Tài liệu Tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đến thu hút FDI vào địa phương: Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
55
TÁC ĐỘNG CỦA CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP
TỈNH ĐẾN THU HÚT FDI VÀO ĐỊA PHƯƠNG
THE IMPACT OF PROVINCIAL COMPETITIVENESS INDEX ON
LOCAL FDI ATTRACTION
Lã Văn Đoàn1, Nguyễn Thị Quỳnh Phương2
Ngày nhận: 24/8/2017 Ngày nhận bản sửa: 15/9/2017 Ngày đăng: 5/2/2018
Tóm tắt
Năm 2016, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện của Việt Nam đạt 15,8 tỉ
USD, tuy nhiên lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này phân bổ không đồng đều. Mỗi tỉnh
đều có những lợi thế nhất định, và cùng quyết tâm để thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương,
nhưng câu hỏi đặt ra là liệu nâng cao được năng lực cạnh tranh của tỉnh có giúp thu hút thêm
được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển hay không, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài? Bằng phương pháp ước lượng Momen tổng quát (GMM - Generalized Method of
Moments) cho dữ liệu bảng động, sử dụng Bộ dữ liệu chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đến thu hút FDI vào địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
55
TÁC ĐỘNG CỦA CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP
TỈNH ĐẾN THU HÚT FDI VÀO ĐỊA PHƯƠNG
THE IMPACT OF PROVINCIAL COMPETITIVENESS INDEX ON
LOCAL FDI ATTRACTION
Lã Văn Đoàn1, Nguyễn Thị Quỳnh Phương2
Ngày nhận: 24/8/2017 Ngày nhận bản sửa: 15/9/2017 Ngày đăng: 5/2/2018
Tóm tắt
Năm 2016, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện của Việt Nam đạt 15,8 tỉ
USD, tuy nhiên lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này phân bổ không đồng đều. Mỗi tỉnh
đều có những lợi thế nhất định, và cùng quyết tâm để thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương,
nhưng câu hỏi đặt ra là liệu nâng cao được năng lực cạnh tranh của tỉnh có giúp thu hút thêm
được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển hay không, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài? Bằng phương pháp ước lượng Momen tổng quát (GMM - Generalized Method of
Moments) cho dữ liệu bảng động, sử dụng Bộ dữ liệu chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
của 7 tỉnh/thành phố gồm Hà nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, thành phốHồ
Chí Minh, Cần Thơ trong giai đoạn 2005 – 2015 chúng tôi đi tìm kết quả cho câu hỏi đó.
Từ khóa: Bộ chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thu hút FDI
Abtract
In 2016, total FDI inflows to Vietnam reached US $ 15.8 billion, but the amount was unevenly
distributed. Each province has certain advantages and the same determination to promote the
local socio-economy, but the question is whether improving the competitiveness of the province
will help to attract more external resources to develop, especially to attract foreign direct
investment? Using the Generalized Method of Moments (GMM) method for dynamic table data,
using the Provincial Competitiveness Index (PCI) dataset of 7 provinces including Hanoi, Hai
Phong, Da Nang, Dong Nai, Binh Duong, Ho Chi Minh City, Can Tho in the period of 2005 -
2015 we are looking for results for that question.
Key words: Provincial Competitiveness Index, FDI attraction
1 ThS. Khoa Bảo hiểm, Trường Đại học Lao động Xã hội (CSII)
2 ThS. Khoa Luật, Trường Đại học Lao động Xã hội (CSII)
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
56
1. Giới thiệu
Trong quá trình phát triển thì nhu cầu về
vốn tư bản để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, an sinh
xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng, luôn rất
lớn. Walt Rostow (1960) đã chỉ ra rằng quá
trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
thường trải qua 5 giai đoạn: (1) giai đoạn xã
hội truyền thống cũ, (2) giai đoạn chuẩn bị cất
cánh, (3) giai đoạn cất cánh, (4) giai đoạn
trưởng thành và (5) giai đoạn tiêu dùng cao.
Điều kiện để thực hiện thành công được giai
đoạn chuẩn bị cất cánh gồm: (i) Tỷ lệ đầu tư
tăng từ 5 – 10 % trong GDP; (ii) Xây dựng
được những lĩnh vực đầu tàu (các ngành công
nghiệp cơ bản như điện, công nghệ thông tin,...
phát triển thị trường xuất nhập khẩu, các
ngành công nghiệp phụ trợ); (iii) Phải có bộ
máy quản lý năng động, biết sử dụng kỹ thuật
và tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại. Xét
theo 3 điều kiện này thì những quốc gia đang
phát triển kinh tế như Việt Nam luôn gặp
những hạn chế nhất định, đặc biệt là những
hạn chế về nguồn vốn đầu tư và mức độ sẵn có
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Theo Tổng cục thống kê thì từ sau năm
2008 đến nay, năm nào trên cả nước lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cũng
vượt 10 tỉ USD/năm. Tuy nhiên, lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI-Foreign
Direct Investment) đổ vào các địa phương
không đồng đều. Một số tỉnh như Lai Châu,
Bắc Kạn; Gia Lai; KonTum; Đắc Nông thu hút
FDI rất khó khăn, trong khi đó các tỉnh/thành
phố trung tâm như Hà nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương,... vẫn
luôn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư
nước ngoài.
Theo Wheeler & Mody (1992); Harms &
Ursprung (2002) có hai nhóm yếu tố tác động
đến khả năng thu hút FDI, đó là nhóm yếu tố
kinh tế (quy mô thị trường, mức độ dồi dào
của tài nguyên, chính sách ưu đãi đầu tư,...) và
nhóm yếu tố thuộc thể chế (tham nhũng, tính
minh bạch, bảo vệ tài sản, hiệu lực thực thi
hợp đồng, sự ổn định chính trị). Mục đích của
nghiên cứu này là xem xét tác động của năng
lực cạnh tranh của từng tỉnh đến khả năng thu
hút FDI vào địa phương, đây được coi là yếu
tố thể chế. Ở Việt Nam, Bộ chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp Tỉnh (Provincial
Competitiveness Index - PCI) và các thành
phần của bộ chỉ số này được xây dựng để đánh
giá mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư,
chất lượng điều hành nền kinh tế và nỗ lực cải
cách thủ tục hành chính của chính quyền các
quốc gia/vùng có thu hút FDI. Từ khi xuất
hiện (năm 2005), bộ chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh của Việt Nam đã tác động mạnh đến
động lực cải cách về môi trường đầu tư tại các
địa phương của chính quyền các cấp. Nhưng
trong thực tế, một số tỉnh mặc dù cải thiện
được năng lực cạnh tranh, tăng cường được
minh bạch trong tiếp cận đất đai, giảm thời
gian thủ tục cấp phép đầu tư, hỗ trợ pháp lý,...
nhưng thu hút FDI vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng. Vì vậy, đặt ra một yêu cầu phải có
thêm những nghiên cứu để lý giải được vấn đề
này.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên
cứu
Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài là
tìm kiếm lợi nhuận và các lợi ích khác từ nước
tiếp nhận đầu tư. Họ kỳ vọng rằng đầu tư ra
nước ngoài sẽ giúp họ tận dụng được giá
nguyên vật liệu và giá nhân công rẻ hơn, đồng
thời vẫn bảo mật được bí quyết công nghệ mà
sản phẩm lại được giới thiệu rộng rãi trên toàn
thế giới. Chính vì thế, có rất nhiều lý thuyết
giải thích những yếu tố tác động đến khả năng
thu hút vốn FDI như: Lý thuyết về hoạt động
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
57
quốc tế của các công ty đa quốc gia của Hymer
(1960); Lý thuyết vòng đời sản phẩm của
Vernon (1966); Lý thuyết theo chiều ngang và
theo chiều dọc của Cave (1971); Lý thuyết
quốc tế của Buckley & Casson (1976); Lý
thuyết chiến lược FDI của Graham (1978); Lý
thuyết chiết trung của Dunning (1993).
Trong các nghiên cứu của nước ngoài, yếu
tố thể chế tác động đến việc thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường sử dụng tính minh
bạch (hay ngược lại với nó là sự quan liêu,
tham nhũng) làm đại diện. Wei (2000) cho
rằng minh bạch là một yếu tố của thể chế
chính trị quốc gia, sự tồn tại hay không tồn tại
của minh bạch sẽ biểu hiện giá trị cốt lõi của
môi trường đầu tư. Những quốc gia có năng
lực lập pháp, hành pháp và tư pháp mạnh sẽ có
tính minh bạch cao hơn (Holmes et al., 2012).
Bên cạnh đó bất cứ điều gì có thể làm thay đổi
hành vi của cá nhân như giáo dục, văn hóa dân
tộc, hệ thống niềm tin xã hội, mức độ xử phạt
đối với hành vi tham nhũng,... đều có tác động
đến sự phổ biến của tính minh bạch trong xã
hội (North, 1990).
