Tài liệu Tác động của thiên tai trên thế giới tới tâm lí của cư dân: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0191
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8B, pp. 55-62
This paper is available online at
TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI TRÊN THẾ GIỚI TỚI TÂM LÍ CỦA CƯ DÂN
Trần Thị Lệ Thu
Khoa Tâm lí - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết phân tích tình hình thiên tai trên thế giới và ảnh hưởng của từng loại thiên
tai tới đời sống tâm lí của cư dân; bao gồm tác động của một số loại thiên tai thường gặp
như: bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn. Mức độ tác động và ảnh
hưởng tới tâm lí của cư dân phụ thuộc vào từng loại thiên tai, địa điểm, văn hóa mỗi vùng
và tâm lí đặc trưng của cư dân.
Từ khóa: Thiên tai, tâm lí của cư dân, bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất,
hỏa hoạn.
1. Mở đầu
Thiên tai là hiện tượng thiên nhiên (ví dụ như lũ lụt, bão, hạn hán, giá rét, động đất, lở đất,
sống thần. . . ) có thể ảnh hưởng tới môi trường, kinh tế và cuộc sống của con người ở những mức
đ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của thiên tai trên thế giới tới tâm lí của cư dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0191
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 8B, pp. 55-62
This paper is available online at
TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI TRÊN THẾ GIỚI TỚI TÂM LÍ CỦA CƯ DÂN
Trần Thị Lệ Thu
Khoa Tâm lí - Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết phân tích tình hình thiên tai trên thế giới và ảnh hưởng của từng loại thiên
tai tới đời sống tâm lí của cư dân; bao gồm tác động của một số loại thiên tai thường gặp
như: bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn. Mức độ tác động và ảnh
hưởng tới tâm lí của cư dân phụ thuộc vào từng loại thiên tai, địa điểm, văn hóa mỗi vùng
và tâm lí đặc trưng của cư dân.
Từ khóa: Thiên tai, tâm lí của cư dân, bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất,
hỏa hoạn.
1. Mở đầu
Thiên tai là hiện tượng thiên nhiên (ví dụ như lũ lụt, bão, hạn hán, giá rét, động đất, lở đất,
sống thần. . . ) có thể ảnh hưởng tới môi trường, kinh tế và cuộc sống của con người ở những mức
độ khác nhau. Tác động của thiên tai tới cuộc sống nói chung và tâm lí nói riêng của cư dân tại
những vùng có nguy cơ thiên tai cao phụ thuộc vào bản chất, thời điểm và diễn biến của từng loại
thiên tai; đồng thời phụ thuộc trực tiếp vào khả năng chống đỡ, phục hồi của con người. Trong các
tài liệu chuyên môn và phương triện truyền thông, thiên tai còn được gọi bằng thuật ngữ thảm họa
tự nhiên (natuaral disaster). Hàng ngày trên thế giới các thảm họa tự nhiên có thể xảy ra như: động
đất, bão, hạn hán, sóng thần, lốc xoáy, lũ lụt, lở đất, núi lửa phun trào,. . . ; những thảm họa này ảnh
hưởng đến tâm lí của trẻ em và các gia đình trên toàn thế giới.
Trong hơn 8.000 thảm họa tự nhiên xảy ra trong giai đoạn 1970 - 2005, lũ lụt là thảm họa
phổ biến nhất trên phạm vị toàn thế giới (31%), ngoại trừ Châu Phi và Châu Đại Dương (Theo
Chiến lược Quốc tế nhằm giảm nhẹ thiên tai – ISDR, 2006); bão và lốc xoáy cũng khá phổ biến
(27%). Động đất, hạn hán, lở đất và hỏa hoạn ít hơn, với tỉ lệ lần lượt là 9%, 8%, 5%, 3%. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhìn chung, thảm họa tự nhiên ảnh hưởng tới xấp xỉ 3,5 tỉ người trên
khắp các châu lục, từ năm 1991 đến năm 2005. Hỏa hoạn, động đất, sóng thần là những thảm
họa gây thiệt hại về người nhiều nhất với trên 625,000 người trên khắp thế giới trong giai đoạn
1991-2005 (ISDR, 2006) [5]. Vì vậy, việc chuẩn bị cho những loại thiên tai này cần phải là một
phần trong kế hoạch tổng thể để đối phó với thiên tai trên toàn thế giới cũng như tại Việt Nam.
