Tài liệu Tắc ruột do bã thức ăn: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 2* 2002
1
TẮC RUỘT DO BÃ THỨC ĂN
Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Tác giả hồi cứu 38 trường hợp tắc ruột do bã thức ăn, gồm 24 nam và 14 nữ, trong 13 năm (1989-
2001), tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định và Bênh viện Đại Học Y Dược. 52,6% trừng hợp (t.h.) có tiền sử
phẫu thuật dạ dày. 28,9% t.h không có tiền sử phẫu thuật bụng. Bệnh cảnh lâm sàng thường giống tắc ruột
do những nguyên nhân khác trong khi X quang bụng không sửa soạn thường chỉ giúp xác định tắc ruột. Vì
vậy, chẩn đoán trước mổ khó. Về điều trị, tác giả đề nghị mổ sớm và lưu ý rằng mở lòng ruột nên được chỉ
định một cách thận trọng. Tác giả cũng nhấn mạnh đến việc giáo dục bệnh nhân về chế độ ăn để phòng
tránh tái phát.
SUMMARY
INTESTINAL OBSTRUCTION DUE TO PHYTOBEZOARS
Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 6 - No 2 - 2002: 93...
4 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tắc ruột do bã thức ăn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 2* 2002
1
TẮC RUỘT DO BÃ THỨC ĂN
Nguyễn Văn Hải*
TÓM TẮT
Tác giả hồi cứu 38 trường hợp tắc ruột do bã thức ăn, gồm 24 nam và 14 nữ, trong 13 năm (1989-
2001), tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định và Bênh viện Đại Học Y Dược. 52,6% trừng hợp (t.h.) có tiền sử
phẫu thuật dạ dày. 28,9% t.h không có tiền sử phẫu thuật bụng. Bệnh cảnh lâm sàng thường giống tắc ruột
do những nguyên nhân khác trong khi X quang bụng không sửa soạn thường chỉ giúp xác định tắc ruột. Vì
vậy, chẩn đoán trước mổ khó. Về điều trị, tác giả đề nghị mổ sớm và lưu ý rằng mở lòng ruột nên được chỉ
định một cách thận trọng. Tác giả cũng nhấn mạnh đến việc giáo dục bệnh nhân về chế độ ăn để phòng
tránh tái phát.
SUMMARY
INTESTINAL OBSTRUCTION DUE TO PHYTOBEZOARS
Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 6 - No 2 - 2002: 93 – 97
The author reviewed 38 cases (included 24 males and 14 females) of intestinal obstruction due to
phytobezoars during 13 years (1989-2001) at Nhan dan Gia dinh hospital and University Medical Center.
52,6% of cases had previous gastric surgery. 28,9% of cases had no previous abdominal operation.
Clinical presentations were often identical with intestinal obstruction due to other causes while plain
abdominal films were helpful only in confirming obstruction. So, preoperative diagnosis was difficult. In
treatment, the author suggested early operation and noticed that enterotomy should be indicated carefully.
The author also emphasized dietary education to prevent the recurrrence.
MỞ ĐẦU
Tắc ruột do bã thức ăn (TRDB) gặp không
nhiều nhưng không phải là hiếm. Năm 1972,
Đặng Hanh Đệ thông báo 2 trường hợp (t.h)
TRDB sau cắt dạ dày. Năm 1983, Nguyễn Đình
Hối và Hà Văn Quyết
(10)
báo cáo 19 t.h u bã thức
ăn đường tiêu hóa trong đó có 14 t.h TRDB. Năm
1995, Hà Văn Quyết và cộng sự
(11)
tổng kết được
31 t.h TRDB trong 17 năm tại Bệnh viện Việt -
Đức.
Mặc dù cơ chế hình thành, yếu tố thuận lợi đã
được biết đến từ lâu nhưng trên thực tế, TRDB
thường chỉ được chẩn đoán trong lúc mổ
(8)
. Việc
điều trị phẫu thuật tuy không khó nhưng biến
chứng sau mổ và tái phát vẫn còn là vấn đề cần
lưu ý. Nghiên cứu này nhằm đúc rút một số kinh
nghiệm trong chẩn đoán và điều trị TRDB.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khảo sát hồi cứu 37 t.h TRDB được điều trị
tại khoa Ngoại, Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ
1/1989 đến 12/2001 và 1 t.h TRDB được điều trị
tại Bệnh viện Đại học Y Dược năm 2001.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi, giới
Tuổi nhỏ nhất: 19, tuổi lớn nhất: 88, tuổi trung
bình: 56,3. Tỉ lệ nam/nữ: 24/14 = 1,7/1 (Bảng 1).