Trong nghiên cứu thực nghiệm của mình,
Habib & Zurawicki (2002) xem xét tác động
của tính minh bạch đến FDI từ cả hai góc độ:
nước đầu tư FDI và nước tiếp nhận FDI. Sự
chênh lệch về mức độ tham nhũng tại 2 quốc
gia sẽ ảnh hưởng đến quyết định chọn địa
điểm đầu tư, nhưng mức độ tham nhũng cao
tại nước tiếp nhận FDI sẽ làm nản lòng các
nhà đầu tư. Họ cho rằng cần tránh buôn bán,
đầu tư ở những nước có sự biến đổi tiêu cực về
mức độ tham nhũng, bởi khi đó các doanh
nghiệp FDI sẽ phải đối phó với những cạm bẫy
trong lập kế hoạch kinh doanh tại những quốc
gia mà mức độ tham nhũng không thể dự
đoán.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về tác động
của yếu tố thể chế thông qua bộ chỉ số PCI đến
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
được thực hiện. Nguyễn Minh Hà & Lê Công
Hướng (2014) tìm ra tác động tích cực của
thiết chế pháp lý đối với việc thu hút FDI vào
các địa phương. Cụ thể, là với các điều kiện
khác không thay đổi, khi chỉ số thành phần
thiết chế pháp lý tăng 1 điểm thì khả năng thu
hút FDI vào tỉnh đó tăng 75,8 triệu USD, với
độ tin cậy 90%. Phạm Hoàng (2009) xem xét
phân bổ FDI theo tỉnh giai đoạn 1988 – 1998,
tác giả tìm thấy các yếu tố như tiềm năng thị
trường, tiền lương (chi phí nhân công), cơ sở
hạ tầng, ưu đãi đầu tư, lực lượng lao động là
các yếu tố tác động tích cực tới thu hút FDI tại
các địa phương. Nguyễn Quốc Việt và cộng sự
(2014) phát hiện ra không phải tất cả các biến
thể chế trong bộ chỉ số PCI đều tác động đến
khả năng thu hút đầu tư. Cụ thể là các biến thể
chế hỗ trợ từ chính quyền địa phương như:
Tính năng động của lãnh đạo cấp tỉnh, đào tạo
lao động và thiết chế pháp lý không ảnh hưởng
nhiều đến khả năng thu hút FDI của địa
phương. Chính sự khác nhau trong các kết
luận của các nghiên cứu trước đã giải thích
cho sự cần thiết cần có thêm những bằng
chứng thực nghiệm để đánh giá tác động của
bộ chỉ số PCI đối với việc thu hút FDI của các
địa phương.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước
của Nguyễn Quốc Việt và cộng sự (2014);
Nguyễn Minh Hà & Lê Công Hướng (2014)
nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như
sau:
FDI_BQit = 0 + 1 (GDP_BQ)it + 2 (MINHBACH)it + 3 (LANHDAO)it + 4
(PHAPLY)it + uit(Mô hình 1)
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
58
Trong đó: i = 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 tương ứng
với Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình Dương, Đồng
Nai.
t : là năm nghiên cứu (từ 2005 đến
2015)
uit: là sai số.
Biến phụ thuộc là số vốn FDI đăng ký
tính theo bình quân đầu người hàng năm của
từng tỉnh (FDI_BQ). Việc sử dụng nguồn vốn
FDI thực hiện hàng năm sẽ chính xác trong
phân tích hiệu quả, nhưng vốn FDI đăng ký
thể hiện tốt hơn niềm tin của nhà đầu tư nước
ngoài vào tính hấp dẫn của từng địa phương.
Nhóm tác giả sử dụng FDI bình quân để loại
bớt sự chênh lệch về quy mô dân số của từng
tỉnh có thể ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu.
Đơn vị: USD/người.
Thu nhập bình quân đầu người
(GDP_BQ): là mức thu nhập bình quân của
một người dân tại từng tỉnh, được tính theo giá
thực tế vì nghiên cứu trong phạm vi một nước
nên không nhất thiết phải quy về giá so sánh.
Đơn vị: triệu đồng/người.
Tính minh bạch (MINHBACH): đo
lường khả năng tiếp cận các kế hoạch của tỉnh
và các văn bản pháp lý, thủ tục hành chính cần
thiết cho các hoạt động đăng ký kinh doanh
hay vận hành kinh doanh của các doanh
nghiệp. Địa phương có tính minh bạch tốt sẽ
thu hút tốt hơn nguồn vốn FDI. Đơn vị: điểm
số.
Tính năng động của đội ngũ lãnh đạo
cấp tỉnh (LANHDAO) dùng để đo lường tính
sáng tạo, sáng suốt của lãnh đạo tỉnh trong quá
trình thực thi các chính sách của Trung ương
cũng như trong việc đưa ra các sáng kiến riêng
nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng
thời đánh giá khả năng hỗ trợ và áp dụng
những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của
Trung ương theo hướng có lợi cho doanh
nghiệp. Đơn vị: điểm số.
Thiết chế pháp lý (PHAPLY) dùng để
đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân
đối với hệ thống tòa án, tư pháp của tỉnh. Liệu
các thiết chế pháp lý này có được doanh
nghiệp xem là công cụ hiệu quả để giải quyết
các tranh chấp hoặc là nơi doanh nghiệp có thể
khiếu nại các hành vi nhũng nhiều của cán bộ
công quyền tại địa phương. Đơn vị: điểm số.
Bảng 1: Đặc điểm các biến trong mô hình
Nguồn: Theo quy ước của nhóm tác giả
Ký hiệu biến Nội dung của biến Đơn vị
Kỳ vọng
tác động
FDI_BQ
Số vốn đầu tư nước ngoài thu hút của địa
phương theo bình quân đầu người.
