Tài liệu Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật - Nguyễn Thu Trang: VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
43
Review article
The Impacts of Industry 4.0 on the Rights
of People with Disabilities
Nguyen Thu Trang*
National Economics University,
No. 207 Giai Phong Road, Hai Ba Trung Distric, Hanoi, Viet Nam
Received 12 January 2019
Revised 03 February 2019; Accepted 04 March 2019
Abstract: We are at the dawn of the industrial revolution 4.0. What will the industry 4.0
impact on the rights of people with disabilities. This paper aims at exploring the primary
issues in connection with the impacts of the industry 4.0 on the rights of people with
disabilities. This paper is therefore divided into four sections. The first section will
provide an overview of the industry 4.0, the second section will provide an overview of
the rights of people with disabilities, the third section will analyze the impacts of industry
4.0 on the rights of people with disabilities, and the last one will produce some
re...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của người khuyết tật - Nguyễn Thu Trang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
43
Review article
The Impacts of Industry 4.0 on the Rights
of People with Disabilities
Nguyen Thu Trang*
National Economics University,
No. 207 Giai Phong Road, Hai Ba Trung Distric, Hanoi, Viet Nam
Received 12 January 2019
Revised 03 February 2019; Accepted 04 March 2019
Abstract: We are at the dawn of the industrial revolution 4.0. What will the industry 4.0
impact on the rights of people with disabilities. This paper aims at exploring the primary
issues in connection with the impacts of the industry 4.0 on the rights of people with
disabilities. This paper is therefore divided into four sections. The first section will
provide an overview of the industry 4.0, the second section will provide an overview of
the rights of people with disabilities, the third section will analyze the impacts of industry
4.0 on the rights of people with disabilities, and the last one will produce some
recommendations for ensuring the rights of people with disabilities in the industry 4.0.
Keywords: Person with a disability, industry 4.0, discrimination, the rights of a person
with a disability.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: thutrang8861@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls. 4141
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
44
Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc
bảo đảm quyền của người khuyết tật
Nguyễn Thu Trang*
Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
207 Giải Phóng, Đồng Tâm, Hai Bà Trưng, Hà Nội
Nhận ngày 12 tháng 01 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 02 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 04 tháng 03 năm 2019
Tóm tắt: Việt Nam và thế giới đang đứng trước bình minh của cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Một vấn đề đặt ra là cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động như thế nào đến
việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Bài viết này có mục đích giải quyết những vấn đề
sơ khai về tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo đảm quyền của
người khuyết tật. Theo đó, bài viết được chia thành bốn phần như sau: Phần thứ nhất trình
bày khái quát về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phần thứ hai trình bày khái quát về
quyền của người khuyết tật, phần thứ ba trình bày những tác động của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đối với việc bảo đảm quyền của người khuyết tật và phần thứ tư trình bày
các giải pháp nhằm bảo đảm quyền của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Trách nhiệm giải trình tư pháp; tư pháp, tòa án; thẩm phán; pháp luật quốc tế;
các quốc gia.
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp lần
thứ tư *
Hiện nay, lịch sử loài người đang ở trong
thời kỳ đầu của cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Theo PriceWater House Coopers, cách mạng
công nghiệp lần thứ tư tập trung đến số hoá (mã
hoá) tất cả các tài sản hữu hình và tích hợp
trong hệ thống kinh tế số (digital ecosystems)
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ Email: thutrang8861@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls. 4141
với các chuỗi giá trị [1, tr.6]. Theo Bộ Công
nghiệp Cộng hoà Indonesia, điểm mấu chốt
trong khái niệm công nghiệp 4.0 là nâng cao
hiệu quả sản xuất bằng việc sử dụng sự kết nối
và công nghệ thông tin (information &
communication technology) [2, tr.3]. Theo
Delloite, cách mạng công nghiệp 4.0 được dựa
trên nền tảng hệ thống kết nối không gian số -
thực thể (CPPS) [3, tr.3]. Bộ công nghiệp
Australia có một định nghĩa tương đối đầy đủ
về cách mạng công nghiệp 4.0 như sau:
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
45
“Tương tự như internet đã tạo ra giá trị vô
cùng to lớn bằng việc kết nối con người thực
tại, thì trong thời đại công nghiệp lần thứ tư, sẽ
có sự kết nối vật (Internet of Things), theo đó
các vật sẽ được kết nối với nhau. Hệ thống kết
nối không gian số - thực thể sẽ tạo ra sản xuất
thông minh, ở đó các sản phẩm trí tuệ, máy
móc, mạng lưới, hệ thống độc lập tương tác và
kết nối với nhau trên một quy trình sản xuất
thống nhất - giảm thiểu sự can thiệp của con
người.” [4, tr.6]
Có thể thấy rằng, các khái niệm về cách
mạng công nghiệp 4.0 có sự khác nhau về ngôn
ngữ diễn đạt. Tuy nhiên, về mặt nội dung các
khái niệm đều thể hiện rõ cách mạng công
nghiệp 4.0 được phát triển trên nền tảng số hoá
và kết nối.
