Tài liệu Tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tiên lượng của nhồi máu não tuần hoàn sau: Nghiên cứu tiền cứu 115 trường hợp - Lệ Tự Phương Thảo: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ TIÊN LƯỢNG
CỦA NHỒI MÁU NÃO TUẦN HOÀN SAU:
Nghiên cứu tiền cứu 115 trường hợp
Lê Tự Phương Thảo*, Lê Văn Thành*
TÓM TẮT:
Nhồi máu não tuần hoàn sau (hệ đốt sống thân nền) có nhiều diễn tiến lâm sàng và tiên lượng khác
nhau. Chúng tôi nghiên cứu tiền cứu các yếu tố nguy cơ, triệu chứng lâm sàng và tiên lượng ở 115 BN
nhồi máu tuần hoàn sau. Các yếu tố nguy cơ thường gặp là tăng huyết áp (79.1%), rối loạn lipid máu
(72%), thuốc lá (40%), bệnh mạch vành (38.3%) và đái tháo đường (24.3%). Hai mươi sáu bệnh nhân
(BN) (22.6%) có cơn thoáng thiếu máu não trước đột quỵ, 89 BN (77.4%) có đột quỵ mà không kèm cơn
thoáng thiếu máu não. Nhức đầu, buồn nôn và nôn, diễn tiến chậm, bậc thang hoặc trồi sụt là những
triệu chứng thường gặp. 11.3% BN tử vong trong vòng 6 tháng, tuy nhiên tỉ lệ tử vong liên quan đe...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tiên lượng của nhồi máu não tuần hoàn sau: Nghiên cứu tiền cứu 115 trường hợp - Lệ Tự Phương Thảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ TIÊN LƯỢNG
CỦA NHỒI MÁU NÃO TUẦN HOÀN SAU:
Nghiên cứu tiền cứu 115 trường hợp
Lê Tự Phương Thảo*, Lê Văn Thành*
TÓM TẮT:
Nhồi máu não tuần hoàn sau (hệ đốt sống thân nền) có nhiều diễn tiến lâm sàng và tiên lượng khác
nhau. Chúng tôi nghiên cứu tiền cứu các yếu tố nguy cơ, triệu chứng lâm sàng và tiên lượng ở 115 BN
nhồi máu tuần hoàn sau. Các yếu tố nguy cơ thường gặp là tăng huyết áp (79.1%), rối loạn lipid máu
(72%), thuốc lá (40%), bệnh mạch vành (38.3%) và đái tháo đường (24.3%). Hai mươi sáu bệnh nhân
(BN) (22.6%) có cơn thoáng thiếu máu não trước đột quỵ, 89 BN (77.4%) có đột quỵ mà không kèm cơn
thoáng thiếu máu não. Nhức đầu, buồn nôn và nôn, diễn tiến chậm, bậc thang hoặc trồi sụt là những
triệu chứng thường gặp. 11.3% BN tử vong trong vòng 6 tháng, tuy nhiên tỉ lệ tử vong liên quan đến đột
quỵ cấp tính (ở thời điểm 1 tháng) chỉ ở mức 2.6%. Nhìn chung tiên lượng tương đối tốt, 66.1% BN độc lập
trong sinh hoạt hàng ngày 6 tháng sau đột quỵ. Tuổi hơn 75, giảm mức độ thức tỉnh và cơ chế thuyên tắc
từ tim liên quan đến tiên lượng xấu lúc xuất viện.
SUMMARY
CHARACTERISTICS AND PROGNOSIS OF POSTERIOR CIRCULATION ISCHEMIA:
A PROSPECTIVE STUDY ON 115 CASES
Le Tu Phuong Thao, Le Van Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh
* Vol. 9 * Supplement of No 1 * 2005: 114 – 120
Posterior circulation (vertebrobasilar) ischemia has diverse clinical courses and outcomes. We studied
prospectively risk factors, symptoms, signs and outcomes in 115 patients with posterior circulation
ischemia. The common vascular risk factors were hypertention (79.1%), hyperlipidemia (72%), smoking
(40%), coronary artery disease (38.3%), diabetes mellitus (24.3%). Twenty six patients (22.6%) had
transient ischemic attacks (TIAs) before stroke, 89 patients (77.4%) had strokes without TIAs. Headache,
nausea, vomiting, slow progression, stepwise or fluctuating in clinical course were the common findings.