USD/người
Biến phụ
thuộc
GDP_BQ
Thu nhập bình quân của người dân ở từng
địa phương
Triệu đồng +
MINHBACH
Tính minh bạch, công khai về thủ tục, tài
chính, giải quyết hồ sơ...
Điểm số +
LANHDAO
Tính năng động của đội ngũ lãnh đạo Tỉnh
và bộ phận chức năng
Điểm số +
PHAPLY
Hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân và hiệu lực
của hệ thống tòa án/tư pháp địa phương
Điểm số +
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
59
Nhóm tác giả lựa chọn phương pháp định
lượng dựa trên dữ liệu bảng hỗn hợp cho 07
tỉnh/thành phố (gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình
Dương, Đồng Nai) trong 11 năm từ giai đoạn
2005 – 2015 với 2 lý do: Thứ nhất, nghiên cứu
đo lường chất lượng thể chế cấp tỉnh muốn có
tính khách quan cần xem xét trên diện rộng với
số mẫu quan sát đủ lớn, đồng thời cần gắn với
yếu tố thời gian (không bỏ qua biến động theo
xu hướng thời gian) nhằm đảm bảo tính chính
xác của kết quả ước lượng. Thứ hai, do vị trí
địa lý, trình độ phát triển, phân cấp quản lý
khác nhau,... nên chất lượng thể chế của từng
tỉnh tại Việt Nam không đồng đều, để giảm sự
biến động này đến kết quả ước lượng, nhóm
tác giả chỉ chọn ra 7 tỉnh để phân tích, đây đều
là những tỉnh có vị trí địa lý, trình độ dân trí,
điều kiện sống, số lượng các khu công
nghiệp, khá tương đồng, nằm trong danh
sách những tỉnh thu hút nhiều vốn FDI của cả
nước. Việc lựa chọn này đảm bảo được tính
đồng bộ, khách quan trong đánh giá, bao gồm
nhiều vùng kinh tế trọng điểm.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Do 7 tỉnh đưa vào nghiên cứu đều có nhiều
điểm khác nhau về vị trí địa lý, tập quán, trình
độ của nguồn nhân lực, nênnhóm tác giả
ước lượngmô hình 1 theo 3 dạng tác động:Tác
động gộp (Pooled), tác động cố định (Fixed
Effect - FE), tác động ngẫu nhiên (Random
Effect - RE). Việc phân tích theo tác động cố
định, tác động ngẫu nhiên sẽ cho phép nghiên
cứu các đặc điểm riêng của từng tỉnh trong mô
hình. Tức là tách uit = vi + eit, trong đó vi là các
đặc điểm riêng của từng tỉnh.
Theo Bond (2002), (Omri, Nguyen, &
Rault, 2014) thì dữ liệu về FDI thường là
chuỗi thời gian bền, tức là lượng vốn FDI thu
hút trong những năm sau thường có tương
quan mạnh với dữ liệu những năm trước, do
đó trong mô hình nghiên cứu không được bỏ
qua tính động của yếu tố này. Sau khi Hansen
công bố về phương pháp ước lượng Momen
tổng quát GMM (Generalized Method of
Moments) năm 1982, thì Arellano & Bond
(1991) áp dụng GMM vào mô hình dạng bảng
động để cải thiện tính vững và tính hiệu quả
của mô hình dạng bảng động. Khi đó, mô hình
(1) sẽ được viết lại như sau:
FDI_BQit = ( 0 +vi) + 1 (GDP_BQ)it + 2 (MINHBACH)it + 3 (LANHDAO)it + 4
(PHAPLY)it + 5 (FDI_BQ)i(t-1) + eit(Mô hình 2)
Dữ liệu được thu thập và tổng hợp từ 3
nguồn: Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam; Cục Đầu tư nước ngoài và Tổng
cục Thống kê.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thực trạng thu hút FDI của các tỉnh
giai đoạn 2005 – 2015
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong giai
đoạn 2005 – 2015 thu hút nguồn vốn FDI của
các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình Dương,
Đồng Nai có nhiều biến động. Giai đoạn từ
2005 đến nửa đầu năm 2008, vốn FDI đầu tư
vào các Tỉnh không ngừng gia tăng, đây là giai
đoạn bùng nổ về thu hút FDI sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Tiêu biểu như thành phố Hồ
Chí Minh đạt hơn 2,28 tỉ USD, Bình Dương
đạt 2,26 tỉ USD, Đồng Nai đạt gần 2,22 tỉ
USD vào năm 2007. Tuy nhiên giai đoạn sau
năm 2008, nguồn vốn FDI vào các tỉnh giảm
rõ rệt, đó cũng là hậu quả của cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn thế giới. Sau 2012, thu hút
