Tác dụng tăng lực của viên nang mềm saphraton trên chuột nhắt trắng (mus musculus var. albino)

Tài liệu Tác dụng tăng lực của viên nang mềm saphraton trên chuột nhắt trắng (mus musculus var. albino): Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học 45 TÁC DỤNG TĂNG LỰC CỦA VIÊN NANG MỀM SAPHRATON TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG (MUS MUSCULUS VAR. ALBINO) Nguyễn Lĩnh Nhân*, Trịnh Minh Thiên*, Trần Mỹ Tiên*, Nguyễn Thị Ngọc Đan*, Dương Thị Mộng Ngọc*, Trương Thị Phương Lan** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tác động tăng lực của viên nang mềm Saphraton nhằm phát triển chế phẩm có tác dụng tăng lực – chống nhược sức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp bơi kiệt sức của Brekhman có cải tiến trên chuột nhắt trắng được áp dụng để khảo sát tác dụng tăng lực của viên nang mềm Saphraton. Liều thử nghiệm dựa theo liều tính toán dự kiến sử dụng trên người 1 viên/ngày, quy đổi sang liều thử nghiệm trên chuột là 143 mg/kg thể trọng chuột. Thuốc đối chiếu được sử dụng là viên nang mềm Pharmaton liều 242 mg/kg và viên nang mềm Koligin- S liều 174 mg/kg. Kết quả: Ở thời điểm sau 60 phút dùng thuốc, viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg thể hiện tác ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng tăng lực của viên nang mềm saphraton trên chuột nhắt trắng (mus musculus var. albino), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học 45 TÁC DỤNG TĂNG LỰC CỦA VIÊN NANG MỀM SAPHRATON TRÊN CHUỘT NHẮT TRẮNG (MUS MUSCULUS VAR. ALBINO) Nguyễn Lĩnh Nhân*, Trịnh Minh Thiên*, Trần Mỹ Tiên*, Nguyễn Thị Ngọc Đan*, Dương Thị Mộng Ngọc*, Trương Thị Phương Lan** TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tác động tăng lực của viên nang mềm Saphraton nhằm phát triển chế phẩm có tác dụng tăng lực – chống nhược sức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp bơi kiệt sức của Brekhman có cải tiến trên chuột nhắt trắng được áp dụng để khảo sát tác dụng tăng lực của viên nang mềm Saphraton. Liều thử nghiệm dựa theo liều tính toán dự kiến sử dụng trên người 1 viên/ngày, quy đổi sang liều thử nghiệm trên chuột là 143 mg/kg thể trọng chuột. Thuốc đối chiếu được sử dụng là viên nang mềm Pharmaton liều 242 mg/kg và viên nang mềm Koligin- S liều 174 mg/kg. Kết quả: Ở thời điểm sau 60 phút dùng thuốc, viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg thể hiện tác dụng phục hồi sức tức thời (T60/T0 = 115,44%), tuy nhiên tác dụng này yếu hơn cả hai loại thuốc đối chiếu. Ở thời điểm sau 7 ngày và 14 ngày cho uống, tỷ lệ thời gian bơi so với thời gian bơi lần đầu ở lô thử uống viên nang mềm Saphratonliều 143 mg/kg (lần lượt 690,69% và 613,33%) tương đương với thuốc đối chiếu Pharmaton liều 242 mg/kg và tăng khác biệt đạt ý nghĩa thống kê so với lô đối chiếu Koligin - S liều 174 mg/kg. Kết luận: Viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg thể hiện tác dụng phục hồi sức tức thời sau 60 phút cũng như tác dụng tăng lực sau 7 ngày và 14 ngày dùng thuốc. Bên cạnh đó, viên nang mềm Saphraton có tác dụng tăng lực tốt hơn Koligin- S và tương đương với Pharmaton ở thời điểm 7 ngày và 14 ngày thử nghiệm. Từ khóa: Viên nang mềm Saphraton, tác dụng tăng lực. ABSTRACT STUDY ON ANTI-FATIGUE EFFECT OF SAPHRATON CAPSULE ON MOUSE (MUS MUSCULUS VAR. ALBINO) Nguyen Linh Nhan, Trinh Minh Thien, Tran My Tien, Nguyen Thi Ngoc Đan, Duong Thi