11.3% of patients died within 6 months, but mortality related to the acute stroke (at 1 month) was only
2.6%. The outcome was generally favorable, 66.1% patients reached independence in daily activities at 6
months. Age greater than 75 years, reduced level of consciousness and cardiogenic embolism carried the
poor prognosis at discharge.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhồi máu não tuần hoàn sau (hệ động mạch đốt
sống thân nền) ít được đề cập hơn so với nhồi máu
não tuần hoàn trước (hệ động mạch cảnh), và chỉ
chiếm khoảng 9-26% trong toàn bộ nhồi máu
não(1,2,13). Vì vậy, hiểu biết về nhồi máu tuần hoàn sau
còn kém xa so với hiểu biết ở tuần hoàn trước và
nhiều quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại. Khoảng 15
năm trở lại đây, các kỹ thuật để chứng minh tổn
thương nhu mô và tổn thương mạch máu gây nên
nhồi máu tuần hoàn sau đã trở nên thông dụng. Với
kỹ thuật chụp nhu mô, chụp mạch máu não bằng
cộng hưởng từ, chúng ta có thể thăm dò tương đối
đầy đủ và không xâm lấn những bệnh nhân (BN)
nhồi máu tuần hoàn sau, và những hiểu biết về nhồi
* Bộ môn Thần Kinh học, Trung Tâm Đào Tạo và Bồi Dưỡng Cán bộ Y tế, TP. Hồ Chí Minh
114
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
máu tuần hoàn sau tăng lên rõ rệt.
Đa số các nghiên cứu trước đây đánh giá nhồi
máu tuần hoàn sau có tiên lượng xấu, tỉ lệ tử vong
cao(5,14). Trong khi đó, các nghiên cứu của
Bogousslavsky và cộng sự(cs)(3), của Caplan và cs(7), lại
ghi nhận tiên lượng tốt, tỉ lệ tử vong thấp. Tại Việt
Nam, nghiên cứu về nhồi máu não tuần hoàn sau ít
được đề cập đến. Đa số các nghiên cứu lồng ghép
nhồi máu tuần hoàn sau trong bệnh cảnh nhồi máu
não chung(13), hoặc trong bệnh cảnh tai biến mạch
máu não chung của hố sau (bao gồm cả nhồi máu
não và xuất huyết não(22)), và đánh giá tổn thương
nhu mô dựa trên chụp cắt lớp vi tính, vì vậy tính
chính xác không cao. Trước tình hình như vậy, chúng
tôi quyết định thực hiện nghiên cứu nhồi máu não
tuần hoàn sau dựa trên cộng hưởng từ để tìm các đặc
điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và tiên lượng riêng biệt
cho nhồi máu hệ động mạch này. Từ đó xác định
những yếu tố có thể tiên đoán tiên lượng chức năng ở
thời điểm xuất viện.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- BN được xác định có nhồi máu não thuộc phân
bố hệ tuần hoàn sau (hệ đốt sống thân nền) (dựa vào
lâm sàng và hình ảnh học).
- BN phải đủ điều kiện kinh tế để trang trải một
phần các thăm dò về nhu mô và mạch máu não, đặc
biệt là chụp cộng hưởng từ để có thông tin về nhồi
máu não trên cộng hưởng từ.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- BN chỉ có cơn thoáng thiếu máu não
- BN chỉ nhồi máu ở vùng phân bố hệ tuần hoàn
trước (hệ động mạch cảnh)
- Huyết khối tĩnh mạch não
- Xuất huyết não
- Dị dạng mạch máu não
- BN có bệnh lý thần kinh hoặc bệnh lý khác trước
đó có thể làm đánh giá sai mức độ tổn thương thần
kinh hoặc mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, cắt
ngang, tiền cứu
Mẫu: các BN nhồi máu não tuần hoàn sau nhập
viện tại khoa Thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy (hoặc tại
khoa Tim mạch, Nội tiết.. của Bệnh viện Chợ Rẫy
được các bác sĩ Thần kinh khám và theo dõi) trong
khoảng thời gian 12/1998 đến 1/2003. Tổng cộng thu
nhận 115 trường hợp.
Thu thập số liệu
Các yếu tố nguy cơ: ở mỗi BN chúng tôi tiến
hành hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, khảo sát cận lâm
sàng ghi nhận các yếu tố nguy cơ (tuổi, giới tính,
tăng huyết áp, tiểu đường, hút thuốc lá, rượu, rối loạn
lipid máu, bệnh mạch vành, bệnh van tim, loạn nhịp
tim, tiền sử bản thân và gia đình có tai biến mạch
máu não).
Các dấu hiệu lâm sàng: các biểu hiện thần kinh
(cơn thoáng thiếu máu não, kiểu khởi phát nhồi máu,
thời gian khởi phát nhồi máu, hoàn cảnh khởi phát)
và triệu chứng lâm sàng (nhức đầu, buồn nôn, nôn,
mức độ thức tỉnh).
Thăm dò tim mạch: điện tâm đồ, siêu âm tim
Đánh giá tiên lượng: BN được đánh giá điểm
Rankin có hiệu chỉnh lúc nhập viện, điểm Rankin lúc
ra viện, điểm Barthel ở thời điểm xuất viện, ở thời
điểm 3 tháng, 6 tháng sau nhồi máu não. Điểm
Rankin ≤ 2 hoặc Barthel ≥ 60 được xem là có khả
năng độc lập trong sinh hoạt hàng ngày (tiên lượng
tốt). Ngược lại, điểm Rankin >2 hoặc Barthel < 60
có nghĩa là BN phụ thuộc trong sinh hoạt hàng ngày
(tiên lượng xấu) hoặc tử vong. Tỉ lệ tử vong được
đánh giá 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng sau đột quỵ.