FDI đã dần hồi phục và có những tăng trưởng
đáng kể, do xu hướng đón đầu những thuận lợi
mà dự đoán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) có thể mang lại. Số liệu tổng
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
60
hợp như bảng 2
Bảng 2: Tổng hợp lượng vốn FDI đăng ký của các tỉnh giai đoạn 2005 - 2015
Đơn vị: Triệu USD
Năm/Tỉnh 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Bình Dương 833.4 1342.7 2258 1026.1 2722.4 730.4 1006.2 2798.4 1070 1477.1 2952.76
Cần Thơ 3.9 2.4 28.6 540.1 13.9 71.5 143.5 31.1 9.7 35.7 17.9
Đà Nẵng 164 416.6 940 602.3 275.6 98.9 477.8 239 149.7 104.8 44.23
Đồng Nai 1153.2 1006.9 2414.8 1928.6 2644.6 544.1 850.9 1133.9 1163.5 1832.7 1946.97
Hải Phòng 289.8 168.9 540 310.9 92 61.2 896.8 1165 2614.5 1170.7 810.8
Hà Nội 1607.1 1091.8 2521.8 3150.9 642.2 557.4 1106.3 1345.9 1074.6 1402.8 1088.37
Tp.HCM 899 2025.7 2278.7 9071.6 1617.1 2118 3144.6 1340 1983.1 3269.1 3323.93
Nguồn: Niên giám TCTK& Cục Đầu tư nước ngoài qua các năm
Trong 7 tỉnh/thành phố nghiên cứu, thì
những tỉnh/thành phố dẫn đầu về khả năng thu
hút nguồn vốn FDI bao gồm thành phố Hồ Chí
Minh, đạt hơn 3,3 tỉ USD; Bình Dương với
hơn 2,9 tỉ USD và Đồng Nai với gần 2 tỉ USD
vào năm 2015. Riêng Hà Nội, Hải Phòng trong
những năm gần đây có dấu hiệu chững lại
trong công tác thu hút nguồn vốn này. Thành
phố Cần Thơ và Đà Nẵng vẫn còn nhiều biến
động về khả năng thu hút FDI.
4.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh cấp
tỉnh
Theo Phòng Thương mại và công nghiệp
Việt Nam (VCCI) thì bức tranh chung về kinh
tế Việt Nam và từng tỉnh nói riêng có nhiều
nét “tươi sáng”. Điểm đáng ghi nhận trong PCI
2016 là sự cải thiện điểm số của cả 5 thành
phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, Hà Nội
và Hải Phòng lần đầu tiên vượt ngưỡng 60
điểm, bước vào nhóm tỉnh/thành có chất lượng
điều hành tốt. Cụ thể, xếp hạng PCI năm 2016
thì Đà Nẵng (70 điểm, xếp thứ 1); Bình Dương
(63,57 điểm, xếp thứ 4); thành phố Hồ Chí
Minh (61,72 điểm, xếp thứ 8); Cần Thơ (61,14
điểm, xếp thứ 11); Hà Nội (60,74 điểm, xếp
thứ 14); Hải Phòng (60,10 điểm, xếp thứ 21)
và Đồng Nai (58,20 điểm, xếp thứ 34). Khảo
sát PCI từ 2006 – 2016 ghi nhận những cải
thiện rõ rệt sau:
• Gia nhập thị trường: Nếu năm 2006,
một doanh nghiệp tại tỉnh trung bình mất 20
ngày để đăng ký thành lập doanh nghiệp,thì
nay chỉ mất 7 ngày, mức thấp kỉ lục trong
vòng 12 năm điều tra PCI. Tỷ lệ doanh nghiệp
phải chờ hơn một tháng để chính thức đi vào
hoạt động đã giảm một nửa, từ 26% xuống còn
13%.
• Đào tạo lao động: Sau những sụt giảm
vào năm 2008, mức độ hài lòng với chất lượng
đào tạo lao động đã dần tăng trở lại. Năm
2016, 47% doanh nghiệp tại tỉnh trung vị hài
lòng với chất lượng giáo dục phổ thông của
địa phương (so với 35% năm 2008). Đồng
thời, 33% cho biết họ hài lòng với chất lượng
đào tạo dạy nghề (so với 19,8% năm 2008).
• Tính năng động: Ba chỉ tiêu đánh giá
tính năng động của Chính quyền địa phương từ
năm 2006 tới nay ghi nhận những biến chuyển
khả quan. Tỷ lệ doanh nghiệp tại tỉnh trung vị
đồng thuận với nhận định “Chính quyền tỉnh
năng động và sáng tạo trong việc giải quyết
các vấn đề mới phát sinh” đã tăng từ 47% năm
2011 lên đến 57% năm 2016. Hiện tại, 70,5%
doanh nghiệp tại tỉnh trung vị cho biết “Tỉnh
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
61
linh hoạt trong khuôn khổ pháp luật nhằm tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi”, cao hơn
10% so với mức thấp kỷ lục của chỉ tiêu này
vào năm 2011. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết
“Chính quyền Tỉnh có thái độ tích cực đối với
khu vực tư nhân” đã tăng thêm hơn 9 điểm
phần trăm (44%) so với mức thấp kỉ lục của
năm 2015.