Việc nghiên cứu, khảo sát và phân tích thực trạng tác động của thảm họa tự nhiên đối với
tâm lí cư dân để chuẩn bị ứng phó trước, trong và sau thiên tai nhằm bảo vệ sức khỏe tâm thần
Ngày nhận bài: 5/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/9/2015
Liên hệ: Trần Thị Lệ Thu, e-mail: thule1509@gmail.com
55
Trần Thị Lệ Thu
cho cư dân ở những vùng có nguy cơ thiên tai cao là vô cùng cần thiết. Trong 2 thập kỉ qua, toàn
thế giới đã rút ra rất nhiều bài học kinh nghiệm về phòng ngừa và ứng phó với thiên tai, thảm họa;
nhiều chiến dịch nghiên cứu và thực hành nâng cao sức khỏe tâm thần cho cư dân trước, trong và
sau thiên tai đã được thực hiện tại các nước phát triển.
Bài viết này nhằm tổng hợp, phân tích những nghiên cứu mới nhất về tác động của từng loại
thiên tai tới tâm lí của cư dân - những người sống trong các vùng chịu ảnh hưởng nhiều bởi thiên
tai/ thảm họa tự nhiên. Đối với những đợt bão lớn trên thế giới, nhiều nghiên cứu cho thấy cư dân
thường phải trải nghiệm sự sợ hãi, lo lắng và thậm trí nhiều trường hợp bị rối loạn tâm lí sau trấn
thương (PTSD). Khi trải nghiệm động đất mạnh, bất ngờ, cư dân có thể rơi vào tình trạng quá lo
sợ, bị hạn chế khả năng ứng phó và điều chỉnh tâm lí; mất ngủ nhiều, bệnh tâm thần và rối loạn
PTSD cũng xuất hiện nhiều hơn ở cư dân trong vùng thường có động đất hàng năm. Cư dân sống
ở vùng có lốc xoáy, lũ lụt và sóng thần cũng trải qua những khủng hoảng tâm lí chủ yếu như đau
buồn, mất mát, thông thường cảm giác đau đớn tăng lên sau thảm họa ở những người sống sót; đặc
biệt đối với trẻ em sau lốc, sóng thần và lũ lụt có thể có nhiều dấu hiệu lo lắng, thu mình, sợ hãi,
chấn thương hoặc bốc đồng. Đối với những cư dân trải nghiệm hỏa hoạn lớn thường nhiều người
trong số họ có cảm giác kiệt quệ về cảm xúc và thể chất, đặc biệt nhiều trẻ em có thể trải qua cảm
giác tội lỗi của người sồng sót, ảnh hưởng của hỏa hoạn tới tâm lí cư dân có thể trong nhiều tháng
và nhiều năm sau đó.
Bài viết cũng đồng thời chỉ ra nhu cầu cần được sàng lọc, phát hiện, phòng ngừa, can thiệp/
trị liệu tâm lí trước, trong và sau thiên tai của những cư dân trải nghiệm từng loại thảm họa tự
nhiên như bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn.
2. Nội dung nghiên cứu
Tác động của mỗi loại thiên tai/ thảm họa tới tâm lí cư dân tùy theo mức độ, địa bàn và đặc
điểm tâm lí đặc trưng của cư dân mỗi vùng. Nội dung dưới đây sẽ tập trung phân tích tác động của
một số loại thiên tai thường gặp tới tâm lí của cư dân nói chung; bao gồm tác động của: bão, động
đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn.
2.1. Tác động của bão tới tâm lí của người dân
Gió xoáy nhiệt đới ở phía Tây Thái Bình Dương gọi là “typhoon”, ở Đại Tây Dương và phía
Đông Thái Bình Dương gọi là “hurricane”. Những sự cố này thường được dự báo trước nhiều ngày
và nhiều tuần để người dân có thời gian chuẩn bị. Mặc dù người dân được trang bị nhận thức về
những mối đe dọa tiềm tàng, song không ai có thể dám chắc về địa điểm chính xác mà cơn bão đổ
bộ vào. Thực tế cho thấy chính những dự báo trước như vậy đồng thời có cả tác dụng tích cực và
tiêu cực; những dự báo chi tiết sẽ giúp các gia đình thu gom đồ dự trữ, gia cố nhà cửa, chuẩn bị
tâm lí/ tinh thần cho mình và người thân; nhưng dự báo này cùng với các hoạt động chuẩn bị cũng
trở thành tác nhân đáng kể tạo ra sự sợ hãi và lo lắng ở cư dân (Zenere & Lazarus, 1999).
