, sâu xanh còn gây hại trên nhiều loại cây trồng khác như ngô, thuốc lá, các loại cây họ đậu, cà chua, hoa hướng dương. Trong điều kiện vụ mưa, việc áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp, hạn chế phun thuốc ở đầu vụ nhằm bảo tồn thiên địch đã khống chế được sâu xanh dưới ngưỡng gây hại ở hầu hết các vùng trồng bông.
* Biện pháp phòng trừ:
- Giống hiện nay được sử dụng phổ biến ở nước ta cũng có khả năng kháng sâu xanh rất tốt.
- Đa dạng hệ thống cây trồng bằng cách trồng xen bông với các cây trồng khác như: Ngô, cây họ đậu
- Bố trí thời vụ thích hợp nhằm né tránh giai đoạn xung bông ra nụ hoa rộ trùng vào các cao đỉnh của sâu.
- Sử dụng các loại thuốc trừ sâu gốc sinh học như NHV
- Sử dụng các chế phẩm có nguồn gốc thảo mộc
- Phun thuốc hóa học: chỉ nên phun thuốc ở giai đoạn 70 – 80 ngày sau gieo bằng các loại thuốc sau: Match 0,5lít/ha, nhốm thuốc Abamectin, nhóm thuốc matrin (như indoxacard).
2. Đặc điểm một số bệnh hại bông chính và biện pháp phòng trừ
2.1. Bệnh Lở cổ rễ cây bông con (damping off)
Cây bông thường bị bệnh lở cổ rễ gây hại và có thể làm mất mật độ cây đến hơn 50% và tác hại có khi kéo dài đến 30 ngày sau mọc. Lở cổ rễ phát sinh và phát triển thuận lợi trong điều kiện mưa và ẩm.
* Triệu chứng và tác hại
Biểu hiện ban đầu của cây bông con là mất sức căng của các bộ phận trên mặt đất, sau đó cây héo rũ và ngã gục xuống. Nhổ cây bông con lên thấy ở phần cổ rễ có vết bệnh nâu sẫm vòng quanh thân, dài 1-3 cm. Bệnh có thể xuất hiện ngay khi hạt bông vừa nhú mầm, rễ mầm là đối tượng tấn công của bệnh. Triệu chứng bệnh ban đầu là 1 hoặc 2 vết hơi lõm ở cổ rễ, nơi tiếp giáp với mặt đất, hình ôvan (kéo dài theo thân), có màu nâu nhạt hay nâu đỏ. Sau đó vết bệnh lớn dần, kéo dài hơn, ăn sâu vào thân, chuyển dần sang màu nâu đậm và thắt lại làm cây bị đổ xuống và chết. Vết bệnh cũng có thể ôm vòng quanh thân. Trong điều kiện thời tiết ẩm, sợi nấm có thể mọc ra từ vết bệnh và lan ra hốc cây khoảng vài cm. Bệnh này xuất hiện trong suốt thời gian từ khi bông mọc đến khi cây được 20 ngày tuổi. Tỷ lệ cây bông con bị chết nhiều nhất thường xảy ra vào thời kỳ sau mọc 5-15 ngày, sau mọc 25 ngày thì tỷ lệ cây chết giảm nhưng bệnh vẫn còn gây hại. Tuổi cây càng lớn thì khả năng nhiễm bệnh càng giảm.
Tác hại của bệnh là làm giảm mật độ nghiêm trọng và tốn công bứng dặm, dẫn đến tăng giá thành và giảm năng suất bông hạt.
* Tác nhân gây bệnh và nguồn bệnh
Bệnh lở cổ rễ do nấm Rhizoctonia solani gây bệnh là chủ yếu. Nhiều khả năng đây là chủng nấm khác với nấm gây bệnh đốm-cháy lá vì thuốc Monceren có hiệu lực cao đối với bệnh đốm-cháy lá nhưng lại kém đối với bệnh LCR. Nguồn bệnh chính lây lan cho cây bông là đất, nhất là đất vụ trước trồng lúa.