Bảng 1: Phân bố tuổi ở 38 trường hợp
Lứa tuổi Số ca (%)
< 20
20 – 30
31 – 40
41 – 50
51 – 60
61 – 70
71 – 80
2 (5,3%)
2 (5,3%)
6 (15,8%)
4 (10,5%)
6 (15,8%)
7 (18,4%)
9 (23,6%)
* Bộ Môn Ngoại – Đại học Y Dược TP HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 2* 2002 Nghiên cứu Y học
2
> 80 2 (5,3%)
Tiền sử
11 t.h (28,9%) không tiền sử mổ bụng. Tiền sử
ở 27 t.h như Bảng 2.
Bảng 2: Tiền sử mổ bụng.
Loại phẫu thuật Số ca (%)
Cắt dạ dày
Cắt dạ dày + cắt thần kinh X
Cắt thần kinh X
Nối vị tràng
Cắt tử cung
Vết thương thấu bụng
Viêm ruột thừa
Mổ bắt con
16 (42,1%)
1 (2,6%)
2 (5,3%)
1 (2,6%)
1 (2,6%)
1 (2,6%)
3 (8,0%)
2 (5,3%)
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: (Bảng 3)
Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng và hình ảnh
Đặc điểm Số ca (%)
Đau bụng
Nôn
Bí trung đại tiện
Bụng chướng nhiều
Aâm ruột tăng
Sờ được khối u
Răng rụng nhiều
37 (97,4%)
31 (81,6%)
17 (44,7%)
23 (60,5%)
22 (57,9%)
1 (2,6%)
5 (13,2%)
X Quang bụng đứng không sửa soạn:
Tắc ruột hoàn toàn
Tắc ruột không hoàn toàn
Không dấu tắc ruột
Thấy được khối bã
Siêu âm bụng: khối echo dày, có hơi bên trong
Chụp đại tràng thấy khối bã đoạn cuối hồi
tràng
34
17 (50,0%)
10 (29,4%)
7 (20,6%)
3 (8,0%)
1 (2,6%)
1 (2,6%)
Loại thức ăn trước khởi bệnh
8 t.h (21,1%) khai thác được loại thức ăn mà
bệnh nhân ăn trước khởi bệnh, gồm có: rau muống
(2 t.h), rau má (1 t.h), rau hẹ (1 t.h), nấm (1 t.h),
mít (1 t.h), chuối hột (1 t.h), trái cóc (1 t.h). Đa số
đều được hỏi lại sau mổ.
Chẩn đoán trước mổ
Chỉ có 2 t.h (5,4%) chẩn đoán được trước mổ.
Đa số chỉ dừng lại ở chẩn đoán Tắc ruột (TR) cơ
học chưa rõ nguyên nhân hoặc TR do dính sau
mổ. Chẩn đoán lầm lẫn hay gặp là Viêm ruột thừa
(Bảng 4).
Bảng 4: Chẩn đoán trước mổ
Chẩn đoán Số ca (%)
Tắc ruột do dính sau mổ
Tắc ruột do u
Tắc ruột cơ học không rõ nguyên nhân
Tắc ruột do bã thức ăn
Viêm ruột thừa
Bụng ngoại khoa
18 (47,3%)
1 (2,6%)
8 (21,1%)
2 (5,3%)
8 (21,1%)
(2,6%)
Thương tổn khi mổ: (Bảng 5)
Bảng 5: Thương tổn khi mổ
Thương tổn Số ca (%)
Vị trí tắc: hỗng tràng
giữa hỗng và hồi tràng
hồi tràng
Kích thước khối bã: (ghi nhận ở 18 t.h)
4 – 6 cm
7 – 10 cm
> 10 cm
Nhiều khối bã
Thương tổn kèm: Dính ruột
Viêm gây hẹp
11 (28,9%)
2 (5,3%)
25 (65,8%)
11 (61,1%)
6 (33,3%)
1 (5,6%)
1 (2,6%)
5 (13,2%)
(2,6%)
Điều trị
Phẫu thuật được áp dụng cho tất cả 38 t.h.