Sau bão, những cư dân còn sống sót thường trải qua các phản ứng về mặt cảm xúc và thể
chất rất đa dạng; ví dụ: phản ứng giật mình với âm thanh có thể thường xuyên xảy ra trong những
tháng tiếp theo. Cơn bão tiếp theo có thể gây ra phản ứng hoảng sợ đến kinh hãi. Sau cơn bão
Katrina ở New Orleans, 44% những gia đình được hỏi (106 trên tổng số 242) cho biết con của họ
có triệu chứng về sức khỏe tâm lí, bao gồm suy kiệt, lo lắng, khó ngủ (Weisler, Barbee, Townsend,
2006). Hơn thế nữa, những người sống sót có thể trải qua cảm giác tội lỗi nếu họ an toàn sau thảm
56
Tác động của thiên tai trên thế giới tới tâm lí của cư dân
họa, trong khi thành viên thuộc các gia đình khác bị thương hoặc chết. Honeycutt, Nasser, Banner,
Mapp và DuPont (2008) nhận thấy rằng cảm giác tội lỗi sau cơn bão Katrina, cùng với sự sợ hãi,
tức giận và buồn rầu là những dấu hiệu của chấn thương tâm lí. Tương tự, một nghiên cứu sau đợt
lũ lụt năm 1982 ở Nagasaki, Nhật Bản cho thấy cảm xúc suy kiệt và lo lắng có sự gia tăng 3 tháng
sau đợt lũ; và 5 tháng sau đợt lụt, các nạn nhân với triệu chứng suy kiệt, chấn thương tâm lí bắt
đầu đến bệnh viện điều trị (Araki, 2006). Hơn thế nữa, 1 năm sau đợt lũ, tỉ lệ tự tử gia tăng [6].
Mặc dù bão có thể chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, những người sống sót có thể phải
đối diện với hậu quả của thảm họa đó hàng tháng, thậm chí hàng năm sau đó. Thiệt hại về tài sản
có thể là rất lớn. Ví dụ, sau cơn bão Katrina, nhiều vùng lân cận đã bị phá hủy. Người dân phải
chịu đựng cảnh mất nước và ngộ độc thức ăn; đồng thời lũ lụt sau đó tạo ra những mùi khó chịu
từ nước cống, thực phẩm thối rữa, đống đổ nát, chất độc hóa học và xăng; hàng loạt nấm mốc bắt
đầu xuất hiện trên tường của những căn nhà còn lại bởi lũ lụt và thiếu điện.
Sau thảm họa, các gia đình nỗ lực để xây dựng lại đời sống và phải tới gặp nhiều người
trong nhiều cơ quan (ví dụ: chuyên viên tính toán bảo hiểm, thợ điện). Trong một nghiên cứu về
những ảnh hưởng tới trẻ em sau bão Andrew đã khảo sát những thay đổi xảy ra 3, 7 và 10 tháng
sau thảm họa, kết quả cho thấy rất nhiều những trải nghiệm của các em liên quan đến triệu chứng
rối loạn tâm lí sau chấn thương (PTSD - rối nhiễu sau sang chấn): (1) Dấu hiệu chấn thương trong
và sau thảm họa, (2) Đặc điểm nhân khẩu học trước đây, (3) Căng thẳng gần như suốt cuộc đời,
(4) Tình trạng sẵn có từ các hỗ trợ của cộng đồng và (4) Các loại chiến lược để đối phó với sự
đau buồn liên quan đến thảm họa (La Greca, Silverman, Vernberg, Prinstein, 1996). Mặc dù triệu
chứng PTSD giảm theo thời gian, nhưng những triệu chứng này vẫn xuất hiện sau 10 tháng kể từ
ngày xảy ra thảm họa. Tương tự, một nghiên cứu khác ở Nhật Bản sau cơn bão số 23 năm 2004 cho
thấy thậm chí một năm sau thảm họa, xấp xỉ 33% trong tổng số 600 người được hỏi cho biết cuộc
sống của họ không quay trở lại như bình thường và 28% có nguy cơ cao xuất hiện PTSD (Fujii,
Goto, Kato, 2006). Mức độ ảnh hưởng thường là rất lớn đối với những người phải rời bỏ nhà cửa
hoặc không còn nơi trú ẩn khi trở về [1].
Bão có tác động khá lớn tới tâm lí của cư dân, mức đột tác động mạnh có thể để lại triệu
chứng PTSD, chính vì vậy rất cần những nghiên cứu can thiệp thực chứng dành cho các cư dân
trước, trong và sau bão để có thể áp dụng và ứng phó nhanh, hiệu quả trong hoạt động trợ giúp tâm
lí cho cư dân vùng hay có bão.