Các số liệu được thu thập theo mẫu và nhập, xử lý
bằng phần mềm SPSS 10.05. Các biến số định lượng
độc lập sẽ được mô tả bằng hai đại lượng trung bình
và độ lệch chuẩn (X ± SD). Đối với các biến số định
tính chúng tôi mô tả bằng hai đại lượng tần số và tần
suất. Để khảo sát sự tương quan ảnh hưởng giữa các
yếu tố chúng tôi lập bảng 2 x2 để tính chi bình
phương và tỉ số chênh (Odds Ratio OR), khoảng tin
115
cậy 95% (confidence intervals CI). Nếu OR > 1.5 và
chi bình phương cho ngưỡng ý nghĩa p < 0.05 thì có
sự tương quan, còn ngược lại là yếu tố nhiễu, cần
khảo sát kỹ với mẫu lớn hơn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi
Tổng cộng có 115 BN trong đó 71 là nam và 44 là
nữ (tuổi trung bình 59.71 ± 14.39, từ 18-86 tuổi).
Nam giới chiếm nhiều hơn nữ giới ở mọi lứa tuổi,
ngoại trừ tuổi > 75 (bảng 1).
Cơn thoáng thiếu máu não
Đột quỵ không có cơn thoáng thiếu máu não xảy
ra ở 89 BN (77.4%); 19 BN (16.5%) có cơn thoáng
thiếu máu não thuộc hệ đốt sống thân nền, 7 BN
(6.1%) có cơn thoáng trước đột quỵ nhưng không thể
xác định vị trí giải phẫu của cơn thoáng.
Bảng 1: Lớp tuổi và phân bố giới tính
Giới tính Lớp tuổi
Nam Nữ
Tổng cộng
Dưới 36 7 1 8
Từ 36-55 19 12 31
Từ 56-65 18 14 32
Từ 66-75 20 8 28
Trên 75 7 9 16
Tổng cộng 70 44 115
Diễn tiến
Bảng 2 cho thấy diễn tiến lúc khởi phát đột quỵ,
chúng tôi gọi là khởi phát ‘diễn tiến nhanh’ nếu BN
có thiếu sót thần kinh tối đa trong 12 giờ đầu sau khởi
phát và “diễn tiến chậm’ nếu kéo dài hơn 12 giờ.
Bảng 2: Diễn tiến khởi phát đột quỵ
Diễn tiến Tần số Tần suất
Đột ngột
Diễn tiến nhanh
Diễn tiến chậm
Diễn tiến bậc thang hoặc trồi sụt
15
28
42
30
13.0%
24.3%
36.5%
26.1%
Tổng cộng 115 100.0%
Hoàn cảnh khởi phát
Hai mươi chín BN (25.2%) đột quỵ xảy ra trong
khi ngủ hoặc sau ngủ dậy, 1 BN (0.9%) đột quỵ xảy ra
sau phẫu thuật, 85 BN (73.9%) xảy ra khi đang thức.
Trong số BN đột quỵ xảy ra trong khi ngủ, có 12 BN
ghi nhận được giờ xảy ra tai biến (BN đang ngủ đột
ngột nhức đầu dữ dội, BN đang ngủ người nhà phát
hiện có cử động bất thường ...). Như vậy cùng với 85
BN đột quỵ xảy ra lúc thức tổng cộng có 97 BN có giờ
chính xác đột quỵ (hình 1). Chúng tôi ghi nhận đột
quỵ xảy ra nhiều vào buổi sáng (từ 6 đến 12 giờ sáng)
(34.8%) và buổi chiều tối (từ 15 đến 18 giờ) (21.7%).
Hoàn cảnh xảy ra tai biến trong đa số trường hợp là
lúc BN đang thức và làm việc bình thường (n = 56;
48.7%), một số xảy ra lúc BN thức, nghỉ ngơi (n =
18; 15.7%), 2 BN (1.8%) có hoàn cảnh đặc biệt (1 sau
phẫu thuật, và 1 sau tụt huyết áp hệ thống sau tiêu
chảy), 4 BN (3.8%) xảy ra sau căng thẳng hoặc sau
tranh chấp (stress).
