Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày (polygonum tomentosum willd.) và râu mèo (orthosiphon aristatus (blume) miq.) trên mô hình gan chuột bị gây độc mãn tính bằng carbon tetrachloride - Nguyễn Ngọc Hồng

Tài liệu Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày (polygonum tomentosum willd.) và râu mèo (orthosiphon aristatus (blume) miq.) trên mô hình gan chuột bị gây độc mãn tính bằng carbon tetrachloride - Nguyễn Ngọc Hồng: TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318 313 TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA CAO CHIẾT ETHYL ACETATE TỪ CÂY NGHỂ LÔNG DÀY (Polygonum tomentosum Willd.) VÀ RÂU MÈO (Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) TRÊN MÔ HÌNH GAN CHUỘT BỊ GÂY ĐỘC MÃN TÍNH BẰNG CARBON TETRACHLORIDE Nguyễn Ngọc Hồng1*, Huỳnh Ngọc Thụy2 (1)Đại học Kỹ thuật công nghệ tp Hồ Chí Minh, (*)nguyengochong2003@gmail.com (2)Đại học Y Dược tp. Hồ Chí Minh TÓM TẮT: Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) là một cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như là một thuốc lợi tiểu. Cây nghể (Polygonum tomentosum) là một loài cây mọc hoang dại, gặp ở nhiều nơi ở Việt Nam nhưng việc sử dụng làm thuốc ở trong nước cũng như trên thế giới vẫn còn hạn chế. Trong báo cáo này, tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetat cây nghể và râu mèo chống lại carbon tetrachlorid (CCl4) gây độc trên gan trong mô hình gây tổn thương gan chuột mãn tính trong thời gian 8 tuần được nghiên...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày (polygonum tomentosum willd.) và râu mèo (orthosiphon aristatus (blume) miq.) trên mô hình gan chuột bị gây độc mãn tính bằng carbon tetrachloride - Nguyễn Ngọc Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318 313 TÁC DỤNG BẢO VỆ GAN CỦA CAO CHIẾT ETHYL ACETATE TỪ CÂY NGHỂ LÔNG DÀY (Polygonum tomentosum Willd.) VÀ RÂU MÈO (Orthosiphon aristatus (Blume) Miq.) TRÊN MÔ HÌNH GAN CHUỘT BỊ GÂY ĐỘC MÃN TÍNH BẰNG CARBON TETRACHLORIDE Nguyễn Ngọc Hồng1*, Huỳnh Ngọc Thụy2 (1)Đại học Kỹ thuật công nghệ tp Hồ Chí Minh, (*)nguyengochong2003@gmail.com (2)Đại học Y Dược tp. Hồ Chí Minh TÓM TẮT: Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) là một cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới như là một thuốc lợi tiểu. Cây nghể (Polygonum tomentosum) là một loài cây mọc hoang dại, gặp ở nhiều nơi ở Việt Nam nhưng việc sử dụng làm thuốc ở trong nước cũng như trên thế giới vẫn còn hạn chế. Trong báo cáo này, tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetat cây nghể và râu mèo chống lại carbon tetrachlorid (CCl4) gây độc trên gan trong mô hình gây tổn thương gan chuột mãn tính trong thời gian 8 tuần được nghiên cứu và so sánh khả năng bảo vệ gan của các cao chiết ehyl acetat với silymarin, hợp chất có khả năng bảo vệ gan chống lại nhiều loại chất độc hiệu quả. Kết quả thử nghiệm cho thấy ở cùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg, cao chiết ethyl acetat cây râu mèo có khả năng làm giảm 55% hoạt tính ALT trong huyết tương so với nhóm chứng độc, tương đương khả năng làm giảm hoạt tính ALT của silymarin trong khi khả năng làm giảm hoạt tính ALT huyết tương của cao chiết ethyl acetat cây Nghể là làm giảm 65% hoạt tính ALT so với nhóm chứng độc, có khả năng làm giảm hoạt tính ALT cao hơn silymarin. Từ các kết quả thu được, có thể kết luận là cao chiết ethyl acetat của cây Nghể và Râu mèo có tác dụng tốt trong việc bảo vệ gan chống lại CCl4 gây độc tính mãn và có nhiều triển vọng trong việc sử dụng điều trị các bệnh về viêm gan cấp và mãn tính, phòng ngừa bệnh xơ gan. Từ khóa: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum ALT, cao chiết ethyl acetat, CCl4, bảo vệ gan. MỞ ĐẦU Gan là một cơ quan quan trọng về mặt chuyển hóa các chất của cơ thể. Một trong những chức năng rất quan trọng của gan là tham gia vào quá trình giải độc các chất nội sinh và ngoại sinh. Trong các trường hợp bệnh lý hay sự quá tải các chất độc trong gan, các tế bào gan sẽ bị hủy hoại, dẫn đến các tổn thương trên gan, dần dần làm các tổn thương không hồi phục như xơ gan, làm gan mất chức năng giải độc [13]. Bệnh gan là một trong những bệnh phổ biến trong cộng đồng. Có nhiều loại bệnh gan trong đó thường gặp là những tổn thương gan gây ra bệnh viêm gan dẫn đến xơ gan và ung thư gan, cuối cùng là gây tử vong, với nguyên nhân chủ yếu là do virút và nhiễm độc. Carbon tetrachloride (CCl4) là một chất gây độc cho gan đã được biết từ lâu. Chất này gây bệnh viêm gan cấp tính và mãn tính, cũng như gây ra bệnh ung thư gan. CCl4 được dùng phổ biến làm chất thử nghiệm để gây tổn thương gan trên mô hình động vật. CCl4 gây nên sự xơ hóa gan và làm thay đổi các chỉ số sinh hóa của gan, với các triệu chứng tương tự với viêm gan cấp tính do virút [11, 16]. Khi tế bào bị tổn thương, enzyme transaminase như alanine aminotransferase (ALT) tiết ra môi trường làm cho hoạt độ ALT đo được trong môi trường tăng. Tiến hành đo hoạt lực enzyme này để đánh giá mức độ thương tổn của tế bào gan. Cây râu mèo (Orthosiphon aristatus) thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae), là cây thuốc được sử dụng rộng rãi trong y học dân gian Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, được dùng như là một thuốc lợi tiểu, điều trị viêm thận, sỏi thận, sỏi mật, tê thấp, đau nhức, bệnh Goutte [7, 15] và điều trị bệnh tiểu đường [14]. Cây nghể lông dày (Polygonum tomentosum) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae), là một loài cây cỏ nhiệt đới, mọc hoang dại ở nhiều vùng trong nước. Trong dân gian, chồi non của cây nghể lông dày được dùng làm rau; ngoài ra, còn làm thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, bổ, lọc máu và chữa ho [4]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng cây nghể lông dày làm thuốc vẫn còn hạn chế. Trong các nghiên cứu gần đây của chúng tôi cho thấy, cao chiết ethyl ascetate từ cây râu mèo Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy 314 và cây nghể lông dày có tác dụng chống oxy hóa mạnh cũng như có tác dụng bảo vệ gan trên mô hình tế bào gan chuột bị tách rời và trên mô hình chuột bị gây độc cấp tính [9, 10]. Để đánh giá khả năng bảo vệ gan khi gan bị gây độc mãn tính, cũng như so sánh khả năng bảo vệ gan của các cao chiết ethyl acetate với silymarin hướng đến việc nghiên cứu thuốc chữa bệnh gan cho người, chúng tôi sử dụng mô hình gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính trong thời gian 8 tuần. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Hóa chất CCl4 (Merck), dimethyl sulfoxide (Merck), silymarin (Sigma) và kit thử alanine aminotransferase (Diagnosticum). Các hóa chất khác đạt tiêu chuẩn phân tích. Vật liệu Phần trên mặt đất của cây râu mèo được thu mua tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Cây nghể lông dày được thu hái ở Long An. Mẫu được xác định bằng việc khảo sát đặc điểm hình thái thực vật học dựa trên quan sát cây tươi. Dược liệu được rửa sạch, phơi trong bóng râm đến khô, xay nhỏ làm nguyên liệu cho quá trình chiết thu cao. Chuột nhắt (chủng Swiss albino) được mua từ Viện Vaccin và Sinh phẩm Nha Trang, được nuôi và thử tại phòng thí nghiệm Dược lý, Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp Chuẩn bị mẫu thử: Hai loại nguyên liệu râu mèo và nghể lông dày được chiết bằng phương pháp ngấm kiệt với cồn 90%. Dịch chiết sau khi ngấm kiệt được thu hồi dung môi dưới áp suất giảm thành dịch chiết đậm đặc. Dịch chiết đậm đặc cồn - nước này được phân tách thành các phân đoạn bằng phương pháp chiết phân bố lỏng - lỏng với các dung môi có độ phân cực tăng dần là chloroform, ethyl acetate và n-butanol để thu được các phân đoạn cao chiết tương ứng. Phân đoạn cao chiết ethyl acetate có hoạt tính chống oxy hóa và bảo vệ tế bào gan chống lại chất độc trên mô hình ex vivo tốt nhất nên cao chiết ethyl acetate này được dùng để thử nghiệm hoạt tính bảo vệ gan in vivo khi gan bị gây độc mãn tính với CCl4. Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc gan chuột: Chuột được chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm có 6 con. Cho chuột nhịn ăn 18 giờ rồi cho các nhóm chuột uống 0,2 ml dung dịch CCl4 (pha với dầu oliu) tương ứng với các nồng độ: 100%, 50%, 30%, 25%, 20% và 10%. Sau khi uống CCl4, chuột được ăn uống bình thường. Quan sát và theo dõi ghi nhận hành vi, biểu hiện và sự sống chết của chuột trong các nhóm ngay sau khi gây độc và sau 24 giờ. Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao chiết râu mèo và nghể lông dày trên mô hình gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính: Được thực hiện theo phương pháp của Rana và Avadhoot (1992) [12], nhưng có một số sự thay đổi, chuột đực có trọng lượng từ 20-25 g được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 8 con chuột. Nhóm 1 là nhóm chứng trắng dùng để làm chuẩn so sánh, nhóm này được cho uống 0,2 ml dầu oliu, sau 1 giờ, chuột được uống thêm 0,4 ml nước có 1% DMSO (tỉ lệ DMSO phụ thuộc vào tỉ lệ DMSO được dùng để hòa tan cao chiết); nhóm 2 là nhóm chứng độc được uống 0,2 ml CCl4 pha trong dầu oliu (ở nồng độ thích hợp), sau 1 giờ chuột được uống thêm 0,4 ml nước có 1% DMSO; nhóm 3 là nhóm thử được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết ethyl acetate của nghể lông dày trong 1% DMSO với liều 16 mg/kg; nhóm 4 là nhóm thử được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu, sau 1 giờ chuột được uống 0,4 ml dung dịch cao chiết ethyl acetate của râu mèo trong 1% DMSO với liều 16 mg/kg; và nhóm 5 là nhóm chứng thuốc được uống 0,2 ml CCl4 trong dầu oliu và chuột được uống 0,4 ml silymarin (16 mg/kg) trong 1% DMSO sau 1 giờ. Quá trình thử nghiệm trên các nhóm chuột được thực hiện 2 ngày/tuần trong thời gian 8 tuần. Ngoài thời gian uống CCl4 và thuốc thử (cao chiết của 2 cây và silymarin), các con chuột được ăn uống bình thường. 24 giờ sau khi uống liều CCl4 cuối cùng (sau 8 tuần), lấy máu ở đuôi chuột của để đo hoạt tính enzyme ALT. Thử nghiệm độc tính cấp diễn: Thử nghiệm TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318 315 xác định độc tính cấp diễn theo phương pháp Bộ Y tế Việt Nam ban hành [1, 6]. Cao chiết ethyl actetate của từng cây được pha ở nồng độ cao nhất có thể pha loãng nhằm khảo sát độc tính cấp. Chuột được chia thành 2 nhóm tương tự nhau, mỗi con ở cùng nhóm sẽ nhận cùng một liều khảo sát. Sự đánh giá dựa vào phản ứng sống hay chết của chuột trong mỗi nhóm. Sau khi cho chuột uống thuốc với liều duy nhất trong ngày, quan sát hành vi, thể trạng của chuột sau 24, 36 và 48 giờ. Ghi nhận giờ xuất hiện các triệu chứng bất thường. Nếu có chuột chết thì xét nghiệm đại thể chủ yếu gan, thận, tim, phổi. Đánh giá kết quả: Đo hoạt tính của enzyme ALT theo phương pháp đo của nhà sản xuất (Diagnosticum). Phương pháp xử lí số liệu: Các số liệu trong các thử nghiệm được tính dựa trên trung bình các lần lặp lại, được xử lý bằng phần mềm Statgraphics Plus V.3.0. Giá trị thể hiện là số trung bình và độ lệch chuẩn. So sánh sự khác biệt giữa các nghiệm thức bằng chương trình ANOVA. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc gan chuột Để khảo sát nồng độ CCl4 thích hợp để gây độc trên gan cho mô hình in vivo, chuột được chia thành 6 nhóm (mỗi nhóm 6 con) ứng với các nồng độ CCl4 (pha với dầu oliu) như sau: 100%, 50%, 30%, 25%, 20% và 10%. Sau khi cho các nhóm chuột uống CCl4 (V = 0,2 ml) với các nồng độ khác nhau như trên, tương ứng với các liều dùng được trình bày trong bảng 1, 24 giờ sau khi gây độc cho chuột, kết quả ghi nhận được chỉ ra trong bảng 1. Bảng 1. Kết quả gây độc của CCl4 trên các nhóm chuột thử nghiệm sau 24h Nhóm chuột uống CCl4 Với các nồng độ (%) Nhóm chuột uống CCl4 với các liều (ml/kg) Tỉ lệ sống (%) 100 10 0 50 5 33 30 3 67 25 2,5 100 20 2 100 10 1 100 Kết quả trên cho thấy, ở liều 10 ml/kg, 5 ml/kg và 3 ml/kg, không đạt yêu cầu về tỷ lệ sống của chuột, còn ở liều 2 ml/kg (164 ± 18 U/L) và 1 ml/kg (119 ± 20 U/L), tỷ lệ sống tốt nhưng độc tính thể hiện không mạnh. Riêng lô bị gây độc bởi CCl4 25% tương ứng với liều 2,5 ml/kg (207 ± 12 U/L) thì vừa đạt yêu cầu về tỷ lệ sống vừa thể hiện rõ độc tính như: ngay sau khi gây độc, chuột có biểu hiện mắt lờ đờ, mệt lả, thở dốc; 24 giờ sau khi gây độc, không có con nào chết. Vì vậy, thử nghiệm in vivo gây độc gan bằng CCl4 mãn tính sử dụng chứng độc có nồng độ CCl4 là 25%. Khảo sát độc tính của cao chiết cây nghể lông dày và râu mèo Các cao chiết được pha ở nồng độ cao nhất có thể pha loãng, tương ứng với liều 500 mg/kg thể trọng chuột nhằm khảo sát độc tính cấp của chất thử nghiệm. Chuột được chia thành 2 nhóm và được uống cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo. Quan sát hành vi của chuột ngay sau khi uống các cao chiết với liều 500 mg/kg cho thấy, chuột hơi lờ đờ nhưng dễ dàng lấy lại sự linh hoạt, 48 giờ sau khi được uống các cao chiết, chuột hoàn toàn khỏe mạnh, di chuyển tốt và linh hoạt, không có dấu hiệu tổn thương. Như vậy, qua thử nghiệm độc cấp tính của cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo cho thấy, các cao chiết an toàn cho chuột, không thể hiện độc tính ở liều thử nghiệm. Thử nghiệm tác dụng bảo vệ gan của cao chiết ethyl acetate râu mèo và nghể lông dày trên mô hình gan chuột bị nhiễm độc CCl4 mãn tính Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy 316 Nhóm độc sau khi bị gây độc mãn tính trong 8 tuần cho kết quả hoạt tính enzyme gan tăng 66,9% so với nhóm chứng trắng. Kết quả thử nghiệm cho thấy, cao chiết ethyl acetate từ cây râu mèo có khả năng làm giảm 55% nồng độ ALT so với nhóm chứng độc, cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày có khả năng làm giảm 65% nồng độ ALT so với nhóm chứng độc. Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo được so sánh với silymarin, silymarin là một hỗn hợp gồm các flavonolignan được tách từ cây cúc gai (Silybum marianum), được sử dụng làm thuốc bảo vệ gan (phối hợp điều trị bệnh nhân bị viêm gan mãn tính và bệnh xơ gan), có tác dụng chống lại nhiều loại chất độc có hại cho gan, trong đó có CCl4 [2, 8]. 0 50 100 150 200 250 300 Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 H oạ t t ín h A LT (U /l) Hình 1. Tác động của các cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo và chất chuẩn silymarin lên hoạt tính ALT huyết tương của chuột bị gây ngộ độc mãn tính bằng CCl4 Nhóm chứng trắng, chuột được uống dầu oliu (nhóm 1): 31,9 ± 9,1 a U/l; nhóm chứng độc, chuột bị xử lý độc mãn tính với CCl4 (nhóm 2): 213,4 ± 28,2 a U/l; nhóm thử cao chiết cây nghể lông dày, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây nghể lông dày (nhóm 3): 74,8 ± 17,7 a U/l; nhóm thử cao chiết cây râu mèo, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống cao chiết ethyl acetate của cây râu mèo (nhóm 4): 92,4 ± 7,2 a U/l; nhóm chứng thuốc silymarin, chuột bị xử lý độc với CCl4 sau đó được uống chất chuẩn silymarin (nhóm 5): 95,7 ± 25,8 a U/l. Kết quả trắc nghiệm phân hạng ở mức ý nghĩa 0,01. Các kết quả có cùng chữ cái thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hoạt tính làm giảm enzyme ALT trong huyết tương của cao chiết ethyl acetate râu mèo tương đương với silymarin (silymarin làm giảm nồng độ ALT so với nhóm chứng độc là 55%), trong khi hoạt tính làm giảm ALT của cao chiết ethyl acetate cây nghể lông dày tốt hơn silymarin khi sử dụng cùng liều là 16 mg/kg. Liều dùng 16 mg/kg được sử dụng trong nghiên cứu này là do việc nghiên cứu hoạt tính bảo vệ gan trong mô hình gây độc cấp tính trên gan chuột cho kết quả là các cao chiết có tác dụng tốt hơn cả khi dùng liều thử nghiệm là 16 mg/kg [9, 10]. Kết quả hình ảnh tổng thể của gan trong các nhóm chuột sau thời gian thử nghiệm 8 tuần (dùng CCl4 gây độc và được chữa trị bằng việc dùng cao chiết ethyl acetate và silymarin) được trình bày trong hình 2. Hình 2 cho thấy, các nhóm chuột được dùng cao chiết ethyl acetate của cây nghể lông dày và cây râu mèo (nhóm 3 và nhóm 4) và nhóm chuột dùng silymarin (nhóm 5) có màng phía ngoài bóng, không có lỗ nhỏ hay nổi sần, mô gan với các tế bào gan nhỏ, trơn láng và có màu đỏ đậm gần giống với hình thái mô gan của nhóm chứng trắng (nhóm 1), trong khi gan của nhóm chứng độc (nhóm 2) có màu sắc gan đỏ nâu có màng phía ngoài khô, mô gan hơi nổi sần và có một số những đốm trắng dạng sợi là dấu hiệu của mô hóa xơ. Kết quả đo hoạt tính enzyme ALT trong huyết tương chuột và hình ảnh tổng thể của gan trong nhóm 3 và nhóm 4 cho thấy, cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo có tác dụng bảo vệ gan chống lại chất độc khá tốt. Hiệu quả bảo vệ gan của các cao chiết là do TẠP CHÍ SINH HỌC, 2012, 34(3SE): 313-318 317 các cao chiết ethyl acetate có tác dụng loại các gốc tự do được sinh ra bởi CCl4 nên có kết quả làm giảm tác dụng độc của CCl4 in vivo. Hoạt tính bảo vệ gan của cao chiết cây nghể lông dày tốt hơn so với silymarin ở điều kiện thực nghiệm trên chuột với liều dùng là 16 mg/kg (vì có tác dụng làm giảm hoạt tính enzyme ALT cao hơn silymarin). Hoạt tính bảo vệ gan của silymarin thấp hơn so với cao chiết cây nghể lông dày có thể là do liều dùng silymarin trên chuột chưa hợp lý cho việc chữa trị tổn thương trên gan chuột (có thể là liều 16 mg/kg là cao hơn liều tối ưu để chữa tổn thương trên gan). Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Hình 2. Hình ảnh tổng thể của gan chuột trong các nhóm thử nghiệm sau thời gian 8 tuần (hình chụp gan nằm trên cơ thể chuột khi mổ ổ bụng chuột) KẾT LUẬN Như vậy, trong mô hình gây độc gan mãn tính bằng CCl4 trên cơ thể chuột, các cao chiết ethyl acetate từ cây nghể lông dày và râu mèo có hiệu quả bảo vệ gan chống lại chất độc CCl4. Kết quả này đã mở ra một hướng mới cho việc nghiên cứu tác dụng chống viêm gan mãn tính và ức chế xơ gan của cây cây nghể lông dày và cây râu mèo, từ đó ứng dụng vào việc bào chế thuốc chữa bệnh cho con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế, 1996. Hướng dẫn nghiên cứu, đánh giá tính an toàn và hiệu lực thuốc Y học cổ truyền, Hà Nội. 2. Corrigan D., Duke J. A., Wright J., 2000. Principles and Practice of Phytotherapy, Churchill Livingstone. 3. Dianzani M. U., Muzia G., Biocca M. E., Canuto R. A., 1991. Lipid peroxidation in fatty liver induced by caffeine in rats. International journal of tissue reactions, 13: 79-85. 4. Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, 2003. Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập II. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. Trang 317. 5. Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2005. Danh lục các loài thực vật Việt Nam, tập III. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 6. Đỗ Trung Đàm, 2003. Phương pháp nghiên cứu độc tính cấp của thuốc. Nxb. Y học. 7. Englert J. and Harnischfeger G., 1992. Diuretic action of aqueous Orthosiphon extract in rats. Planta Medica, 58: 237-238. 