* Biện pháp phòng trừ:
- Thu gom tàn dư thực vật có mầm mống bị bệnh ra khỏi khu vực gieo trồng. Chọn lực những hạt giống chắc, mẩy, có khả năng nẩy mầm cao và đồng đều. Kịp thời nhổ bỏ toàn bộ những gốc rễ và cây bị bệnh mang ra xa ruộng để tiêu hủy. Nên tiến hành đào hố và đổ vôi để lấp các cây bị bệnh trước khi lấp đất.
- Làm đất thật kỹ trước klhi gieo, san phẳng mặt luống không để đọng nước. Lên luống cao thoát nước dễ dàng. Kịp thời xới đất phá váng sau các đợt mưa cho đất tơi xốp, tránh hiện tượng đất bị dín chặt trong thời gian dài.
- Bón vôi để nâng cao độ pH, bón khoảng 1 tấn/ha. Đối với chân đất cát thì nên bón vôi với lượng cao hơn 1,5 lần.
- Gieo ở độ sâu vừa phải, tránh gieo hạt quá sâu.
- Phòng trừ bệnh lỡ cổ rễ ở giai đoạn cây 7 – 10 ngày tuổi, phun 1 -2 lần Monceren 250SC với liều lượng 0,4 – 0,6 lít/ha (10 -15 ml/bình 8 lít nước)
2.2. Bệnh xanh lùn (blue disease)
* Triệu chứng và tác hại của bệnh xanh lùn
Triệu chứng bệnh XL đầu tiên xuất hiện trên cây bông là ở những lá non nhất trên ngọn. Ban đầu có màu vàng sáng, rất dễ phân biệt với phần thịt lá màu xanh bị chúng giới hạn. Gân lá phát triển chậm hơn nên các phần thịt lá hơi lồi lên, rìa lá cong xuống phía dưới, phần giữa của lá phồng lên. Sau 3-5 ngày gân lá chuyển sang màu vàng đục hay vàng mờ, thịt lá có màu xanh sẫm hơn, lá dày hơn, kích thước lá nhỏ hơn bình thường. Lá ra càng về sau kích thước càng nhỏ lại, cong nhiều và co cúp lại, dày và giòn. Các đốt thân và đốt cành ngắn và có dạng zíc zắc, cây lùn, có khi nằm bò ra do thân không hoá gỗ được. Các bộ phận như nụ, hoa, quả trên cây bông bị bệnh không có màu sắc khác biệt so với trên cây khoẻ, nếu bị bệnh nhẹ thì kích thước của chúng không bị ảnh hưởng rõ, nếu bị bệnh sớm và nặng thì chúng nhỏ hơn và có thể thấy rõ bằng mắt thường. Do cây và cành không phát triển được nên số nụ, hoa, quả giảm, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng xơ, hạt. Nếu cây bị bệnh trước 50 ngày tuổi thì hầu như không có năng suất.
* Con đường lan truyền của bệnh xanh lùn
Bệnh XL chỉ lan truyền trong tự nhiên qua côn trùng môi giới là rệp bông, không truyền qua rầy xanh và bọ trĩ. Thời gian rệp chích hút trên cây bệnh và sau đó trên cây khoẻ càng lâu thì khả năng truyền bệnh của rệp càng cao. Bệnh XL được rệp truyền theo phương thức bền vững (Rệp duy trì khả năng truyền bệnh sau khi cách với nguồn bệnh trên 100 giờ).
Tuy vậy, rệp bông lại không thể duy trì khả năng truyền bệnh từ đời mẹ sang đời con. Mặc dù rệp mẹ có khả năng truyền bệnh XL đến 100% nhưng rệp con nếu không tiếp xúc với nguồn bệnh thì không có khả năng truyền bệnh.
Ngoài ra, bệnh XL không truyền qua đất, phấn hoa, dịch cây và hạt giống, nhưng có thể truyền nhân tạo qua ghép cây với tỉ lệ bệnh cao (100%).
* Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh XL được biết đến từ lâu ở một số nước trên thế giới, tác nhân gây bệnh được chẩn đoán là virut. Nghiên cứu đã phát hiện được cấu trúc virut giống nhau trong lá bông bị bệnh XL và lá cây chổi đực (Sida acuta) có chứa virut, cây này là một trong những cây ký chủ của bệnh XL.
* Phạm vi ký chủ và nguồn bệnh xanh lùn
Đã phát hiện 4 loài cây gồm bịp giấm (Hibiscus sabdariffa), ké hoa vàng (Sida rhombifolia), chổi dực (Sida acuta), và cò chà phả (Thespesia lampas) là ký chủ của bệnh XL trong tự nhiên. 3 loài đầu mặc dù có mang tác nhân gây nhưng lại không thể hiện triệu chứng bệnh XL, sau khi dùng rệp truyền sang bông thì mới xác định được. Loài thứ tư có thể hiện triệu chứng bệnh nhưng hơi khác với xanh lùn trên bông, cây bị bệnh cũng lùn, rìa lá cũng cong xuống phía dưới nhưng lại có màu vàng không đồng nhất.
Có hai nguồn bệnh xanh lùn chính trong tự nhiên là:
- Nguồn bệnh thứ nhất: Những cây bông lưu tái sinh là nguồn bệnh XL rất phong phú, tỉ lệ bệnh của chúng bao giờ cũng cao hơn bông chính vụ. Nguồn bệnh này có thể loại trừ bằng cách tiêu huỷ tàn dư cây bông sau khi thu hoạch hoặc trước khi vào vụ mới.
- Nguồn bệnh thứ hai: Là những cây ký chủ trung gian trong tự nhiên, chúng cũng là ký chủ của rệp bông, rất phổ biến ở tất cả các vùng bông. Để giảm bớt nguồn bệnh cần phải tiêu diệt ký chủ trung gian xung quanh vùng bông trước khi vào vụ mới.
* Biện pháp phong trừ
Biện pháp kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng: tiêu hủy tàn dư cây bông ngay sau khi thu hoạch, vệ sinh đồng ruộng, tiêu diệt cỏ dại xung quanh ruộng bông, luân canh với cây trồng khác, xen canh bông với đậu xanh hoặc với đậu xanh và ngô, gieo bông gọn vụ, nhổ bỏ những cây bị bệnh sớm từ đầu vụ, chăm sóc kịp thời và bón phân cân đối cho cây bông khỏe, tránh trồng cây bụp giấm.
Biên pháp hóa học: xử lý hạt bông bằng Gaucho (Imidaccloprid) với liều lường 5 – 7 gam/1kg hạt. Trong trường hợp cần thiết nên phun thuốc sớm vào đầu vụ 1 – 2 lần thuốc Mospilan để trừ rệp bông
2.3. Bệnh Đốm-cháy lá bông (Rhizoctonia leaf spot and necrosis)
* Triệu chứng và tác hại của bệnh
Bệnh xuất hiện rất sớm trên đồng ngay sau khi cây bông mới mọc, trên lá mầm xuất hiện những vết bệnh có nhiều hình dạng khác nhau, lúc đầu nhỏ khoảng một vài milimét, màu nâu sẫm, đôi khi viền nâu đỏ. Vết bệnh lan ra rất nhanh làm cháy lá. Cây con bị bệnh mất lá mầm, trở nên yếu và sinh trưởng chậm. Nếu bệnh nặng, nấm còn tấn công vào điểm sinh trưởng, làm thui điểm sinh trưởng và gây mất mật độ. ở giai đoạn cây lớn, vết bệnh trên lá thật là những đốm tròn viền nâu đỏ, giữa vết bệnh mô lá thường bị khô và thủng, trong điều kiện mưa nhiều vết bệnh gây cháy từng mảng lá. Mới đầu bệnh gây hại lá ở tầng gốc, sau đó lan dần lên trên, nếu lá bệnh rụng lên quả bông thì quả bông cũng bị bệnh. Thời kỳ cây con bệnh làm rụng lá mầm, chết cây, giảm mật độ. ở thời kỳ cây lớn, bệnh làm cháy lá thật và thối quả bông, dẫn đến giảm năng suất bông hạt.