Hình 1: Giờ khởi phát nhồi máu não
Các yếu tố nguy cơ (bảng 3)
Bảng 3. Các yếu tố nguy cơ
Yếu tố nguy cơ Tần số Tần suất
Tăng huyết áp 90 79.1%
Rối loạn lipid máu 80 72%
Bệnh mạch vành 44 38.3%
Đái tháo đường 28 24,3%
Hút thuốc lá 39 (14 bỏ hút) 33.9%
Rượu 23 20%
Rượu cấp trong 24 giờ 8 7%
Bệnh mạch máu ngoại biên 1 0.9
Sử dụng thuốc ngừa thai <45
tuổi
0 0%
Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ thường gặp nhất,
được ghi nhận trong 90 BN (79.1%), trong đó 74 BN
biết tăng huyết áp trước khi đột quỵ và 17 BN chỉ biết
bị tăng huyết áp khi đột quỵ xảy ra. Trong số 74 BN
gio chinh xac xay ra TBMMN
242220181614121086420
C
ou
nt
12
10
8
6
4
2
0
Số
bệnh
nhân
Giờ khởi phát
116
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
biết tăng huyết áp trước đột quỵ chỉ một BN điều trị
hiệu quả (giữ mức huyết áp <140/90mmHg), số còn
lại điều trị không hiệu quả hoặc không điều trị thường
xuyên. Rối loạn lipid máu là yếu tố nguy cơ thường
gặp thứ hai, xảy ra trong 80 BN (72%). Hút thuốc lá
hiện diện trong 46 BN (40%), đái tháo đường gặp
trong 28 BN (24.3%).
Bệnh lý tim mạch rất thường gặp. Bệnh mạch
vành hiện diện trong 44 BN (38.3%). Trong số 93 BN
được khảo sát siêu âm tim, 72 BN có bất thường về
tim mạch. Sau khi phối hợp lâm sàng, cận lâm sàng
(điện tâm đồ, siêu âm tim), hình ảnh học (cộng
hưởng từ, chụp mạch máu bằng cộng hưởng từ)
chúng tôi ghi nhận có 24 BN nhồi máu não có khả
năng thuyên tắc từ tim. Tiền sử đi cách hồi chỉ hiện
diện ở 1 BN (0.9%).
Rượu cấp trong 24 giờ xảy ra trong 8 BN. Tiền sử
sử dụng thuốc ngừa thai ở phụ nữ < 45 tuổi không
được ghi nhận ở BN nào cả.
Các biểu hiện lâm sàng (bảng 4)
Nhức đầu hiện diện trong 46 BN (40%). Buồn
nôn, nôn xảy ra trong 55 BN (47.8%). Giảm mức độ
thức tỉnh (từ ngủ gà đến hôn mê) được ghi nhận
trong 40 BN (34.8%).
Bảng 4. Các biểu hiện lâm sàng
Triệu chứng Tần số Tần suất
Nhức đầu 46 40%
Buồn nôn, nôn 55 47,8%
Rối loạn ý thức 40 34.8%
Tiên lượng
Tỉ lệ tử vong và mức độ độc lập trong sinh hoạt
hàng ngày được trình bày trong bảng 5 và bảng 6. Ba
trong số 115 BN tử vong (2,6%) trong vòng 1 tháng
sau đột quỵ.
Bảng 5. Điểm Rankin có hiệu chỉnh ở thời điểm nhập
viện và xuất viện
Điểm Rankin có hiệu chỉnh Lúc nhập viện
n (%)
Lúc xuất viện
n (%)
1 (Không khuyết tật rõ ràng) 1 (0.9) 9 (7.8)
2 (Khuyết tật nhẹ) 4 (3.5) 15 (13)
3 (Khuyết tật trung bình) 11 (9.6) 7 (6.2)
4 (Khuyết tật trung bình
nặng)
33 (28.7) 38 (33)
Điểm Rankin có hiệu chỉnh Lúc nhập viện
n (%)
Lúc xuất viện
n (%)
5 (Khuyết tật nặng) 50 (43.5) 38 (33)
6 (Rối loạn ý thức hoặc hôn
mê)
16 (18.9) 5 (4.3)
7 Tử vong 0 3 (2.6)
Tổng cộng 115 (100) 115 (100)
Bảng 6:Tiên lượng chức năng ở thời điểm xuất viện,
3 tháng, 6 tháng sau đột quỵ
Tiên lượng
chức năng
Lúc xuất viện
n (%)
3 tháng sau
đột quỵ
n (%)
6 tháng sau
đột quỵ
n (%)
Barthel ≥ 60 (tốt) 30 (26.1%) 59 (51.3%) 76 (66.1%)
Barthe< 60 (xấu) 82 (71.3%) 50 (43.5%) 26 (22.6%)
Tử vong 3 (2.6%) 6 (5.2%) 13 (11.3%)
Tương quan giữa dữ liệu cơ bản với điểm Barthel
lúc xuất viện được trình bày trong bảng 7. Chúng tôi
ghi nhận có 3 yếu tố có thể liên quan đến tiên lượng
xấu của BN lúc xuất viện: tuổi >75 (tỉ số chênh OR=
11.9, khoảng tin cậy 95% CI = 0.69-205.36, p =
0.03), rối loạn ý thức (tỉ số chênh OR= 10.25, khoảng
tin cậy 95% CI = 2.18-46.00, p = 0.000), cơ chế
thuyên tắc từ tim (tỉ số chênh OR = 8.71, khoảng tin
cậy 95% CI = 1.11-67.97, p= 0.01).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nam và nữ
khi đánh giá tiên lượng chức năng của BN ở thời
điểm xuất viện. Các yếu tố như tăng huyết áp, đái
tháo đường, hút thuốc lá, rượu, bệnh mạch vành, rối
loạn lipid máu, tiền sử đột quỵ trước đó, hoặc có cơn
thoáng thiếu máu não đi kèm đều không ảnh hưởng
đến tiên lượng chức năng ở thời điểm xuất viện hoặc
nếu có cũng không có ý nghĩa thống kê do p > 0.05.