2.2. Tác động của động đất tới tâm lí của người dân
Xét về tâm lí đau buồn, động đất khác với các thảm họa tự nhiên khác vì sự kiện này không
có điểm cuối rõ ràng. Ví dụ, ở Nhật Bản, nhiều trẻ em và gia đình đã trải qua các cung bậc lo lắng
khác nhau do hàng trăm dư chấn, trong đó có một vài dư chấn mạnh tới 7,2 độ richte; chúng xảy
ra trong nhiều tuần, ngay sau đại thảm họa động đất ở miền Đông Nhật Bản với cường độ 9,0 độ
richte. Vì quá lo sợ nhà cửa có thể sụp đổ nếu trận động đất khác xảy ra nên nhiều người không
thể ngủ sau trận động đất lớn đầu tiên xảy ra, họ thường thức tới tận nửa đêm.
Không giống như những thảm họa tự nhiên khác, như bão hay lũ lụt, động đất thường xảy
ra mà hầu như không có bất cứ sự cảnh báo nào. Thực tế này đã làm hạn chế khả năng điều chỉnh
tâm lí của các nạn nhân và khả năng sẵn sàng ứng phó của họ. Một số người có thể trèo lên bề
mặt cao trước và trong đợt lũ lụt hoặc làm cửa chắn trước trận bão nhưng người dân thường không
được báo trước và không có cơ hội chuẩn bị để đối phó với động đất.
57
Trần Thị Lệ Thu
Thêm vào đó, những người sống sót có thể phải đương đầu với ảo mộng phá hủy, tiếng nổ
và những rung chuyển do dư chấn gây ra; mùi khí độc và bồ hóng, rác rưởi và khói bụi. Với những
thực tế đó, bệnh tâm thần có thể xuất hiện nhiều hơn sau động đất. Ví dụ, sau trận động đất Yuunan
xảy ra ở châu Á tháng 11 năm 1988, tỉ lệ bệnh tật tăng gấp đôi. Sau trận động đất năm 1999 ở
Đài Loan, 95% số trẻ ở khu vực tâm chấn có dấu hiệu rối loạn tâm lí sau chấn thương (Trung tâm
Quốc gia về Rối loạn tâm lí sau chấn thương, 2000). Một cuộc điều tra 6 tháng sau trận động đất
ở Athens - Hy Lạp tháng 9 năm 1999 cho thấy, 78% số trẻ trải qua trận động đất cũng có những
biểu hiện từ nặng tới nhẹ của PTSD (Kolaitis et al., 2003). Nhu cầu về dịch vụ khám chữa sức
khỏe tâm lí có trọng tâm và chuyên sâu vì thế cũng xuất hiện (Roussos et al., 2005). Sau động
đất, chương trình ứng phó với khủng hoảng được thực hiện ở các trường để giúp học sinh, sinh
viên hiểu về thảm họa tự nhiên, trao đổi kinh nghiệm, mô tả và thể hiện tình cảm, từ đó cảm thấy
tự tin hơn (Hatzichristou, 2008) (Chương trình tương tự cũng được thực hiện sau trận hỏa hoạn ở
Peloponnese năm 2007). Sự can thiệp về giáo dục tâm lí được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của tất
cả các học sinh trong lớp và được thực hiện bởi các nhà tâm lí học đường cũng như các giáo viên
đã được tập huấn từ trước (Brock, Sandoval, & Lewis, 2005; Hatzichristou, 2011) [4].
Một nghiên cứu về các học sinh tiểu học sau trận động đất Niigata Chuetsu ở Nhật Bản cho
thấy nhiều trẻ đã nhận được những sự hỗ trợ từ phía gia đình, cộng đồng và bạn bè (Kobayashi,
2008). Kobayashi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trẻ trở lại trường khi có thể, để cung cấp
thêm những hỗ trợ cần thiết cho các em. Sau trận động đất năm 1999 ở Thổ Nhĩ Kì, chương trình
phục hồi tập trung vào giáo dục tâm lí cho giáo viên được thực hiện tại các trường ở những khu
vực bị ảnh hưởng. Đặc điểm của các học sinh tham gia vào Chương trình quay trở lại trường học
là các em có nhiều hoạt động thú vị, chiều sâu hơn trong cuộc sống hằng ngày so với các học sinh
khác (Wolmer, Laor, Dedeoglu, Siev, & Yazgan, 2005). Những lợi ích của việc trở lại trường học
càng sớm càng tốt sau thảm họa bao gồm việc khôi phục cấu trúc sinh hoạt, sự hỗ trợ của bạn bè
cùng trang lứa, tiếp cận với những người có chuyên môn về sức khỏe tâm lí; đồng thời tác dụng
của việc lên lớp cũng là cách giúp hạn chế tác động do thảm họa gây ra với các em [3].