Trong điều kiện mưa nhiều, bệnh xuất hiện từ khi cây bông mới mọc và xoè phẳng 2 lá mầm, tăng dần đến 20 ngày tuổi. Giữa vụ bệnh có xu hướng nhẹ. Cuối vụ, khi tán lá rậm rạp bệnh lại phát triển nhanh. Bệnh phát sinh và phát triển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện ngoại cảnh là mưa và độ ẩm không khí. Thời điểm mưa nhiều bông thường bị bệnh nặng, ngớt mưa và nắng ráo thì bệnh gần như ngừng phát triển.
* Tác nhân gây bệnh và nguồn bệnh
Bệnh này do nấm Rhizoctonia solani gây ra. Nguồn bệnh rất phong phú trong tự nhiên. Nguồn bệnh ban đầu của nấm Rhizoctonia solani là đất và tàn dư cây vụ trước. Trên các cây trồng vụ 1 như đậu xanh, đậu tương, ngô ... đều có rất nhiều hạch nấm. Nguồn bệnh thứ cấp chính là những lá bông bị bệnh, mưa làm cho nấm bắn từ tầng lá ở dưới bị bệnh lên tầng trên. Vì vậy, nên tạo cho ruộng bông có sự thông thoáng, nếu có điều kiện nên ngắt và tiêu huỷ những lá bông bị bệnh để hạn chế sự lây lan.
Nguồn nấm Rhizoctonia solani phong phú như trên là một khó khăn lớn đối với công tác phòng trừ bệnh.
* Biện pháp phòng trừ:
Hiện nay, các biện pháp giống và công nghệ sinh học trong quản lý bệnh hiệu quả chưa cao. Vì vậy, các biện pháp hóa học tỏ ra có hiệu quả tốt trông phong trừ bệnh đốm – cháy lá. Ở thời kỳ cây con chỉ cần phun Monceren 250 SC với liều lượng 0,4 – 0,6 lít/ha từ 1 – 2 lần ngay sau khi bông mọc và sau mọc 10 ngày. Ở giai đoạn cuối vụ có thể phun Moncerren 250 SC với liều lượng 1 – 1,5 lít/ha hoặc Anvil 5SC với liều lượng 1 – 1,5 lít/ha từ 1 -2 lần. Tuy nhiên, cần áp dụng một số biện pháp kỹ thuật canh tác đi kèm để hạn chế rậm rạp trong ruộng bông.
2.4. Bệnh Mốc trắng (Areolate mildew)
* Tình hình bệnh mốc trắng ở các vùng bông
Đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước, bệnh mốc trắng (MT) đã xuất hiện ở nhiều vùng bông và gây hại đáng kể vào cuối vụ. Bệnh mốc trắng phổ biến ở tất cả các vùng bông phía Nam Việt Nam. Bệnh thường xuất hiện sớm vào khoảng 65-70 ngày tuổi của cây bông, tất cả các lô bông đều nhiễm bệnh, bệnh phát triển mạnh cho đến cuối vụ, mức độ bệnh nặng và gây rụng lá hàng loạt, ảnh hưởng tới năng suất bông.