Bảng 7. Mối tương quan giữa các dữ liệu cơ bản và
điểm Barthel lúc xuất viện
Dữ liệu cơ bản Barthel <
60
Barthel
≥ 60
Tỉ số chênh
(OR)
(KTC 95%)
P
Tuổi >75 16 0 11.9 (0.69-
205.36)
0.03
Phái nam 53 18 0.65 (0.26-1.67) NS
Tăng huyết áp 72 18 1.88 (0.7-5.04) NS
Đái tháo đường 21 7 0.84 (0.31-2.27) NS
Hút thuốc lá 36 10 1.09 (0.44-
2.66)
NS
Bệnh mạch vành 35 9 1.22 (0.49-3.05) NS
Rượu 11 4 0.78 (2.23-2.68) NS
Rối loạn lipid máu 65 15 2.07 (0.83-5.15) NS
117
Dữ liệu cơ bản Barthel <
60
Barthel
≥ 60
Tỉ số chênh
(OR)
(KTC 95%)
P
Tiền sử đột quỵ 19 2 3.25 (0.70-
15.02)
NS
Tiền sử cơn
thoáng thiếu máu
não
22 4 2.37 (0.65-8.68) NS
Rối loạn ý thức 41 2 10.2 (2.18-46) 0.000
Cơ chế thuyên tắc
từ tim
23 1 8.71 (1.11-
67.97)
0.01
OR: odds Ratio. KTC 95%: khoảng tin cậy 95%. NS:
không có ý nghĩa thống kê
BÀN LUẬN
Kết quả của chúng tôi ghi nhận nam giới chiếm
đa số trong nhồi máu tuần hoàn sau nhưng cũng có
số lượng nữ nhiều hơn nam ở lứa tuổi >75. Nữ hơi
nhiều hơn nam ở lứa tuổi này có thể do tuổi thọ ở
nam thấp hơn và có thể là nam giới tử vong sớm hơn
với những yếu tố nguy cơ về mạch máu. Giới tính
không ảnh hưởng lên tiên lượng chức năng trong
nghiên cứu của chúng tôi cũng đã được báo cáo trong
những nghiên cứu trước đây(12).
Cơn thoáng thiếu máu não được ghi nhận trong
26 BN (22.6%), trong đó 4 BN có đột quỵ xảy ra ngay
sau những cơn thoáng thiếu máu não. Tỉ lệ này thay
đổi nhiều trong nhồi máu tuần hoàn sau từ 12%
trong nghiên cứu của Sacks(24) cho đến 24% trong
nghiên cứu của Caplan và cs(7).
Đa số BN trong nghiên cứu của chúng tôi có diễn
tiến chậm, bậc thang hoặc trồi sụt (chiếm 62,6%).
John và cs(14) báo cáo rằng diễn tiến nặng dần hoặc
diễn tiến không ổn định xảy ra nhiều gấp đôi ở nhồi
máu tuần hoàn sau so với tuần hoàn trước.
Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định khởi phát
đột quỵ xảy ra nhiều nhất vào buổi sáng (6-12 giờ),
một vài giờ đầu trong sinh hoạt hàng ngày và có một
đỉnh thứ hai thấp hơn vào buổi chiều từ 15-18 giờ.
Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu ở Việt
Nam(11,21) và ở các nước khác8 khảo sát BN đột quỵ
chung (gồm nhồi máu não và xuất huyết não) hoặc
nhồi máu não nói chung, chứ không chỉ tập trung
vào nhồi máu tuần hoàn sau. Kiểu nhịp sinh học này
cũng giống như nhịp sinh học xảy ra trong nhồi máu
cơ tim, thiếu máu cơ tim, tử vong đột ngột do tim
mạch hoặc những biến cố mạch máu khác(8). Casetta
và cs(8) cho rằng nhịp sinh học của đột quỵ độc lập với
các yếu tố nguy cơ thường gặp, độc lập với cơ chế của
đột quỵ và độc lập với biểu hiện lâm sàng của đột quỵ.
Các tác giả này gợi ý rằng nhịp sinh học của huyết áp
cùng với những điều kiện tiền đông máu vào buổi
sáng (khả năng kết dính tiểu cầu, tình trạng tăng
đông) giữ vai trò quan trọng trong nhịp sinh học khởi
phát đột quỵ.