Có thể nhận thấy qua các nghiên cứu tới nay, nhu cầu trợ giúp tâm lí sau thảm họa động đất
chủ yếu cần tập trung vào trẻ em - học sinh trong trường học. Làm sao để các em có kiến thức, kĩ
năng ứng phó và đặc biệt là được chuẩn bị tâm thế sẵn sàng trước, trong và sau động đất; việc trợ
giúp của các chuyên gia tâm lí sẽ giúp các học sinh sớm quay lại với nhịp sinh hoạt hàng ngày, kết
nối bạn bè và trở lại trường học sớm hơn.
2.3. Tác động của lốc xoáy, lũ lụt và sóng thần tới tâm lí của người dân tới tâm
lí của người dân
Cũng giống như động đất, lốc xoáy có thể gây ra sự phá hủy lớn trong vài phút và đa số mọi
người không có thời gian để chuẩn bị. Theo sau nó thường là sự hỗn loạn và sụp đổ. Những người
trải qua lốc xoáy có thể phải đương đầu với những thách thức sau đó, như rất khó chịu đựng tiếng
tàu hoặc máy bay phản lực. Thêm vào đó, giống như các thảm họa tự nhiên khác, con người phải
trải qua một khoảng thời gian khó khăn để đương đầu với cảnh hoang tàn. Trận lốc xoáy tháng 5
năm 1999 ở Oklahoma đã phá hủy hàng nghìn ngôi nhà, giết chết 45 người, làm bị thương 597
người. Nghiên cứu chỉ ra rằng, thậm chí 1 năm sau lốc xoáy, trẻ em vẫn phải chịu cả các triệu chứng
bên trong và bên ngoài, như: lo lắng, nghĩ lại về sự kiện, ý nghĩ về tương lai ngắn ngủi (Evans &
Oehler-Stinnett, 2006). Đồng thời sự tự tường thuật, tự hồi tưởng của trẻ và người thân/cha mẹ về
nỗi sợ của chính họ và con cái do lốc xoáy cũng liên quan tới việc gia tăng đau buồn sau chấn
58
Tác động của thiên tai trên thế giới tới tâm lí của cư dân
thương (Lack & Sullivan, 2008).
Lũ lụt là một trong các loại thiên tai phổ biến nhất. Lũ do mưa rào là loại lũ nguy hiểm nhất
do không được cảnh báo trước, nó đến với tốc độ rất nhanh, giật đổ cây, phá hủy cầu, đường, và
các tòa nhà. Trong trường hợp vỡ đập, nước có sức tàn phá khủng khiếp. Sau thảm họa Buffalo
Creek năm 1972 với việc một chiếc đập ở phía tây Virginia bị vỡ, 224 đứa trẻ đã được đánh giá
thông qua phỏng vấn, kể chuyện và các biện pháp tâm lí khác. Thống kê cho thấy, tất cả trẻ em
sống sót qua trận lũ đều trải qua tâm lí đau buồn. Hai điềm báo lớn nhất về tác động tiêu cực của
lũ lụt là mức độ phản ứng sau thảm họa và khả năng nhận thức về chính những phản ứng này của
mỗi gia đình (Newman, 1976).
Lũ lụt xảy ra ở Midwest suốt năm 1993 cho người dân và chính quyền dành nhiều thời gian
hơn để chuẩn bị, vì họ nhận thấy mực nước sông dâng cao. Việc hàng ngày trông thấy cảnh hoang
tàn, ngửi thấy mùi cống rãnh và nhìn thấy tài sản ướt đẫm nước, trải qua thời tiết lạnh, ẩm và đối
phó với một lượng bùn lớn chính là những nhân tố tiềm tàng tạo cảm giác lo lắng và sợ hãi khi
phải ứng phó của cư dân. Tất cả các trận lũ không rút xuống qua một đêm, cư dân thường phải chờ
nhiều ngày hoặc nhiều tuần trước khi có thể dọn dẹp. Feinberg (1999) viết: “Nước lũ đôi khi chỉ
rút đi sau một thời gian khá dài và sự khổ cực lớn do việc chờ đợi để thấy những gì còn sót lại sau
khi căn nhà của bạn ngập chìm trong nước trong 1 tháng khiến tình trạng căng thẳng về cảm xúc
trở nên nghiêm trọng hơn” [3].