Loại phẫu thuật như trên Bảng 6.
Bảng 6: Loại phẫu thuật điều trị
Loại phẫu thuật Số ca (%)
Đẩy khối bã qua manh tràng
Mở lòng ruột lấy bã
Cắt đoạn ruột non
12 (31,5%)
23 (60,5%)
3 (8,0%)
Sau mổ, 5 t.h (13,2%) nhiễm vết mổ, không
có t.h nào bị xì chỗ mở ruột hay miệng nối, không
có tử vong, 1 t.h (2,6%) tái phát TRDB lần 2 sau 2
tháng.
BÀN LUẬN
Xuất độ
TRDB ít gặp. Nguyễn Đức Ninh (10) có 3 t.h
TRDB trong số 480 t.h TR cơ học (0,5%). Theo
Lo
(8)
, xuất độ TRDB trong nhiều nghiên cứu là 0,3
- 6%. Nam giới thường gặp nhiều hơn nữ
(2,8,12)
.
Căn nguyên
TRDB thường xảy ra ở bệnh nhân có tiền sử
phẫu thuật cắt dạ dày hoặc cắt thần kinh X để
điều trị loét dạ dày tá tràng. Tỉ lệ bệnh nhân có
tiền sử này thay đổi từ 45-84% t.h
(2,3,5,8,10,12)
. Hai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 2* 2002
3
loại phẫu thuật nói trên làm giảm đáng kể bài tiết
acid trong dịch vị, dẫn đến việc phân cắt các chất
xơ trong thức ăn không hoàn toàn, dễ tạo các u bã
gây TR. Theo Buchholz
(2)
và Verstandig
(12)
, phẫu
thuật mở rộng môn vị hoặc nối vị tràng làm cho
những mảnh thức ăn lớn - mà bình thường sẽ bị
môn vị ngăn lại - đi nhanh xuống ruột non và vì
vậy cũng có thể gây TR; chúng tôi đã có 1 t.h
TRDB trên bệnh nhân có tiền sử chỉ nối vị –
tràng. Ngoài ra, chúng tôi và các tác giả khác
(8,12)
còn thừa nhận dính ruột sau mổ hoặc u, viêm gây
hẹp sẵn một phần lòng ruột cũng là yếu tố thuận
lợi để bã thức ăn dễ gây TR ở những t.h không có
tiền sử phẫu thuật dạ dày.
Chế độ ăn nhiều xơ, răng rụng, sức nhai kém
cũng là những yếu tố căn nguyên quan trọng. Nếu
hỏi kỹ, có 33-71% t.h khai ăn nhiều chất xơ trước
khởi bệnh
(2,3,6,12)
và nếu khám kỹ, có thể phát hiện
sức nhai kém ở 14 - 50% t.h
(2,6)
. Tuy nhiên, theo
Norberg, sức nhai có thể không quan trọng bằng
thói quen ăn uống
(2)
. Ở nước ta, những loại rau
quả nhiều xơ thường gây TRDB là: rau má, rau
muống, củ chuối, chuối hột, măng, cam, vú sữa...
Chẩn đoán
Tỉ lệ chẩn đoán được TRDB trước mổ khá
thấp, vào khoảng 3 - 18%
(5,8,10)
. Chẩn đoán khó vì
khi đã gây TR, triệu chứng lâm sàng của TRDB
không khác TR do những nguyên nhân khác. Khối
u bã, theo chúng tôi và các tác giả khác
(5,8,10)
, ít sờ
thấy được trong lúc bụng chướng. Vì vậy, để chẩn
đoán được TRDB ở bệnh nhân vào viện trong
bệnh cảnh TR, kinh nghiệm của chúng tôi trước
hết là phải nghĩ đến nó như là một nguyên nhân
của TR, phải lưu ý tiền sử phẫu thuật dạ dày, hỏi
kỹ về thức ăn trước khởi bệnh và không quên
khám răng ở người già.