Các yếu tố nguy cơ thường gặp trong nghiên cứu
chúng tôi theo thứ tự là tăng huyết áp, rối loạn lipid
máu, bệnh mạch vành, đái tháo đường, hút thuốc lá.
Trong khi tỉ lệ bệnh mạch máu ngoại biên của
nghiên cứu chúng tôi rất thấp (0.9%), tỉ lệ này là ở
các nghiên cứu nhồi máu tuần hoàn sau là 5.1%(5) và
11%(2). Chúng ta biết rằng đái tháo đường xảy ra hơi
nhiều ở nhồi máu có bệnh lý mạch máu nội sọ hơn là
ngoài sọ, ngược lại bệnh mạch vành và bệnh mạch
máu ngoại biên thường gặp nhiều hơn ở bệnh lý
mạch máu ngoài sọ. Nghiên cứu của Caplan và cs(7)
cũng khẳng định điều này khi ghi nhận tăng huyết
áp, bệnh mạch vành và bệnh mạch máu ngoại biên
thường gặp ở những BN có tắc nghẽn chỗ xuất phát
ĐM đốt sống.
Tiền căn sử dụng thuốc ngừa thai ở phụ nữ < 45
tuổi không được ghi nhận trong nghiên cứu này,
trong khi tỉ lệ này thay đổi từ 2%-64% theo nghiên
cứu của Caplan(5) và Bogousslavsky(2).
Nghiên cứu chúng tôi khẳng định nhức đầu và
buồn nôn, nôn thường xuyên xảy ra trong nhồi máu
não tuần hoàn sau. Những nghiên cứu trước đây cũng
ghi nhận nhức đầu, buồn nôn và nôn thường gặp
trong nhồi máu não tuần hoàn sau hơn là tuần hoàn
trước(15,23). Khuynh hướng thường xảy ra nhức đầu
trong đột quỵ tuần hoàn sau có thể được giải thích qua
nghiên cứu thực nghiệm; các nghiên cứu này gợi ý
rằng hệ đốt sống thân nền được hệ mạch máu tam
thoa (trigeminovascular system) phân bố dày đặc hơn.
Buồn nôn và nôn là những triệu chứng thường gặp của
đột quỵ tuần hoàn sau, được nghiên cứu nhiều nhất
trong nhồi máu hành não bên, và xảy ra trong 48(20)
đến 73%(1,6) BN. Cơ chế có thể do rối loạn chức năng
118
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 9 * Phụ bản của Số 1 * 2005
tiền đình, do tổn thương phần lưng của trần thân não
(tegmentum), hoặc tổn thương trung tâm gây ói ở sàn
não thất tư(17). Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi
nhức đầu, buồn nôn và nôn là triệu chứng thường gặp
hơn trong nhồi máu tuần hoàn sau.
Tổn thương tim và quai động mạch chủ được
nhận diện rõ ràng và được xem như nguồn thuyên tắc
ở hệ tuần hoàn trước. Tử vong ở những BN nhồi máu
tuần hoàn trước thường có liên quan đến tim. Tuy
nhiên chúng ta thường không khảo sát tim và quai
động mạch chủ ở những BN có bệnh lý hệ đốt sống
thân nền. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỉ lệ
thuyên tắc từ tim vào khoảng 20.9%, tỉ lệ này thấp hơn
so với những nghiên cứu của hệ tuần hoàn trước (vào
khoảng 38% theo nghiên cứu của Caplan và cs(7)). Sự
khác biệt trong cơ chế đột quỵ có thể giải thích dựa
trên sự khác biệt về giải phẫu và về dòng máu chảy.
Khoảng 2/5 lượng máu lên não đi qua động mạch cảnh
trong và chỉ có 1/5 đi vào các động mạch đốt sống
thân nền. Hệ tuần hoàn sau chứa thân não và đồi thị
được cung cấp bởi các động mạch xuyên nhiều hơn so
với tuần hoàn trước. Nhồi máu lỗ khuyết và nhồi máu
do tắc nghẽn các nhánh động mạch nhỏ xảy ra tương
đối nhiều hơn ở tuần hoàn sau 7. Các dữ liệu của chúng
tôi về cơ chế thuyên tắc từ tim ở tuần hoàn sau có
nhiều điểm tương đồng hơn là khác biệt so với những
nghiên cứu khác(6). Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy có tỉ
lệ tương đối cao bệnh lý mạch vành và nhồi máu cơ
tim đi kèm (38.3%). Như vậy, đánh giá tim mạch ở
bệnh lý tuần hoàn sau cũng quan trọng không kém gì
ở tuần hoàn trước.