Sóng thần cũng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng nghìn người. Ví dụ, trận sóng thần
năm 2004 ở Ấn Độ Dương đã ảnh hưởng tới một số quốc gia, bao gồm Indonesia, Sri Lanka, Ấn
Độ và Thái Lan, kết quả là trên 250.000 người chết và phá hủy nhiều địa phương ở ven biển. Sức
tàn phá của sóng thần khiến nhiều người không thể phục hồi, điều này càng làm phức tạp thêm
nỗi đau cho những người sống sót. Nghiên cứu về hậu quả tâm lí của trận sóng thần này chỉ ra
rằng, một năm sau đó, trẻ em có dấu hiệu lo lắng, thu mình, sợ hãi, bốc đồng và bị chấn thương
(Bhushan & Kumar, 2007).
Sau trận lũ lụt năm 1998 ở Bergen, Nauy, một thanh niên khủng hoảng và thiệt mạng, cho
thấy nhu cầu cần có hoạt động sàng lọc, phát hiện sớm và can thiệp khủng hoảng ngay sau thảm
họa. Trường học bị ảnh hưởng rất nặng nề nhưng đã không có bất cứ một hành động can thiệp nào.
Các học sinh tường thuật lại rằng, chúng nghĩ chúng sẽ đương đầu tốt hơn nếu có sự can thiệp, trợ
giúp cụ thể từ phía nhà trường (Dyregrov, Wikander, & Vigerust, 1999).
Tổng hợp những nghiên cứu trên thế giới đến nay đều chỉ rõ nhu cầu sàng lọc, phát hiện
sớm và can thiệp tâm lí kịp thời cho những cư dân (và chính gia đình của họ) trải nghiệm khủng
hoảng, căng thẳng tâm lí sau lốc xoáy, lũ lụt và sóng thần.
2.4. Tác động của lở đất tới tâm lí của người dân
Lở đất không phải lúc nào cũng dự báo trước được. Sạt lở bất ngờ của đất, đá và đống đổ
nát ở những vùng dốc có thể là kết quả gây ra bởi yếu tố tự nhiên như mưa quá nhiều, xói mòn,
nước trong đất hoặc động đất, hoặc trong một vài trường hợp có thể do yếu tố con người như việc
san ủi đất hay khai thác đất. Lở đất xảy ra trên khắp thế giới, các khu vực có mưa lớn hoặc độ dốc
lớn có nguy cơ càng cao. 72 giờ đầu tiên là khoảng thời gian rất căng thẳng về tâm lí đối với cư
dân, đặc biệt là trẻ em và các gia đình vì nỗ lực giải cứu để xác định đúng vị trí người sống sót
trong đống đổ nát.
Trong suốt tháng 6 năm 2007, trận mưa lớn kéo dài trong suốt mùa mưa ở Chittagong,
59
Trần Thị Lệ Thu
Bangladesh (thành phố có 5 triệu dân), gây ra lở đất, nhấn chìm nhiều nhà cửa ở khu vực đồi núi
của thành phố, khiến trên 1/3 thành phố ngập trong bùn hoặc nước. Bất chấp những cảnh báo từ
trước đó của các chuyên gia về sự gia tăng khả năng sạt lở đất, hành động phá đồi bất hợp pháp
vẫn tiếp diễn. Trên 2 triệu người bị ảnh hưởng, hơn 125 người chết, bao gồm 50 trẻ em, và hơn
200 người bị thương. Trong suốt mùa mưa này, ở quận Cox’s Bazar gần đó, 400.000 bị mất nhà
cửa trong đợt lũ. Vì vậy, hậu quả của sạt lở đất có thể trầm trọng hơn bởi các đợt lũ lụt trùng nhau
ở các khu vực bị ảnh hưởng (Sarwar, 2008) [4].
Nghiên cứu của Catapano et al.’s về hậu quả tâm lí của vụ sạt lở đất ở Sarno, Italia tháng 5
năm 1998, cho thấy rằng, có nhiều người bị PTSD hơn tại địa phương có sạt lở đất so với những
người từ các địa phương khác ở gần đó. Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp
những hỗ trợ và can thiệp tâm lí cho những người dân trong các địa phương phải trải qua các vụ
sạt lở đất hay các thảm họa tự nhiên khác.
Như vậy cũng thực sự cần có những nghiên cứu thực chứng về biệt pháp can thiệp tâm lí
phù hợp cho cư dân bị rơi vào trạng thái khủng hoảng, căng thẳng và PTSD sau thảm họa lở đất.