4.3. Kết quả nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng phần mềm Stata để
xử lý dữ liệu. Mô hình (1) được ước lượng
bằng 3 mô hình tác động gộp Pooled, mô hình
tác động cố định FEM, mô hình tác động ngẫu
nhiên REM. Kết quả kiểm định so sánh FEM
với POOLED, FEM với REM cho thấy mô
hình tác động cố định FEM là phù hợp nhất
với mẫu dữ liệu. Kiểm định hiện tượng đa
cộng tuyến, hiện tượng tự tương quan cho kết
quả đáng tin cậy. Hệ số nhân tố phóng đại
phương sai VIF của biến GDP_BQ là (1.63);
LANHDAO (1.62); COCHE (1.47); PHAPLY
(1.22); MINHBACH (1.21). Mô hình (1) chỉ
gặp khuyết tật là hiện tượng phương sai sai số
không đồng nhất, xử lý tính vững bằng điều
kiện robust, kết quả hồi quy của mô hình (1)
được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3: Kết quả thực nghiệm của nghiên cứu
Biến phụ thuộc: Tổng vốn FDI
đăng ký bình quân (FDI_BQ)
Các mô hình
Biến độc lập Mô hình 1 Mô hình 2
Hệ số β Prob Hệ số β Prob
GDP_BQ 3.202764 0.356 1.616447 0.713
MINHBACH 0.152957 0.013 0.194404 0.042
LANHDAO 0.112665 0.070 0.212156 0.019
PHAPLY -0.032193 0.205 -0.103086 0.094
FDI_BQ (t-1) -0.506512 0.010
Hệ số chặn -1.096156 0.055
Các kiểm định
Số quan sát 77 63
Kiểm định sự phù hợp của mô hình 3.01** 8.77***
Kiểm định F-test 5.82*** Kiểm định AR(1) = 0.044
R_squared 44,02% Kiểm định AR(2) = 0.296
Kiểm định Hausman 6.71 Kiểm định Sargan = 0.237
Kiểm định Wald 41.46
Kiểm định Wooldridge 0.026***
Kiểm định Jarque-Bera 3.0785***
Ký hiệu ***, ** và * lần lượt biểu thị cho mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.
Nguồn: Theo tính toán của nhóm tác giả
Tuy nhiên, như đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu, biến FDI_BQ là biến bị nội
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
62
sinh vì lượng thu hút FDI của năm hiện tại sẽ
tương quan mạnh với lượng thu hút FDI những
năm trước đó. Việc ước lượng bằng mô hình
tác động cố định (Fixed Effect Model - FEM)
sẽ bị chệch, kết quả chỉ dùng tham khảo.
Nhóm tác giả tiếp tục ước lượng mô hình
(2) bằng phương pháp Momen tổng quát D-
GMM (Difference Generalized Method of
Moments). Kết quả hồi quy thể hiện trong cột
2 Bảng 3, theo đó kiểm định AR(1) = 0.044 <
0.05; kiểm định AR(2) = 0.296 > 0.05; kiểm
định Sargan = 0.237 > 0.05, theo Bond (2002)
tất cả các kiểm định trên đều cho kết quả đạt,
chứng tỏ biến FDI_BQ thực sự là biến bị nội
sinh và việc ước lượng bằng phương pháp
Momen tổng quát là phù hợp. Từ kết quả thực
nghiệm của nghiên cứu, có thể rút ra một số
nhận xét sau:
• Thứ nhất: Chưa đủ cơ sở để kết luận
thu nhập bình quân đầu người của từng tỉnh
có tác động tích cực trong việc thu hút mới
FDI vào từng địa phương ở các năm sau.
• Thứ hai: Có bằng chứng thống kê
chứng tỏ tính minh bạch của các cơ quan quản
lý Nhà nước tại tỉnh và sự năng động của lãnh
đạo tỉnh tác động tích cực đến niềm tin của
nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể, với giả định
các yếu tố khác không thay đổi thì khi tính
minh bạch tăng thêm 1% điểm số thì lượng
vốn đầu tư nước ngoài bình quân đầu người
mà tỉnh đó thu hút được tăng 0.19%.