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhồi máu não
tuần hoàn sau có tỉ lệ tử vong tương đối thấp. Tỉ lệ tử
vong tại thời điểm 1 tháng là 2,6%. Tỉ lệ này cũng
tương tự như nghiên cứu nhồi máu tuần hoàn sau ở 70
BN trong Nghiên Cứu Đột Quỵ Lausane(3) (4%) và ở
361 BN trong Nghiên Cứu Đột Quỵ Tuần Hoàn Sau
của Trung tâm Y khoa New England(6) (3,6%). Tuy
nhiên, trong những nghiên cứu khác, các tác giả đánh
giá > 30% BN nhồi máu tuần hoàn sau tử vong(5). Sự
khác biệt này có lẽ do tiêu chuẩn chọn bệnh khác nhau
của những nghiên cứu trước, đặc biệt là những nghiên
cứu chỉ chọn BN có dấu hiệu thần kinh nặng nề để
chụp mạch não đồ và không thâu nhận một phổ rộng
những BN nhồi máu tuần hoàn sau.
Theo dõi ở thời điểm 6 tháng, chúng tôi ghi nhận
có 66.1% BN độc lập trong sinh hoạt hàng ngày và tỉ
lệ tử vong là 11.3%. Các tỉ lệ này cũng tương tự như
trong nghiên cứu của Bamford và cs(1) (lần lượt là
68% và 14%). Tuy nhiên, tỉ lệ BN độc lập trong sinh
hoạt hàng ngày thấp hơn so với nghiên cứu của
Muller-Kuppers và cs(18) (84%). Sự khác biệt này có
thể do cách chọn mẫu, nghiên cứu của các tác giả
trên có đến 25% BN chỉ có cơn thoáng thiếu máu
não, trong khi nghiên cứu chúng tôi không thâu
nhận những BN chỉ có cơn thoáng thiếu máu não.
Mặc dầu vậy, nhìn chung tiên lượng vẫn tốt khi so
sánh kết quả của chúng tôi với kết quả nhồi máu tuần
hoàn trước trong nghiên cứu của Bamford và cs(1).
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận cơ chế đột
quỵ do thuyên tắc từ tim làm tăng nguy cơ tiên lượng
xấu vào thời điểm xuất viện lên 8,7 lần (khoảng tin
cậy 95% = 1.11 - 67.97, p = 0.01). Nhồi máu do
thuyên tắc từ tim thường trầm trọng hơn, lan rộng
hơn, và có tỉ lệ tử vong cao hơn19. Nghiên cứu của
Petty và cs ở Mayo(19) cho thấy tỉ lệ tử vong và khuyết
tật nặng nề (Rankin 4 và 5) tại thời điểm 3 tháng sau
đột quỵ: thuyên tắc từ tim chiếm 56.8%, xơ vữa hẹp
động mạch 32.4%, nhồi máu lỗ khuyết 4.2%, và nhồi
máu không rõ nguyên nhân 35.8%.
Rối loạn ý thức là yếu tố tiên đoán mạnh về tiên
lượng chức năng ở thời điểm xuất viện, nguy cơ tiên
lượng xấu tăng gấp 10.25 lần (khoảng tin cậy 95% =
2.18-46; p = 0.000). Theo Bonita và cs(4), giảm mức
độ thức tỉnh không chỉ là yếu tố tiên đoán ở thời điểm
cấp tính mà còn là yếu tố tiên đoán tiên lượng trung
hạn và dài hạn.
Tuổi là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng lên tiên lượng của đột quỵ, có lẽ do các biến
chứng thường gặp hơn ở người lớn tuổi và tỉ lệ mắc
những bệnh hệ thống khác cao hơn(9). Nghiên cứu
của chúng tôi với tuổi >75 có tỉ số chênh cao (OR=
11.9, p = 0.03), tuy nhiên do khoảng tin cậy 95% trải
rộng (CI 95% = 0.69-205.36), chúng tôi cần một
nghiên cứu với số lượng lớn hơn để khẳng định điều
119
này. Những nghiên cứu khác cũng khẳng định tuổi
tác và rối loạn ý thức là những yếu tố tiên đoán quan
trọng nhất đối với tỉ lệ tử vong(10,12).
11. Võ Đôn (2003). Khảo sát bước đầu về nhịp sinh học
trong khởi phát đột quỵ. Tài liệu báo cáo khoa học.
Hội Thần Kinh học TP. Hồ Chí Minh. Lần thứ 2/2003.
tr. 13-17.
12. Howard G., Walker M.D., Becker C. et al. (1986).
Community hospital-based stroke programs: North
Carolina, Oregon, and New York. III. Factors
influencing survival after stroke: Proportional hazards
analysis of 4219 patients. Stroke;17:294-299.
(abstract).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp những thông
tin quan trọng về mặt dịch tễ học, các biểu hiện lâm
sàng và tiên lượng ngắn hạn, trung hạn của nhồi
máu não tuần hoàn sau. Nhức đầu, buồn nôn, nôn,
diễn tiến chậm, bậc thang hoặc trồi sụt là những triệu
chứng thường gặp trong loại nhồi máu tuần này. Tuổi
hơn 75, rối loạn ý thức, cơ chế thuyên tắc từ tim liên
quan đến tiên lượng xấu lúc xuất viện. Nhìn chung,
tiên lượng nhồi máu não tuần hoàn sau tương đối tốt.