2.5. Tác động của hỏa hoạn tới tâm lí của người dân
Mỗi năm, hỏa hoạn xảy ra ở khắp các châu lục ngoại trừ châu Nam Cực. Nguyên nhân phổ
biến nhất của hỏa hoạn ở mỗi vùng trên thế giới có sự khác nhau. Ví dụ, ở Mỹ, Canada và phía
tây bắc Trung Quốc, sét là nguồn mồi lửa chính. Ở Mexico, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Châu Phi, Đông
Nam Á, Fiji và New Zealand, hỏa hoạn là do hoạt động của con người, như nông nghiệp và sự đốt
nhằm chuyển mục đích sử dụng của đất. Sự bất cẩn của con người là nguyên nhân chính của hỏa
hoạn ở Trung Quốc và lưu vực Địa Trung Hải. Ở Australia, nguyên nhân của hỏa hoạn có thể do cả
tia sét và hoạt động của con người, như tia lửa từ máy móc (International Association of Wildland
Fire, 2011).
Một vài cảnh báo thường được đưa ra trước hỏa hoạn; tuy nhiên, hướng và sự lan tỏa của
hỏa hoạn có thể thay đổi đột ngột do yếu tố gió và địa hình. Thời điểm đưa ra cảnh báo có thể khác
nhau giữa các vùng lân cận. Trong khi một vài người có nhiều giờ (thậm chí nhiều ngày) để sơ tán,
những người khác chỉ có vài phút để thu gom của cải, đồ đạc và rời bỏ nhà cửa. Hoạt động cảnh
báo, chuẩn bị và sơ tán cũng chính là tác nhân có thể làm trẻ em rất lo lắng và hoảng sợ; đặc biệt
nếu chúng nhìn thấy hình ảnh trên ti vi về những căn nhà gần đó bị cháy. Vào mùa hè năm 2007
và 2009, hơn 50.000 người dân ở ngoại ô Athens, Hy Lạp đã được sơ tán do hỏa hoạn lan nhanh
đã phá hủy trên 1 triệu mẫu Anh và trên 1.000 ngôi nhà và cần nhiều tuần để kiểm soát đám cháy.
Trong nhiều tháng từ tháng 6 đến tháng 9 năm 2007, trên 3.000 vụ hỏa hoạn đã xảy ra trên khắp
Hy Lạp (International Strategy for Disaster Reduction, 2007, 2009) [6].
Các phản ứng ngay sau hỏa hoạn có thể bao gồm sự kiệt quệ về cảm xúc và thể chất. Theo
một nghiên cứu được đưa ra trong La Greca et al. (1996) cho thấy có những hậu quả tiềm tàng đối
với trẻ em. Trẻ em có thể phải trải qua cảm giác tội lỗi của người sống sót, ngôi nhà của chúng
không bị thiệt hại gì trong khi các ngôi nhà khác bị phá hủy hoàn toàn. Nhìn chung, triệu chứng
của trẻ em càng nặng khi chúng phải trải qua các nỗi sợ càng lớn trong suốt vụ hỏa hoạn; đặc biệt
đối với những thiệt hại chính trẻ em có thể quan sát thấy; âm thanh và mùi của hỏa hoạn cũng
thường tạo ra sự sợ hãi và lo lắng. Hậu quả lâu dài là các cảm giác tương tự như việc ngửi thấy
mùi khói, có thể khiến trẻ buồn rầu trong nhiều tháng sau đó. Trong hầu hết các vụ hỏa hoạn, cư
dân sống bên ngoài khu vực bị ảnh hưởng có thể vẫn cảm thấy mối nguy từ sự lan tỏa của những
đám khói hay ngọn lửa ở phía chân trời và các bản tin trên ti vi. Một số trẻ em có thể phản ứng
60
Tác động của thiên tai trên thế giới tới tâm lí của cư dân
lại với những tin tức tiếp theo sau vụ cháy và thậm chí nhiều em còn phản ứng lại cả bản tin thời
tiết khi những bản tin này nói về hạn hán và hỏa hoạn. Ngay cả khi hỏa hoạn chỉ kéo dài trong
một khoảng thời gian nhất định, những người sống sót vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi hậu quả của nó
trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm tiếp theo (Bolton, O’Ryan, Udwin, Boyle, & Yule, 2000;
La Greca, Vernberg, Silverman, Vogel, & Prinstein, 1994).
Những nghiên cứu đi trước đã chỉ ra nhu cầu cần sự trợ giúp tâm lí của những cư dân trải
nghiệm hỏa hoạn; cụ thể như cần có những khảo sát sâu hơn để tìm biện pháp phòng ngừa và can
thiệp rối nhiều tâm lí cho trẻ em khi căng thẳng tâm lí của chúng tăng lên cùng với việc phải chứng
kiến sự sơ tán, thu gom của cải, đồ đạc cũng như hiện tượng khói bụi sau thảm họa; đặc biệt những
trường hợp trẻ em phải chứng kiến sự mất mát người thân và sự tàn phá ghê gớm về nhà cửa, của
cải.