Trước tiên, trong thời đại công nghiệp 4.0,
mọi thứ được mã hoá và kết nối với nhau
(digital transformation). Như vậy, các vật sẽ
được gắn chip và bộ cảm biến thông minh và
chúng được kết nối với nhau. Các thông tin của
các thực thể và con người đều được mã hoá và
đưa vào hệ thống chung. Theo nghiên cứu của
Price Water House Coopers thì số hoá (mã hoá)
mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp với kỳ
vọng là giảm 3,6% chi phí hoạt động và hiệu
quả tăng 4,1% [1, tr.13]. Hệ thống kết nối
không gian số - thực thể (CPPS) dẫn đến hình
thành mạng lưới sản xuất thông minh dọc (the
vertical networking of smart production
systems).
Trí tuệ nhân tạo dần dần được sử dụng để
thay thế con người trong các công việc ngày
càng phức tạp hơn. Với sự phát triển của trí tuệ
nhân tạo và robot, các công việc chân tay, thậm
chí cả công việc trí óc dần dần sẽ do robot đảm
nhiệm. Thực ra, hiện nay, chúng ta đã chứng
kiến những trí tuệ nhân tạo thế hệ đầu. Ở nhiều
nước đã có xe tự lái, trợ lí ảo, phần mềm dịch
thuật. Trí tuệ nhân tạo không chỉ giúp tạo ra
những phương tiện tự lái trong các nhà máy và
kho hàng, tiết kiệm thời gian và chi phí trong
chuỗi quản lí (SCM), làm tăng độ tin cậy của
sản phẩm, phân tích khối lượng dữ liệu khổng lồ
mà còn có thể giúp có nhiều giải pháp xây dựng
và thiết kế hoặc nâng cao hiệu quả hợp tác giữa
người và máy trong cung cấp dịch vụ [3, tr.8].
2. Khái quát về quyền của người khuyết tật
Theo con số của Bộ LĐ-TB&XH, tính đến
tháng 6-2015, Việt Nam có khoảng 7 triệu
người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số, người
khuyết tật đặc biệt nặng và nặng chiếm khoảng
28,9%, khoảng 58% người khuyết tật là nữ,
28,3% người khuyết tật là trẻ em, 10,2% người
khuyết tật là người cao tuổi, khoảng 10% người
khuyết tật thuộc hộ nghèo. Số liệu trên cho
chúng ta thấy người khuyết tật là một bộ phận
trong tổng dân số của Việt Nam.
Rõ ràng, những người có khiếm khuyết về
thể chất hoặc tinh thần luôn gặp khó khăn hơn
so với những người không khuyết tật trong cuộc
sống và công việc. Ví dụ, người bị liệt chân
phải ngồi xe lăn gặp khó khăn hơn so với người
không khuyết tật khi tham gia giao thông.
Những khiếm khuyết về y học của người
khuyết tật có thể được khắc phục bằng công
nghệ y học hiện đại, như máy trợ thính dành
cho người khiếm thính, chữ nổi dành cho người
khiếm thị, phương tiện dành cho người bị liệt
chân, chân giả, tay giả,...
Tuy nhiên, sự kỳ thị, thái độ thương hại, sự
thiếu tin tưởng của xã hội đối với người khuyết
tật mới là rào cản lớn đối với người khuyết tật.
Trong môi trường học tập, trẻ em bị khiếm
khuyết về trí tuệ khó có cơ hội tham gia học tập
tại các trường học dành cho trẻ em bình thường.