* Triệu chứng và tác hại
Triệu chứng bệnh MT là những đốm có hình góc cạnh trên lá, có thể nhìn thấy từ cả 2 mặt lá, kích thước từ 1 đến vài milimét, màu sắc ban đầu có thể vàng, xanh sẫm, nâu nhạt, nâu sẫm. Sau khi vết bệnh xuất hiện một thời gian thì trên vết bệnh sẽ xuất hiện một lớp mốc trắng xám do những chùm khuẩn ty mọc ra từ mô lá và vô số bào tử vô tính trên chúng tạo thành. Các vết bệnh gây chết mô lá, khi chúng xuất hiện nhiều và liên kết với nhau thì lá chuyển vàng, khô và rụng. Bệnh làm giảm khả năng quang hợp của cây bông, làm rụng nụ, hoa, quả hoặc quả bị chín ép, giảm năng suất và chất lượng xơ và hạt. Bệnh phát sinh và phát triển thuận lợi trong điều kiện có mưa và nhiệt độ từ 25-300C, độ ẩm cao thích hợp cho sự hình thành bào tử vô tính. Vì vậy, tình hình bệnh MT trong vụ mưa thường nặng hơn trong vụ khô.
* Tác nhân gây bệnh và nguồn bệnh
Bệnh MT do một loại nấm có tên khoa học là Ramulariopsis gossypii (Speg) U. Braun gây ra (trước đây nấm này có tên là Ramularia gossypii (Speg) Cif = Ramularia areola Ehrlich& Wolf).
- Nguồn bệnh trong đất: nguồn bệnh chỉ tồn tại trên mặt đất trong vụ bông đến sau khi thu hoạch và trước khi làm đất, nó không tồn tại trên và trong đất nếu cánh đồng được làm vệ sinh, cày vùi tàn dư bông hoặc luân canh với cây trồng khác.
- Nguồn bệnh trong không khí: Bào tử nấm luôn tồn tại trong không khí tại Nha Hố, kể cả khi không có bông tồn tại trên đồng. Số lượng bào tử nấm đặc biệt cao trong các tháng có nhiều diện tích trồng bông và bông đang bị bệnh. Đây là nguồn bệnh rất quan trọng, rất dễ lây lan và khó phòng trừ.
- Nguồn bệnh trên cỏ dại: Bào tử nấm luôn tồn tại quanh năm trên cỏ dại xung quanh đồng bông. Nguồn bệnh này quan trọng tương tự như nguồn bệnh trong không khí. Đến nay vẫn chưa xác định được cây ký chủ phụ của nấm gây bệnh MT.
- Nguồn bệnh trên hạt giống: Bào tử nấm tồn tại trên hạt giống còn lông áo với số lượng lớn, sau khi được xử lý axit và Gaucho số lượng bào tử có giảm (khoảng 70%) nhưng vẫn còn với số lượng khá cao. Tuy nhiên, chưa rõ khả năng gây bệnh của nguồn bệnh này.
Như vậy, nguồn bệnh ban đầu chỉ tồn tại trên hạt giống, không khí và cỏ dại. Đây là khó khăn lớn cho công tác phòng trừ.
Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại
(Integrated pest management )
1. Mở đầu
Trong hơn nửa thế kỷ qua, sản xuất nông nghiệp thế giới đã có những biến đổi mạnh mẽ. Nền nông nghiệp cổ truyền với mục tiêu tự cung tự cấp một cách khiêm tốn đã được thay thế bằng nền nông nghiệp hiện đại lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chủ yếu.
Hàng loạt giống cây trồng mới lai tạo có năng suất cao đã ra đời, thay thế cho các giống cổ truyền, năng suất thấp nhưng có sức chống chịu tốt với sâu bệnh. Phân hoá học được sản xuất và cung cấp khối lượng lớn thay thế cho nguồn phân hữu cơ, các vùng chuyên canh, đơn canh rộng lớn hình thành thay thế cho phương thức đa, xen canh... tất cả những thay đổi đó đã tạo đièu kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển và bùng phát thành dịch.
Sự ra đời của hàng loạt thuốc trừ sâu hữu cơ từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II giúp con người phòng trừ sâu hại tốt hơn, đảm bảo năng suất cây trồng cao hơn. Đi đôi với những điểm ưu việt đó việc dùng thuốc trừ sâu một cách quá mức đã để lại những hậu qủa nghiêm trọng: gây nên những biến đổi sâu sắc trong hệ sinh thái nông nghiệp, huỷ hoại môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng.