Mong Ngoc, Trương Thị Phương Lan * Ho Chi Minh City Journal Of Medicine * Vol. 22 - No 5- 2018: 45 – 50 Objectives: This work studied on anti-fatigue effects in mice of Saphraton capsule for development of a product used in treatment of fatigue. Materials and Methods: The Brekhman’s mouse forced swimming test was used to study on anti-fatigue effect of Saphraton capsule. The test dose was based on human dose of 1 capsule/day corresponding to dose of 143 mg/kg body weight in mice. The reference groups were Pharmaton and Koligin capsules at the doses of 242 mg/kg and 174 mg/kg, respectively. Results: After 60 minutes treatment, mice treated with Saphraton capsules at 143 mg/kg dose (T60/T0 = 115.44%) showed an immediate ant-fatigue effect less than that of two positive controls. On the day 7 and 14, the mice treated with Saphraton capsules at 143 mg/kg had similar swimming time/first swimming time ratio (sequence 690.69% và 613.33%) to 242 mg/kg dose of Pharmaton group. This ratio was statistically significant higher than 174 mg/kg dose of Koligin group. * Trung tâm Sâm và Dược liệu TP. Hồ Chí Minh ** Công ty TNHH Sâm Sâm Tác giả liên lạc: DS. Trương Thị Phương Lan ĐT: 0913949239 Email: lansgtqn@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 46 Conclusions: The product did exhibite ant-fatigue effects at 143 mg/kg dose in mice after 60 minutes treatment as well as 7 days and 14 days treatment. In addition, the anti-fatigue effect of Saphraton capsules was better than Koligin-S and as well as Pharmaton after 7 days as well as 14 days treatment. Keywords: Saphraton capsules, anti-fatigue effect. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời đại công nghiệp hóa - hiện đại hóa ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì một trong số những vấn đề đáng báo động hiện nay là tình trạng suy nhược cả về thể chất lẫn tinh thần của con người do rất nhiều nguyên nhân như ô nhiễm môi trường, thói quen sinh hoạt không hợp lý, sức ép từ công việc. Vì thế, một trong những xu hướng chăm sóc sức khỏe cộng đồng ngày nay là hướng đến việc sử dụng các loại dược liệu hoặc chế phẩm nguồn gốc từ dược liệu có tác dụng bồi bổ cơ thể, chống nhược sức nhưng vẫn an toàn khi sử dụng lâu dài. Và sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.) là một trong số những dược liệu đặc hữu của Việt Nam với những tác dụng dược lý đã và đang được quan tâm phát triển. Theo những nghiên cứu trên động vật, hoạt chất của Sâm Ngọc Linh có tác dụng tốt lên hệ thần kinh trung ương, chống stress tâm lý và vật lý, chống trầm cảm, tăng sinh lực, tăng khả năng thích ứng, kích thích khả năng miễn dịch, kháng u và chống oxy hóa(2,6,8). Bên cạnh đó, Đinh lăng lá nhỏ (Polyscias fruticosa (L.) Harms) cũng là một trong những dược liệu gần gũi với người dân Việt Nam thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae) với nhiều tác dụng dược lý như tăng lực - chống nhược sức, chống oxy hóa, bảo vệ tim mạch, chống trầm cảm, đã và đang rất được quan tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng. Từ những cơ sở khoa học nêu trên, viên nang Saphraton đã được bào chế với từ các thành phần chiết xuất từ Sâm Ngọc Linh và Đinh lăng lá nhỏ nhằm hướng đến mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng bằng nguồn dược thảo của quốc gia để cạnh tranh, thay thế các chế phẩm ngoại nhập với giá thành cao hiện nay trên thị