4.4. Bình luận kết quả và hàm ý chính
sách
Hệ số β của biến LANHDAO và
MINHBACH đều mang giá trị dương và có ý
nghĩa thống kê. Kết luận này khác với với
nghiên cứu của Nguyễn Quốc Việt cùng cộng
sự (2014), của Nguyễn Minh Hà & Lê Công
Hướng (2014). Tuy khác nhau nhưng theo
nhóm tác giả điều này vẫn phù hợp trong thực
tế vì: (1) Các nhà đầu tư FDI đều là người
nước ngoài do vậy sự khác nhau về thể chế
chính trị, hệ thống luật pháp, ngôn ngữ,... rất
dễ dẫn đến những hiểu lầm đáng tiếc. Do vậy
họ rất cần một sự minh bạch của những chính
sách ưu đãi đầu tư để an tâm đầu tư sản xuất
kinh doanh lâu dài tại nước tiếp nhận; (2) Để
tiếp cận được nhiều thông tin, hay chỉ đơn giản
là “vận động hành lang” nhằm nhận được sự
ủng hộ tốt hơn thì cách đơn giản và nhanh nhất
là tiếp cận trực tiếp với đội ngũ lãnh đạo hiện
tại của địa phương. Do đó sự năng động, quyết
toán, quan điểm và phong cách quản lý của đội
ngũ lãnh đạo, cũng như thái độ phục vụ của
đội ngũ nhân viên hành chính cũng là tiêu chí
để nhà đầu tư FDI lựa chọn địa phương nào để
thực hiện đầu tư; (3) Việc minh bạch thông tin
đầu tư, phê duyệt, cấp phép đầu tư kết hợp với
sự năng động của đội ngũ lãnh đạo vừa có hiệu
quả trong ngắn hạn, vừa có tác động dài hạn.
Nếu có nhiều nhà đầu tư đang đầu tư, thì
những nhà đầu tư mới sẽ càng yên tâm và dễ
dàng hơn trong việc tìm kiếm nhà cung ứng
hay tìm kiếm khách hàng.
Nguyễn Minh Hà & Lê Công Hướng (2014)
tìm thấy tác động dương và có ý nghĩa thống
kê của tổng sản phẩm quốc nội và thiết chế
pháp lý, trong khi nghiên cứu của Nguyễn
Quốc Việt cùng cộng sự và nghiên cứu của
chúng tôi không tìm thấy bằng chứng để khẳng
định. Điều này hàm ý cần có thêm những
nghiên cứu thực nghiệm khác với số quan sát
nhiều hơn và thời gian dài hơn để kết luận.Từ
kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một
số gợi ý áp dụng vào thực tế:
Thứ nhất, Chính phủ và từng tỉnh cần công
khai thủ tục hành chính (Hệ số β của biến
MINHBACH là 0.194). Thủ tục hành chính
trong những năm qua là rào cản không nhỏ đối
với công tác thu hút vốn đầu tư, đặc biệt vốn
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
63
đầu tư nước ngoài FDI. Minh bạch không
những giúp các tỉnh trở nên hấp dẫn hơn trong
đánh giá của các nhà đầu tư, mà còn là giải
pháp quan trọng để khắc phục tệ quan liêu
tham nhũng, là điều kiện không thể thiếu để
Chính phủ tiếp thu trí tuệ của người dân,
doanh nghiệp, tổ chức,... đóng góp cho các
hoạt động quản lý Nhà nước. Hiện nay, một số
tỉnh đã xây dựng nên những trung tâm hành
chính quy mô lớn, hiện đại, tập trung như Đà
Nẵng, Bình Dương. Đó là một trong những
điều kiện để tiết kiệm nhiều thời gian, công
sức, tiền bạc cho cả người dân, doanh nghiệp
lẫn cán bộ, công chức.
Thứ hai, các tỉnh cần nghiên cứu và áp
dụng mô hình chính quyền điện tử. Bên cạnh
tính minh bạch thì tính năng động cũng có tác
động tích cực đến thu hút FDI. Mô hình chính
quyền điện tử, chính quyền đô thị giúp phát
triển nhanh các dịch vụ trực tuyến, hiện đại
hóa quản lý hành chính công, giám sát được
hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước. Từ
đó nâng cao được niềm tin, tạo được đồng
thuận không chỉ đối với nhà đầu tư nước ngoài
mà còn cả với người dân, doanh nghiệp trong
nước.
5. Kết luận
Trong quá trình phát triển thì nhu cầu về
vốn tư bản để đầu tư cho cơ sở hạ tầng, an sinh
xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng, luôn rất
lớn. Với dữ liệu thu thập từ bộ chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh do Phòng Thương mại và
công nghiệp Việt Nam công bố cho 7
tỉnh/thành phố (gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bình
Dương, Đồng Nai) trong 11 năm từ giai đoạn
2005 – 2015, bằng phương pháp ước lượng
Momen tổng quát, nghiên cứu này đã khẳng
định 2 điểm chủ yếu sau:
• Bổ sung thêm một nghiên cứu thực
nghiệm về tác động của bộ chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đối với việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào từng địa phương.
• Tính minh bạch của các cơ quan quản
lý Nhà nước và tính năng động của đội ngũ
lãnh đạo tỉnh có tác động tích cực đến khả
năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của địa phương.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là đa dạng,
việc chỉ xem xét một yếu tố thể chế có thể
được nhìn nhận là điểm yếu của nghiên cứu
này. Mặc dù nhóm tác giả biện luận việc sử
dụng dữ liệu của 7/thành phố tỉnh là phù hợp
cho nghiên cứu này, nhưng số quan sát còn
nhỏ nên chưa đại diện được hết cho các địa
phương của Việt Nam.