Đối với cây bông, trên thế giới đã tổng kết sự phát triển của nghề trồng bông qua 5 giai đoạn dựa trên cơ sở của việc sử dụng các biện pháp phòng trừ:
Giai đoạn 1(Giai đoạn tự cấp tự túc): Giai đoạn này người ta sử dụng các giống địa phương, chống chịu sâu bệnh tốt, phòng trừ sâu bệnh chủ yếu bằng biện pháp cơ giới, năng suất thấp.
Giai đoạn 2 (Giai đoạn khai thác) : Bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, khi thuốc hoá học trừ sâu ra đời. Giai đoạn này sử dụng các giống có năng suất cao nhưng chống chịu sâu bệnh kém và sử dụng tối đa thuốc hoá học trừ sâu. Ban đầu phòng trừ sâu hại tốt, năng suất cao, trồng bông có hiệu quả.
Giai đoạn 3 (giai đoạn đình trệ) : Giai đoạn thứ 2 không được bao lâu thì xuất hiện hiện tượng sâu kháng thuốc, hiệu lực trừ sâu của các loại thuốc ngày càng giảm, số lần phun thuốc ngày càng tăng nhưng vẫn không bảo vệ được năng suất bông, sự xuất hiện một số loại sâu hại mới, tình hình sâu hại trở nên ngày càng nguy kịch, nghề sản xuất bông không có hiệu quả.
Giai đoạn 4 (giai đọạn khủng khoảng) : Do không khống chế được sâu hại, nên không bảo vệ được cây bông, trồng bông không có hiệu quả, diện tích bông bị thu hẹp.
Giai đoạn 5 (giai đoạn phòng trừ tổng hợp) : Dần dần người ta nhận ra rằng phòng trù sâu bệnh không thể chỉ bằng con đường hoá học đơn thuần như quan niệm ban đầu, khi các hợp chất này mới được đưa ra sản xuất. Từ đó “phòng trừ tổng hợp” ra đời. Sản xuất bông có hiệu quả hơn, ngành bông lại phục hồi và phát triển.
Cho đến nay, phòng trừ tổng hợp đã có hơn 30 năm nghiên cứu và đang được áp dụng vào sản xuất ở nhiều nước trên thế giới. Phòng trừ tổng hợp ngày nay đã trở thành chiến lượng phòng trừ sâu bệnh ở nhiều nước và được nhìn nhận như một nội dung cơ bản của nông nghiệp bền vững.
Nghề trồng bông ở nước ta tiếp cận với phòng trừ tổng hợp khá sớm. Từ 1983, một chương trình phòng trừ tổng hợp trên bông được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng trong sản xuất như luân, xen canh cây trồng, chuyển đổi cơ cấu thời vụ, chọn tạo những giống bông có khả năng kháng rầy, xử lý hạt giống bằng thuốc nội hấp...và đã có những thành công đáng kể trong việc làm giảm số lần phun thuốc từ 15-20 lần/vụ xuống còn 1-3 lần/ vụ, giảm chi phí phòng trừ từ 40-60% xuống con 5%, góp phần làm tăng năng suất và mở rộng diện tích trồng bông.