Chụp bụng đứng không sửa soạn cần thiết
nhưng thường chỉ chứng tỏ có TR non cơ học,
thường là tắc thấp, ít khi thấy được khối bã dưới
dạng khối mờ có lốm đốm hơi bên trong như mô
tả
(3,5,8,12)
. Năm 1989, Verstandig
(12)
chứng minh
chụp ruột non hoặc chụp đại tràng bằng thụt
barium có thể thấy được u bã ở 76,9% t.h, thường
dưới dạng hình khuyết nằm trong lòng ruột, có các
kẽ ngấm chất cản quang. Gần đây, Ko (1993)
(10)
dùng siêu âm bụng ở 3 t.h và đều thấy được khối
bã. Boudiaf
(1)
và Furukawa (2001)
(4)
thì cho CT
scan rất hữu ích trong việc chứng minh khối u bã
gây TR. Chúng tôi có 1 t.h chụp đại tràng bằng
thụt barium thấy được khối bã ở đoạn cuối hồi
tràng và 1 t.h siêu âm bụng thấy khối bã. Những
khảo sát hình ảnh bổ sung này, theo chúng tôi,
nếu có điều kiện, nên thực hiện để giúp chẩn
đoán trước mổ.
Thương tổn
Vị trí tắc thường ở đoạn cuối hồi tràng
(2,5,8,10)
mặc dù một số nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ tắc ở
hỗng tràng hoặc đoạn đầu hồi tràng nhiều hơn
(12)
.
Theo chúng tôi, tắc cao hay thấp tùy vào kích
thước khối bã. Lo
(8)
và Verstandig
(12)
cho rằng tắc
cao có thể do dính ruột sau mổ góp phần vào.
Đáng lưu ý là luôn có khoảng 11 - 31% t.h có
nhiều u bã cùng một lúc, nên khi mổ nhất thiết
phải kiểm tra dạ dày và toàn bộ ruột non để tránh
bỏ sót
(5,6,12)
. Ngoài ra, dính ruột và những sang
thương đã gây hẹp lòng ruột là những thương tổn
đi kèm cần được lưu ý đánh giá và giải quyết
trong mổ vì là yếu tố thuận lợi cho TRDB tái phát.
Điều trị
TRDB ít đáp ứng với điều trị bảo tồn nên
thường chỉ được giải quyết bằng phẫu
thuật
(2,3,8,9,12)
. Khi mổ, phương pháp ưu tiên là bóp
khối bã ra thành nhiều mảnh và đẩy qua manh
tràng, nếu không đẩy được thì mới mở lòng ruột
để lấy khối bã, cắt đoạn ruột chỉ áp dụng cho
những t.h khối bã không thể đẩy lên hay xuống
được và ruột đã có nguy cơ hoại tử, vỡ.
Theo Vernon (1969), tỉ lệ đẩy khối bã qua
manh tràng thành công có thể đến 38% t.h
(9)
. Lo
(8)
có 37% t.h đẩy được khối bã qua manh tràng, 53%
phải mở lòng ruột lấy bã và chỉ 10% phải cắt đoạn
ruột. Số liệu của chúng tôi tương tự của tác giả
này và đều không có biến chứng bục, xì chỗ mở
ruột hay miệng nối. Verstandig
(12)
có tỉ lệ đẩy
được khối bã qua manh tràng đến 94% dù đa số
tắc ở hỗng tràng hoặc đầu hồi tràng, có lẽ vì đa số
được chẩn đoán sớm bằng chụp cản quang và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 6* Số 2* 2002 Nghiên cứu Y học
4
được mổ sớm. Ngược lại, Hà Văn Quyết
(5)
có tỉ lệ
phải mở ruột lấy bã đến 84%, không có t.h nào
đẩy được khối bã qua manh tràng, tỉ lệ xì chỗ mở
ruột gây viêm phúc mạc là 13% trong khi không
có biến chứng này ở nhóm phải cắt đoạn ruột.
Tỉ lệ tái phát, theo nhiều tác giả, có thể 10-
14% t.h
(2,5,6)
.
Theo chúng tôi:
- Khi đã chẩn đoán được thì nên mổ sớm. Mổ
sớm giúp tránh được loét và hoại tử thành ruột tại
chỗ khối u bã đè ép, vì vậy, có thể bóp, đẩy khối
bã mà ít bị vỡ, nứt ruột; mặt khác, thành ruột trên
chỗ tắc ít phù nề, ít tổn thương tuần hoàn nên nếu
có phải mở lòng ruột cũng ít nguy cơ xì.