Việc vẫn tồn tại những khác biệt nhất
định trong kết luận từ các nghiên cứu đã giải
thích cho sự cần thiết phải có thêm các bằng
chứng thực nghiệm khác. Trong hướng nghiên
cứu tiếp theo, các nghiên cứu có thể tiếp cận
bằng các phương pháp phân tích khác, chẳng
hạn như hồi quy không gian (Spatial
Regression). Bởi vì các địa phương trong cùng
một nước thường tương tác mạnh với nhau về
mặt kinh tế thông qua các tác nhân khác nhau
như luồng di chuyển vốn đầu tư, lực lượng lao
động. Sự tương đồng về địa lý, điều kiện khí
hậu, tài nguyên thiên nhiên khiến các chính
sách kinh tế tốt thường được sao chép lại, do
đó xuất hiện hiệu ứng lan tỏa chính sách kinh
tế giữa các địa phương, trong đó có cả chính
sách về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu trong nước
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
64
1. Phan Trung Chính (2007), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn FDI ở Hà Nội, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 141.
2. Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
(2016), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2016, NXB. Lao động.
3. Nguyễn Minh Tiến (2014), Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các
vùng của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế - Trường ĐH Kinh tế Tp. HCM.
4. Nguyễn Thị Liên Hoa & Bùi Thị Bích Phương (2014), Nghiên cứu các nhân tố tác động
đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những quốc gia đang phát triển, Tạp chí Phát triển & Hội
nhập, số 14 (24) – tháng 01-02/2014.
5. Nguyễn Minh Hà (2014), Các chỉ số thành phần của PCI và tác động của chúng đến thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương của Việt Nam. Những vấn đề kinh tế và chính
trị thế giới, số 5(217).
6. Nguyễn Quốc Việt và cộng sự (2014), Đánh giá tác động của chất lượng thể chế cấp
tỉnh tới khả năng thu hút FDI vào các địa phương tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,
Kinh tế và Kinh doanh, Tập 30, Số 1 (2014), 53-62.
7. Võ Hùng Dũng (2011). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học số 3(21), trang 49-55.
8. Võ Thị Thúy Anh (2012). Nhận diện các vấn đề của Thành phố Đà nẵng qua phân tích
kết quả PCI. Kỉ yếu Hội thảo Miền Trung và Tây Nguyên trên con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, 2012, trang 65-69
Tài liệu nước ngoài
9. Ali Al-Sadig (2009), The Effects of Corruption on FDI Inflows, Department of Economics,
University of Essex.
10. Hoang, P. T. (2009), Assessment of FDI Spillover Effects for the Case of Vietnam: A
Survey of Micro-data Analyses, Deepening Eastasian Economic Integration.
11. Sasi Iamsiraroj and Hristos Doucouliagos (2015),Does Growth Attract FDI?,Deakin
University, Australia.
12. Dunning, J. (1993). Multinational enterprises and the global economy. Wokingham:
Addison Wesley.
13. Roy, J. P., & Oliver, C. (2009). International joint venture partner selection: The role of
the host-country legal environment. Journal of International Business Studies, 40, 779–801.
14. Rose-Ackerman, S. (2008). Corruption and government. Journal of International peace-
keeping, p. 328–343 (Special issue on post-conflict peacebuilding and corruption).
15. Fredriksson P.G., List J.A., Millimet D.L., (2003). Bureaucratic corruption, environmental
policy and inbound US FDI: Theory and evidence. Journal of Public Economics, 87, 1407-1430.
16. Wei S, J., (2000). How taxing is corruption on international investor? Review of
Economics and Statistics, 82, 1-11.
17. Holmes, R., Miller, T., Hitt, M., & Salmador, M. (2012). The interrelationships among
informal institutions, formal institutions, and inward foreign direct investment.
18. North, D. (1990). Institutions, institutional change and economic performance.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 43, 02/2018
65
Cambridge: Cambridge University Press.
19. Habib, M., & Zurawicki, L. (2002). Corruption and foreign direct investment. Journal of
International Business Review, vol. 33(2), p. 291–307.
20. Harms P., Ursprung H.W., (2002). Do civil and political repression really boost foreign
direct investment? Economic Inquiry, 40, 651-663.
21. Peter Egger & Hannes Winner (2005). Evidence on corruption as an incentive for foreign
direct investment. European Journal of Political Economy, vol.21, p. 932-952.
22. Wheeler, D., & Mody, A. (1992). International investment location decisions: The case of
US firms. Journal of International Economics, vol.33, p. 57–76.
23. Henisz, W. (2000). The institutional environment for multinational investment. Journal
of Law, Economics and Organization, 16, 334–364.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_4473_2141141.pdf