13. Nguyễn Thi Hùng (1999). Góp phần nghiên cứu đặc
điểm hình thái học và tiên lượng của nhồi máu não
qua kỹ thuật chụp cắt lớp vi tính. Luận văn tiến sĩ Y
học, trường Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh.
14. Jones H.R., Millikan C.H., Sandok B.B. (1980).
Temporal profile (clinical course) of acute
vertebrobasilar system cerebral infarction.
Stroke;11:173-177 (abstract).
15. Jorgensen H.S., Jespersen H.F., Nakayama H. et al.
(1994). Headache in Stroke: The Copenhagen Stroke
Study. Neurology;44:1793-1797. TÀI LIỆU THAM KHẢO
16. Kim J.S., Lee J.H., Suh D.C. et al. (1994). Spectrum of
Lateral Medullary Syndrome. Correlation Between
Clinical Findings and Magnetic Resonnance Imaging
in 33 Subjects. Stroke;25:1405-1410.
1. Bamford J., Sandercock P., Dennis M. et al. (1991).
Classification and natural history of clinically
identifiable subtypes of cerebral infarction.
Lancet;337:1521-1526. 17. Libman R.B., Kwiatkowski T.G., Hansen M.D. et al.
(2001). Differences between Anterior and Posterior
Circulation Stroke in TOAST. Cerebrovasc Dis;11:311-
316.
2. Bogousslavsky J., van Melle G., Regli F. (1988). The
Lausanne Stroke Registry: Analysis of 1,000
Consecutive Patients with first Stroke. Stroke;19:
1083-1092. 18. Muller-Kuppers M., Graf K.J., Pessin M.S. (1997).
Intracranial Vertebral Artery Disease in the New
England Medical Center Posterior Circulation
Registry. Eur Neurol;37:146-156.
3. Bogousslavsky J., Regli F., Maeder P. et al. (1993).
The etiology of the posterior circulation infarcts.
Neurology;43:1528-1533.
4. Bonita R., Ford M.A., Stewart A.W. (1988). Predicting
Survival After Stroke: A Three-Year Follow-Up.
Stroke;19: 669-673.
19. Petty G.W., Brown R.D., Whisnant J.P. et al. (2000).
Ischemic Stroke Subtypes. A Population-Based Study
of Functional Outcome, Survival, and Recurrence.
Stroke;31:1062-1068. 5. Caplan L.R. (1996). Posterior Circulation Disease:
Clinical Findings, Diagnosis, and Management.
Blackwell Science, Cambridge, Mass.
20. Sacco R.L., Freddo L., Bello J.A. et al. (1993).
Wallenberg’s Lateral Medullary Syndrome. Clinical-
Magnetic Resonnance Imaging Correlations. Arch
Neurol;50:609-614.
6. Caplan L.R. (2000). Posterior Circulation Ischemia:
Then, Now, and Tomorrow. The Thomas Willis
Lecture-2000. Stroke;31:2011-2023. 21. Lê văn Thính (1999). Nhịp sinh học về sự khởi phát
nhồi máu não giai đoạn cấp. Y học TP. Hồ Chí Minh,
3, chuyên đề thần kinh học số 2, tr. 25-26.
7. Caplan L.R., Wityk R.J., Glass T.A. et al (2004). New
England Medical Center Posterior Circulation
Registry. Ann Neurol 2004; 56: 389-398. 22. Lê Tự Quốc Tuấn, Phạm văn Ý. (2003). Đặc điểm lâm
sàng và cận lâm sàng của tai biến mạch máu não dưới
lều. Y học TP. Hồ Chí Minh, 7, phụ bản số 4, tr. 48-
54.
8. Casetta I., Granieri E., Fallica E. et al. (2002). Patient
Demographic and Clinical Features and Circadian
Variation in Onset of Ischemic Stroke. Arch
Neurol;59:48-53. 23. Vestergaard K., Andersen G., Nielsen M.I. et al.
(1993). Headache in stroke. Stroke;24:1621-1624
(abstract).
9. Castillo J., Leira R. (2001). Predictors of Deteriorating
Cerebral Infarct: Role of Inflammatory Mechanisms.
Would Its Early Treatment Be Useful?. Cerebrovasc
Dis;11(suppll): 40-48.
24. Warlow C.P., Dennis M.S., Van Gijn J et al. (2001).
What caused this transient or persisting ischemic
event?. In: Stroke: A pratical guide to management,
2nd edition, pp. 223-300, Blackwell Science, Oxford.
10. Chambers B.R., Norris J.W., Shurvell B.L. et al.
(1987). Prognosis of acute stroke. Neurology;37: 221-
225 (abstract).
120
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_lieu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_tien_luong_cua_nh.pdf