2. Những hậu quả của thuốc trừ sâu, bệnh đối với sản xuất nông nghiệp và nhiễm độc môi trường.
Hình thành các chủng sâu kháng thuốc
Trong khi sử dụng thuốc người ta nhận thấy muốn đạt được hiệu quả phòng trừ như lúc ban đầu, hằng năm phải tăng thêm nồng độ thuốc. Cho đến một lúc nào đó sâu hại trở nên không còn mẫn cảm với loại thuốc đó nữa. Tức là sâu đã chống thuốc, ngoài ra còn thấy có hiện tượng chống chéo (cross resistance). Khi sâu hại đã chống một loại thuốc nào đó thì nhanh chóng trở nên chống với tất cả các thuốc trong cùng nhóm. Đến năm 1986 đã biết có tới 447 loài côn trùng và nhện chống thuốc, trong đó có 264 loài gây hại trong nông nghiệp (dẫn theo Nguyễn Công Thuật, 1996). Nghiên cứu của Georghiou và Mellon, (1983) cho biết có khoảng 26 loài sâu hại trên bông thuộc nhiều bộ khác nhau đã kháng với một hay nhiều loại thuốc như sâu xanh, sâu loang, sâu hồng, rầy xanh, rệp, ...Nhiều loại nấm gây bệnh, cỏ dại, tuyến trùng và chuột cũng có tính kháng thuốc. Theo tài liệu của hãng Bayer (1986) đã biết tới 100 loài nấm bệnh, 48 loài cỏ dại, 2 loài tuyến trùng và 5 loài chuột có tính chống thuốc.
Xuất hiện những sâu hại mới :
Ở những nơi đã sử dụng thuốc trừ sâu một cách phổ biến, người ta thấy xuất hiện một số loại sâu hại mới. Vùng Ninh thuận, trước đây sâu keo da láng Spodotere exigua chỉ gây hại trên cây tiêm lang nhưng từ đầu những 80 đã trở thành loại sâu hại nguy hiểm trên bông mùa khô, rất khó phòng trừ có hiệu quả bằng thuốc hoá học.
Gây ra hiên tượng tái phát của sâu hại
Qua một thời gian sử dụng thuốc người ta cũng nhận thấy một số loàI sâu hại lúc đầu tưởng như có thể phòng trừ đơn giản và dễ dàng bằng thuốc hoá học, nhưng thực tế đã không phải như vậy.
Trong những năm đầu, do tác dụng của thuốc hoá học, mật độ sâu hại trên đồng có giảm đi, nhưng trong những năm tiếp theo mặc dù số lượng thuốc sử dụng nhiều lên nhưng mật độ sâu không những không giảm đi mà còn tăng lên hơn trước. Kết quả là thiệt hại mùa màng càng nặng thêm. Nguyên nhân của hiện tượng này khá phức tạp. Trước hết dùng thuốc nhiều đã gây ra mất cân bằng sinh học trên đồng ruộng. Một lượng lớn các loài thiên địch (các loài côn trùng ký sinh, động vật và côn trùng ăn sâu...) của sâu hại đã bị tiêu diệt. Do vậy, quần thể thiên địch không còn đủ khả năng khống chế sâu hại, làm cho chúng tự do phát triển và nhân số lượng lên nhanh chóng. Ngoài ra, khi phun thuốc trên đồng ruộng những cá thể sâu hại còn sống sót (do không bị nhiễm độc với liều lượng đủ gây chết) chúng có sức sống và sức sinh sản mạnh hơn. Đây là bản năng sinh tồn của sinh vật, một hiện tượng thường gặp trong giới tự nhiên.
Tiêu diệt các thiên địch của sâu hại
Các loại thuốc hoá học sử dụng trên đồng ruộng khi phun lên cây không những chỉ giết chết sâu hại mà đồng thời còn ảnh hưởng đến các loài thiên địch của chúng. Trên bông trong những năm trước đây khi dùng Azodrin để phòng trừ các loài sâu hại đã giết chết nhiều loài thiên địch như bọ chân chạy Carabidae, ruồi ăn rệp Syrphidae, bọ rùa, nhện và các loài ong, ruồi ký sinh,...
Gây ngộ độc cho người, gia súc và các động vật có ích khác
Rất nhiều nghiên cứu đã cảnh báo tình hình ngộ độc do thuốc trừ sâu gây ra cho người sử dụng. Nhiều trường hợp thuốc gây ngộ độc như làm mẩn ngứa, đau mắt, viêm họng, khó thở, thậm chí gây chết người. Thuốc trừ sâu cũng gây ngộ độc cho gia súc và gia cầm sử dụng các sản phẩm trồng trọt, nhiều loài chim, rắn đã bị trúng độc trên đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_day_nghe_kt_trong_bong_2011_7455.doc