3. Kết luận
Tác động của thiên tai (thảm họa tự nhiên) tới tâm lí của cư dân là rất đa dạng, với mức độ,
cường độ và tần suất khác nhau trong từng loại thảm họa, đối với từng địa phương, từng gia đình
và mỗi đứa trẻ. Kết quả của nhiều nghiên cứu về tâm lí của cư dân trước, trong và đặc biệt là sau
thảm họa tự nhiên đã cho thấy bức tranh khái quát về ảnh hưởng tâm lí trong từng loại thảm họa tự
nhiên (bão, động đất, lốc xoáy, lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn). Các nghiên cứu này đều chỉ ra
và khuyến cáo việc chuẩn bị tâm lí cho người dân trước thiên tai và trợ giúp/ can thiệp tâm lí kịp
thời cho họ trong và sau thiên tai. Đối tượng cần ưu tiên là trẻ em và những học sinh đang đi học.
Cách trợ giúp tâm lí phù hợp đối với các em có thể là quay trở lại trường học sớm với sự trợ giúp
tâm lí của chuyên gia tâm lí học đường và các giáo viên đã được đào tạo về lĩnh vực này.
Các bài báo, công trình chúng tôi tổng hợp trong nghiên cứu này cũng đồng thời chỉ ra rằng
cần phải thúc đẩy những nghiên cứu ứng dụng về biện pháp trợ giúp tâm lí cho cư dân (khả năng
phòng ngừa và ứng phó,. . . ) đối với từng loại thảm họa tự nhiên hiện nay (bão, động đất, lốc xoáy,
lũ lụt - sóng thần, lở đất, hỏa hoạn) để có chiến lược trợ giúp tâm lí ngày càng phù hợp, hiệu quả
cho cư dân sống trong những vùng chịu ảnh hưởng nhiều bởi thiên tai. Đặc biệt cần có những
nghiên cứu về biện pháp nhận diện sớm và kĩ thuật can thiệp/ trị liệu liệu tâm lí kịp thời cho những
cư dân khi họ phải trải nghiệm lo âu, khủng hoảng, rối nhiễu thích ứng, trầm cảm, rối nhiễu ám
ảnh, PTSD, v.v. trước, trong và sau thảm họa tự nhiên.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số VI.1.1-2012.14.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Jim Ysseldyke &Matthew Burns, 2009. Functional Assessment of Instructional Environments
for the Purpose of Making Data Driven Instructional Decisions. The Handbook of school
psychology. John Wiley & Son, Inc. Fourth Edition, pp. 410- 433.
[2] Jonathan Sandoval & Stephen E. Brock, 2009. Managing crisis: Prevention, Intervention &
treatment.The Handbook of school psychology. John Wiley & Son, Inc. Fourth Edition, pp.
886- 904.
[3] Martin J. Ikeda, Stan C. Paine, and Judy L. Elliott, 2010. Supporting Response to Intervention
(RTI) at School, District, and State Levels. Interventions for Achivement and Behavior Problems
in a Three - Tier Model Including RTI. NASP Publications. pp. 27- 46.
61
Trần Thị Lệ Thu
[4] Martin J.Ikeda, Eric Neesen, & Joseph C Witt, 2008. Best practice in Universal Screening.
Best practices in school psychology V. National Association of School Psychology, Volume 1,
pp. 103- 114.
[5] Stephen E. Brock, Philip J. Lazarus, Shane R. Jimerson, 2002. Natuaral disasters. Best
Practices in School Crisis Prevention & Intervention. NASP Publications. pp. 433- 448.
[6] Stephen E. Brock, 2002. Crisis Theory: A Foundation for the Comprehansive Crisis Prevention
and Intervention Team. Best Practices in School Crisis Prevention & Intervention. NASP
Publications. pp.5- 18.
[7] Thomas K. Fagan & Paula Sasch Wise, 2000. School Psychology: Past, Present, and Future;
Second Edition. National Association of School Psychologists.
ABSTRACT
The psychological influence of natural disasters on people affected by a natural disaster
In this paper the author looks at natural disasters & the influence that they have on those
who suffer from the natural disaster. Such natural disasters include hurricanes and typhoons,
earthquakes, tornadoes, floods and tsunamis, landslides and wildfires. The severity of the impact
on each individual psychologically depends on each factor: kind of the natural disaster, place,
culture, age, psychological traits, etc.
Keywords: Natural disaster, inhabitant’s psychology, hurricanes and typhoons, earthquakes,
tornadoes, floods & tsunamis, landslides, wildfires.
62
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3677_ttlthu_4904_2178321.pdf