trường. PHƯƠNG TIỆN-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Viên nang mềm Saphraton được sản xuất vào ngày 23 tháng 8 năm 2017 và đã được xây dựng tiêu chuẩn cơ sở cho viên nang mềm tại Công ty TNHH Sâm Sâm với thành phần chính trong công thức là cao chiết từ Sâm Ngọc Linh và Đinh lăng lá nhỏ. Liều thử nghiệm dựa trên liều dự kiến sử dụng cho người là 1 viên/ ngày, quy đổi sang liều trên chuột thử nghiệm là 143 mg/kg thể trọng chuột. Động vật nghiên cứu Các thử nghiệm được thực hiện trên chuột nhắt trắng đực chủng Swiss albino, trọng lượng trung bình 25 ± 2 g, được cung cấp bởi Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang. Chuột được nuôi bằng thực phẩm viên được cung cấp bởi Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế Nha Trang, với nước uống đầy đủ. Thể tích cho uống là 0,1 ml/10 g thể trọng chuột. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế thực nghiệm, đo lường độc lập. Nghiệm pháp chuột bơi kiệt sức của Brekhman (Swimming test, cải tiến để áp dụng trên chuột nhắt trắng) được chọn để khảo sát tác dụng tăng lực của các chế phẩm từ dược liệu(1,5). Phương pháp chuột bơi thuận tiện, đơn giản giúp đánh giá tình trạng chống mệt mỏi, phục hồi sức lực của động vật thử nghiệm sau liều uống duy nhất của mẫu thử hay đánh giá tác dụng tăng lực sau 7 - 14 ngày uống liên tục mẫu thử. Chuột được mang vào đuôi gia trọng bằng 5% thể trọng, cho chuột bơi trong thùng nước có dung tích 20 lít, đường kính 30 cm, chiều cao cột nước 25 cm, nhiệt độ 29  1oC. Chuột được cho bơi lần 1, thời gian bơi tính từ khi chuột được thả vào thùng nước, bơi đến khi chìm khỏi mặt nước Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học 47 20 giây và không trồi lên được nữa, lúc đó vớt chuột ra lau khô. Ghi nhận thời gian bơi lần 1 (T0). Chọn những chuột có thời gian bơi 15 phút < x < 60 phút. Cho chuột nghỉ 5 phút, chia ngẫu nhiên các lô thí nghiệm như sau: Lô chứng: cho uống nước cất. Lô thử: cho uống Saphraton liều 143 mg/kg. Lô đối chiếu 1: cho uống Pharmaton liều 242 mg/kg (chọn liều quy đổi dựa trên liều dùng cho người theo chỉ định của nhà sản xuất là Swiss Caps AG, Husenstrasse 35, Kirchberg CH-9533, Thụy Sĩ) Lô đối chiếu 2: cho uống Koligin liều 174 mg/kg (chọn liều quy đổi dựa trên liều dùng cho người theo chỉ định của nhà sản xuất là Korea Ginseng Bio-Science Co., LTD.) Một giờ sau khi cho chuột uống mẫu thử nghiệm, ghi nhận thời gian bơi lần 2 (T60phút). Chuột được tiếp tục cho uống nước cất, các mẫu thử nghiệm liên tục (mỗi ngày một lần vào một giờ nhất định) đến ngày thứ 7 và 14 tiến hành cho chuột bơi lần 3 (T7 ngày) và lần 4 (T14 ngày). Đánh giá kết quả Đánh giá tác dụng tăng lực bằng so sánh thống kê giữa các lô thử và lô chứng các chỉ tiêu: Thời gian bơi (phút): Tỉ lệ phần trăm của thời gian bơi sau khi uống cao thử nghiệm (T60phút, T7 ngày, T14 ngày) so với thời gian bơi lần 1 (T0), được tính theo công thức: X% = (Tt/T0) × 100 Nếu T60 phút / T0 (%) của lô thử lớn hơn T60 phút / T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác dụng hồi phục sức. Nếu T7 ngày / T0 (%) của lô thử lớn hơn T7 ngày / T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác động tăng lực sau 7 ngày. Nếu T14 ngày / T0 (%) của lô thử lớn hơn T14 ngày / T0 (%) của lô chứng: mẫu thử nghiệm có tác động tăng lực sau 14 ngày. Các số liệu được biểu thị bằng trị số trung bình: M ± SEM (Standard Error of