8. Flora Kenneth, M. D., Hahn. Martin, Rosen Hugo, M. D., Benner Kent M. D., 1998. Milk Thistle (Silybum marianum) for the Therapy of Liver Disease. The American Journal of Gastroenterology, 93(2): 139-143. 9. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010. Antioxidant and hepatoprotective effects of Polygonum tomemtosum on damage liver mice induced by carbon tetrachloride. Tạp chí Dược liệu, 2: 99-105. 10. Tran Hung, Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngọc Thuy, Ho Huynh Thuy Duong, 2010. Antioxidant and hepatoprotective effects of Orthosiphon aristatus on damage liver mice induced by carbon tetrachloride, Tạp chí Nguyen Ngoc Hong, Huynh Ngoc Thuy 318 Dược liệu, 3: 157-163. 11. Kumar V., Cotran R. S., Robbins S. L., 1992. Cell injury and adaptation; 5th ed. Bangalore. India: Prime Books Publ, 3-24. 12. Rana A. C. and Avadhoot Y., 1992., Experimental evaluation of hepatoprotective activity of Gymnema sylvestre and Curcuma zedoaria. Fitoterapia, 63: 60-63. 13. Shahani S., 1999. Evaluation of hepatoprotective efficacy of APCL-A polyherbal formulation in vivo in rats. Indian Drugs, 36: 628-631. 14. Sriplang K., Adisakwattana S., Rungsipipat A., Yibchok-Anun S., 2007. Effects of Orthosiphon stamineus aqueous extract on plasma glucose concentration and lipid profile in normal and streptozotocin-induced diabetic rats. Journal Ethnopharmacology, 109(3): 510-514. 15. Viện Dược liệu, 2004. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 2. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 16. Vogels B. A., Karlsen O. T., Mass M. A., Boveé W. M., Chamuleau R. A., 1997. L- ornithine vs. L-ornithine-L-aspartate as a treatment for hyperammonemia-induced encephalopathy in rats. Journal of Hepatology, 26(1): 174-178. HEPATOPROTECTIVE EFFECTS OF ETHYL ACETATE EXTRACTS OF Polygonum tomentosum Willd. AND Orthosiphon aristatus (Blume.) Miq. AGAINST CARBON TETRACHLORIDE INDUCED CHRONIC TOXICITY Nguyen Ngoc Hong1, Huynh Ngoc Thuy2 (1)Ho Chi Minh city University of Technology (2)University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh city SUMMARY Orthosiphon aristatus Blume. is a medicinal herb useful as a diuretic agent, used popularly in Vietnam and in the world. Polygonum tomentosum Willd. is a perennial herb growing in marshy areas, along ditches and field margins in Vietnam, but the efficacy of this herb in treatment of diseases remains unknown. The purpose of the present study was to examine the ethyl acetate extracts of O. aristatus and P. tomentosum against chronic carbon tetrachloride (CCl4) induced liver damage for 8 weeks. The hepatoprotective effects of these extracts were found comparable to that of silymarin, a hepatoprotective agent against hepatotoxicity of various chemicals. At the dose of 16 mg/kg, ethyl acetate extract of O. aristatus showed protective effect against CCl4 damage on liver with ALT activity was decreased 55% compared to toxic group, which was equivalently compared with silymarin at the same dose. Ethyl acetate extract of P. tomentosum reduced 65% ALT activity in serum of chronic CCl4 induced hepatotocity in mice, this result revealed that ethyl acetate extract of Polygonum tomentosum had a better hepatoprotective activity than silymarin at the dose of 16 mg/kg. The results of the present study indicate that P. tomentosum and O. aristatus are potential sources of natural hepatoprotection Keywords: Orthosiphon aristatus, Polygonum tomentosum, ALT, CCl4, hepatoprotective effect, ethyl acetat extract. Ngày nhận bài: 21-6-2012

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1805_5791_1_pb_5601_2180570.pdf
Tài liệu liên quan