- Khi mở ruột, không nên mở ngay chỗ khối
bã. Lý tưởng nhất là mở ngay dưới khối bã, nơi
ruột lành lặn. Mở ở vị trí này ít bị xì nhưng nhiều
khi khó lấy được những khối bã lớn, chắc; do vậy,
có thể đẩy khối bã ngược về phía trên một đoạn
ngắn rồi mở ruột lấy bã. Tuy nhiên, không nên chỉ
định mở lòng ruột quá dễ dãi vì bao giờ cũng có
nguy cơ xì chỗ mở ruột; và nếu tổn thương tại chỗ
đã nặng thì đừng ngại cắt đoạn ruột.
- Luôn nhớ: phẫu thuật không có nghĩa chữa
dứt điểm TRDB, do vậy, trong mổ nên giảm bớt
những yếu tố thuận lợi nếu có thể được (gỡ dính,
cắt bỏ đoạn ruột hẹp...) và sau mổ phải dặn dò kỹ
bệnh nhân về chế độ ăn, cách ăn để phòng tránh
tái phát.
KẾT LUẬN
TRDB ít gặp. Chẩn đoán trước mổ không quá
khó nếu lưu ýù đến tiền sử phẫu thuật điều trị loét
dạ dày tá tràng, hỏi kỹ về thức ăn trước khi khởi
bệnh và không quên khám răng ở bệnh nhân vào
viện trong bệnh cảnh TR. Chụp bụng đứng không
sửa soạn thường giúp xác định TR, nhưng để thấy
được khối bã có lẽ cần các phương tiện hình ảnh
khác (chụp cản quang, siêu âm, CT).
Về điều trị, nên mổ sớm một khi đã chẩn đoán
được TRDB. Chọn cách mổ nào tùy thuộc vào
đánh giá thương tổn trong khi mổ. Nhưng, điều trị
tốt nhất có lẽ là phòng ngừa bằng cách hướng dẫn
kỹ chế độ ăn cho bệnh nhân, nhất là người già
yếu, răng rụng và những bệnh nhân sau phẫu
thuật dạ dày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BOUDIAF M, SOYER P, TEREM C, et al. CT evaluation of
small bowel obstruction. Radiographics 2001; 21: 613-624.
2. BUCHHOLZ RR, HAISTEN AS. Phytobezoars following
gastric surgery for doudenal ulcer. Surg Clin North Am 1972;
52: 341-352.
3. ESCAMILLA C, ROBLES CR, PARRILLA PP, et al. Intestinal
obstruction and bezoars. J Am Coll Surg 1994; 179: 285-288.
4. FURUKAWA A, YAMASAKI M, FURUICHI K, et al. Helical
CT in the diagnosis of small bowel obstruction. Radiographics
2001; 21: 341-355.
5. HÀ VĂN QUYẾT, TRẦN ĐỨC TIẾN, NGUYỄN ĐỨC TIẾN.
Tắc ruột do bã thức ăn. Ngoại khoa 1995; Số chuyên đề “Hội
nghị ngoại khoa về cấp cứu bụng và cơ quan vận động” (các
tỉnh phía Bắc): 111-114.
6. HINES JR, GUERKINK RE, GORDON RT, et al.
Phytobezoars: A recurring abdominal problem. Am J Surg
1977; 133: 672-674.
7. KO YT, LIM JH, LEE DH, et al. Small bowel obstruction:
Sonographic evaluation. Radiology 1993; 188: 649-653.
8. LO CY, LAU PWK. Small bowel phytobezoars: an uncommon
cause of bowel obstruction. Aust N Z J Surg 1994; 64: 187-189.
9. MIR AM, MIR MA. Phytobezoars after vagotomy with
drainage or resection. Br J Surg 1973; 60: 846-849.
10. NGUYỄN ĐÌNH HỐI, HÀ VĂN QUYẾT. Hình thái lâm sàng u
bã đồ ăn (phytobezoars) nằm trong đường tiêu hóa. Ngoại khoa
1983; 5: 1-6.
11. NGUYỄN ĐỨC NINH. Cấp cứu ngoại khoa (Chuyên đề về tắc
ruột). Nhà xuất bản Y học, Hà nội, 1986.
12. VERSTANDIG AG, KLIN B, BLOOM RA, et al. Small bowel
phytobezoars: Detection with radiography. Radiology 1989;
172: 705-707.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tac_ruot_do_ba_thuc_an.pdf