the Mean – sai số chuẩn của giá trị trung bình) và xử lý thống kê dựa vào phép kiểm One –Way ANOVA và hậu kiểm bằng Student-Newman-Keuls test (phần mềm SigmaStat-3.5). Kết quả thử nghiệm đạt ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% khi p < 0,05. KẾT QUẢ Thời gian bơi Ở thời điểm trước thử nghiệm, thời gian bơi T0 giữa các lô chứng, thử nghiệm và đối chiếu không có sự khác biệt đạt ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Ở cả ba thời điểm thử nghiệm, lô đối chiếu cho uống Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg đều có thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng uống nước cất. Như vậy, Pharmaton và Koligin ở liều đã chọn đạt yêu cầu để sử dụng làm lô đối chiếu. Saphraton liều 143 mg/kg có thời gian bơi T60 phút tăng khác biệt đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng. Lô cho uống Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg có thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng và thời điểm bơi lần 1 (T0). Chứng tỏ Saphraton có tác dụng phục hồi sức sau khi dùng 60 phút. Sau 7 ngày, Saphraton liều 143 mg/kg, Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg có thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng và so với thời điểm bơi lần 1 (T0). Về thời gian bơi, lô Saphraton không khác biệt so với lô Pharmaton (p < 0,05) nhưng cao hơn có ý nghĩa thống kê so với lô Koligin (p < 0,05). Như vậy, Saphraton liều 143 mg/kg có tác dụng tăng lực tương đương Pharmaton liều 242 mg/kg và tốt hơn Koligin liều 174 mg/kg. Sau 14 ngày, thời gian bơi ở lô Saphraton liều 143 mg/kg tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng và so với thời điểm bơi lần 1 (p < 0,05). Lô đối chiếu Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg cũng có thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng và so với thời điểm bơi lần 1 (p < 0,05); giữa 2 lô này có tác dụng tương đương nhau (p > 0,05). Thời gian bơi ở lô Saphraton khác biệt không đáng kể so với lô Pharmaton và Koligin (p > 0,05). Như vậy, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 48 Saphraton liều 143 mg/kg có tác dụng tăng lực tương đương Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg (Bảng 1). Tỉ lệ % thời gian bơi Sau khi dùng thuốc 60 phút, tỉ lệ thời gian bơi của lô Saphraton liều 143 mg/kg, Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin-S liều 174 mg/kg tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng; chứng tỏ các mẫu thử có tác dụng hồi phục tức thời nhưng kết quả của lô Saphraton thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với lô Pharmaton và Koligin (p < 0,05); chứng tỏ Saphraton có tác dụng hồi phục sức tức thời nhưng không bằng Pharmaton và Koligin-S. Sau 7 và 14 ngày, Saphraton liều 143 mg/kg, Pharmaton liều 242 mg/kg và Koligin liều 174 mg/kg có tỉ lệ thời gian bơi tăng đạt ý nghĩa thống kê so với lô chứng (p < 0,05); chứng tỏ cả 3 mẫu đều có tác dụng tăng lực. Tỉ lệ thời gian bơi của lô Saphraton cao hơn lô Koligin-S đạt ý nghĩa thống kê (p < 0,05) nhưng không khác biệt so với lô Pharmaton (p > 0,05). Như vậy, viên nang mềm Saphraton thể hiện tác dụng tăng lực tốt hơn viên Koligin-S và tương đương với viên Pharmaton (Bảng 2). Bảng 1. Thời gian bơi (phút) của chuột tại các thời điểm ở các lô thử nghiệm Lô (n = 10) Liều (viên/kg) T0 T60 phút T7 ngày T14 ngày Chứng - 28,70 ± 3,00 19,80 ± 2,98 27,00 ± 2,26 29,90 ± 2,45 Saphraton 143 mg/kg 26,25 ± 2,56 28,50 ± 1,64 * 178,50 ± 1,24 *$ 152,63 ± 12,19 *$ Pharmaton 242 mg/kg 29,20 ± 2,62 48,60 ± 5,02 *$ 173,00 ± 7,00 *$ 180,00 ± 0,00 *$ Koligin-S 174 mg/kg 30,00 ± 1,02 59,20 ± 7,90 *$ 146,40 ± 11,45 *$ 124,00 ± 16,41 *$ *: p < 0,05 so với lô chứng trong cùng thời điểm #: p < 0,05 so với lô đối chiếu Pharmaton trong cùng thời điểm $: p < 0,05 so với thời điểm bơi lần 1(T0) trong cùng lô thử nghiệm. Bảng 2. Tỉ lệ % thời gian bơi ở các thời điểm thử nghiệm so với trước thử nghiệm Lô (n = 10) Liều (mg/kg) T60 phút/T0 T7 ngày/T0 T14 ngày/T0 Chứng - 69,24 ± 9,62 107,31 ± 16,95 110,75 ± 10,08 Saphraton 143 115,44 ± 12,15* # 690,69± 71,86* 613,33 ± 75,68* Pharmaton 242 189,25 ± 35,11* 639,95 ± 70,47* 669,11 ± 68,11* Koligin-S 174 202,06 ± 29,32* 491,85 ± 38,73* # 408,21 ± 49,61* # *: p < 0,05 so với lô chứng #: p < 0,05 so với lô đối chiếu Pharmaton BÀN LUẬN Pharmaton được xem là một trong những dược phẩm có tác dụng khắc phục tình trạng kiệt sức, mệt mỏi; mỗi viên Pharmaton chứa 40 mg nhân sâm đã được tiêu chuẩn hóa, 2- Dimethylaminoethanol hydrogentartrat 26mg, vitamin A 4000 IU, vitamin D2 400 IU, vitamin E 10 mg, vitamin B1 2 mg, vitamin B2 2 mg, vit B6 1 mg, vit B12 1 mcg, Canxi pantothenate 10 mg, vitamin PP 15mg, vitamin C 60 mcg, rutoside trihydrate 20 mg, Fluorine 0,2 mg, Kali 8mg, Đồng 1 mg, Mangan 1 mg, Magie 10 mg, Sắt 10 mg, Kẽm 1mg, Canxi 90,3 mg, Phosphor 70 mg, Lecithin 66 mg. Trong nghiên cứu này, viên Pharmaton được sử dụng làm thuốc đối chiếu để đánh giá tác dụng tăng lực trên chuột thí nghiệm của mẫu thử. Bên cạnh đó, viên nang mềm Koligin cũng được sử dụng làm thuốc đối chiếu trong đề tài này không chỉ để so sánh, nhận định tác dụng của mẫu thử mà còn nhằm mục đích so sánh tác dụng tăng lực chống nhược sức với viên Pharmaton. Koligin là một trong những thực phẩm chức năng của Hàn Quốc với 4 thành phần chủ yếu là nhân sâm, nấm linh chi, nhung hươu, sữa ong Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học 49 chúa, cùng các vitamin và khoáng chất; có tác dụng bồi bổ sức khỏe, nâng cao thể trạng, chống nhược sức. Ngoài ra, Koligin còn có tác dụng hỗ trợ điều trị một số bệnh lý tim mạch, điều hòa cholesterol, chống oxy hóa, giảm stress. Viên nang mềm Saphraton thể hiện tác dụng tăng lực – chống nhược sức tương đương với thuốc đối chiếu Pharmaton và tốt hơn viên Koligin. Điều này có thể được giải thích dựa vào hai thành phần chính trong công thức bào chế viên nang mềm Saphraton là Sâm Việt Nam và Đinh lăng lá nhỏ. Sâm Việt Nam (Sâm Ngọc Linh) đã được ứng dụng lâm sàng trên nhiều bệnh lý khác nhau, trong đó có vấn đề suy nhược cơ thể. Đến nay, 52 hợp chất saponin được phân lập từ Sâm Việt Nam (Sâm Ngọc Linh) và xác định cấu trúc hóa học, trong đó 26 hợp chất có cấu trúc đã biết như ginsenoside Rb1 (G-Rb1), Rb2 (G-Rb2), Rd (G-Rd), Re (G-Re), Rg1 (G-Rg1) thường thấy ở Sâm Triều Tiên, Sâm Mỹ, Sâm Nhật Bản và 26 saponin mới, được gọi là vina- ginsenoid-R1, vina-ginsenoid-R2, vina- ginsenoid-R25, 20-O-methyl ginsenosid-Rh1 và đặc biệt là hợp chất majonosid-R2; cùng các hợp chất polyacetylen, sterol, acid amin, acid béo và nguyên tố vi lượng(2,8). Theo nghiên cứu của Võ Xuân Minh và cộng sự (1991) khảo sát hàm lượng saponin toàn phần trong các bộ phận của cây Đinh lăng: rễ (0,49%), vỏ rễ (1,00%), lõi rễ (0,11%) và lá (0,38%)(7). Bên cạnh đó, Đinh lăng còn có alkaloid, glycosid, các vitamin B1, B2, B6, vitamin C, phytosterol và 20 loại acid amin(4). Những nghiên cứu khoa học trước đây về Đinh lăng tại Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM cho thấy cao Đinh lăng có tác dụng làm gia tăng vận động tự nhiên và thể hiện tác dụng tăng lực – chống nhược sức trên hai thực nghiệm chuột bơi kiệt sức của Brekhman và chuột leo dây của Cabureb. Cao phối hợp rễ và lá Đinh lăng làm tăng thể trọng của súc vật thử nghiệm, không thể hiện những tác dụng phụ gây ảnh hưởng đến chức năng sinh lý của chuột như công thức máu, chỉ số protein toàn phần hoặc không xuất hiện những thay đổi bất thường trong cấu trúc gan, tim và thận(3,7). Thành phần hóa thực vật trong cả hai loại dược liệu nói chung và saponin nói riêng có thể xem là yếu tố quyết định tác dụng tăng lực – chống nhược sức của viên nang mềm Saphraton. Sự phối hợp hai dược liệu này đã góp phần làm tăng tác dụng tăng lực của chế phẩm tốt hơn viên Koligin và tương đương với viên nang Pharmaton. Từ đó, cho thấy khả năng ứng dụng viên nang mềm Saphraton trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng và có khả năng thay thế một số chế phẩm nhập ngoại hiện nay trên thị trường. KẾT LUẬN Viên nang mềm Saphraton liều 143 mg/kg tương đương với liều sử dụng trên người là 1 viên/ngày thể hiện tác dụng phục hồi sức tức thời và tác dụng tăng lực sau 7 ngày, 14 ngày dùng thuốc. Viên nang mềm Saphraton có tác dụng tăng lực tốt hơn viên nang mềm Koligin-S và tương đương với viên nang mềm Pharmaton ở thời điểm 7 ngày và 14 ngày thử nghiệm. LỜI CẢM ƠN: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự tài trợ kinh phí của Công ty TNHH Sâm Sâm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brekhman II, Dardymov IV (1969). Pharmacological investigation of glycoside from Ginseng and Eleutherococcus. Lioydi; 32(1):46 – 51. 2. Becker K, Francis G, Kerem Z and Makkar HPS (2002). “The biological action of saponins in animal systems: a review”. British Journal of Nutrition; 88(06): 587. 3. Nguyen Thi Thu Huong (2002). “Adaptogenic Effect of Vietnamese Medicinal Plants”. Proceeding of 2002 International Symposium of Traditional Korean Medicine, 116-130. 4. Nguyễn Thị Thu Hương, Lương Kim Bích, Nguyễn Thới Nhâm (2001). “Tác dụng dược lý của cao toàn phần chiết xuất từ rễ và lá Đinh lăng (Polyscias fruticosa Harms. Araliaceae)”. Công trình nghiên cứu Khoa học 1987-2000. Chủ biên: Viện Dược liệu. Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 241-244. 5. Nguyễn Thượng Dong, Trần Công Luận và Nguyễn Thị Thu Hương (2007). Sâm Việt Nam và một số cây thuốc họ nhân sâm. Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kĩ Thuật, 148-262. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 50 6. Viện Dược liệu (2006). Phương pháp nghiên cứu tác dụng dược lý của thuốc từ dược thảo. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 295-296, 385-386. 7. Võ Xuân Minh (1991), “Góp phần tìm hiểu về thành phần hóa học và dạng bào chế của cây Đinh lăng”. Tạp chí Dược học; 3: 19-21 8. Yamasaki K (2000). “Bioactive saponins in Vietnamese ginseng, Panax vietnamensis”. Pharmaceutical biology; 38(1): 16–24. Ngày nhận bài báo: 25/04/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/06/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/09/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45_1_4082_2168762.pdf
Tài liệu liên quan