Theo một nghiên cứu thì những khó khăn mà
gia đình có trẻ khuyết tật phát triển gặp phải là:
khó khăn lớn nhất (chiếm 53.3% ý kiến trả lời)
mà cha mẹ gặp phải là “Tìm kiếm trường/trung
tâm có thể cho trẻ đi học”; Khó khăn thứ 2 mà
cha mẹ gặp phải (chiếm 45.7% ý kiến trả lời) là
“Tìm kiếm nhà chuyên môn giáo dục”; Khó
khăn thứ 3 (với 41% ý kiến trả lời) là “Tìm
kiếm các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của trẻ” và
khó khăn thứ 4 (với 24.8% ý kiến trả lời) là
“Tìm kiếm nhà chuyên môn về y tế, chăm sóc,
nuôi dưỡng” [5, tr.4]. Các nhà tuyển dụng cũng
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
46
dè dặt trong việc tuyển dụng người khuyết tật
vào làm việc.
Người khuyết tật cũng là con người, họ
không may mắn như những người bình thường,
vì lí do bẩm sinh, bệnh tật, tai nạn hay rủi ro
khác mà họ bị khiếm khuyết về thể chất hoặc
tinh thần. Vì vậy, sẽ thực sự vô lí và bất công
nếu như người khuyết tật bị cô lập trong xã hội
của loài người, bị phân biệt đối xử, phải chịu
cảnh nghèo đói Người khuyết tật là con
người nên họ phải được đối xử như một con
người bình thường với đầy đủ các quyền của
con người. Bên cạnh đó, họ cũng cần có cơ hội
gia nhập một cách trọn vẹn vào toàn bộ đời
sống, học tập, lao động của loài người. Có thể
thấy rằng triết lí của việc xây dựng các quy
định của pháp luật về quyền của người khuyết
tật là nhằm bảo đảm người khuyết tật được
đối xử theo đúng nghĩa là con người với đầy
đủ những quyền mà Hiến pháp và pháp luật
thừa nhận.
Vì lẽ đó, trước hết, khái niệm “người
khuyết tật” cần được xây dựng theo hướng chú
trọng vào những rào cản về thái độ và môi
trường xã hội đối với việc thực hiện quyền con
người [6, tr.13]. Như vậy, định nghĩa “người
khuyết tật” tối thiểu cần bao quát tất cả những
người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất hoặc
tinh thần. Đây là cách tiếp cận của Công ước
Liên Hợp quốc về quyền của người khuyết tật:
“Người khuyết tật bao gồm người bị khiếm
khuyết dài hạn về thể chất, tinh thần, tư duy
hoặc cảm giác và với sự tương tác với nhiều rào
cản có thể cản trở họ tham gia đầy đủ và hiệu
quả một cách bình đẳng với những người khác
trong xã hội.” (Điều 1 Công ước Liên Hợp quốc
về quyền của người khuyết tật). Điều 2.1 Luật
người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam định
nghĩa người khuyết tật: “Người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu
hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp khó khăn”. Về cơ bản, mặc dù
vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện nhưng bên
cạnh đó khái niệm người khuyết tật trong pháp
luật Việt Nam đã gần tương thích với cách tiếp
cận của quốc tế về người khuyết tật.
Quyền của người khuyết tật được chia
thành bốn nhóm quyền chính. Nhóm thứ nhất
các quyền cơ bản của con người, nhóm thứ hai
là quyền được đối xử bình đẳng và không phân
biệt đối xử vì lí do khuyết tật, nhóm thứ ba là
quyền tiếp cận và nhóm thứ tư là quyền được
hỗ trợ.
Nhóm thứ nhất, các quyền cơ bản của con
người. Vì người khuyết tật cũng là con người,
nên họ cũng có những quyền cơ bản của con
người như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc. Người khuyết tật là công dân
của một quốc gia thì cũng có các quyền công
dân như quyền bầu cử, quyền ứng cử và các
quyền khác. Người khuyết tật cũng có quyền tự
do kinh doanh, quyền có việc làm và các quyền
khác như những người không khuyết tật.
Nhóm thứ hai, quyền được đối xử bình
đẳng và không phân biệt đối xử vì lí do khuyết
tật. Điều 5.2 Công ước Liên Hợp quốc về quyền
của người khuyết tật quy định: “Quốc gia thành
viên phải cấm mọi sự phân biệt đối xử trên cơ
sở khuyết tật và bảo đảm người khuyết tật có
công cụ pháp lí hiệu quả chống lại sự phân biệt
đối xử dựa trên bất kỳ cơ sở nào.” Như vậy,
người khuyết tật được bảo vệ chống sự phân
biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật. Có hai hình
thức phân biệt đối xử: phân biệt đối xử trực tiếp
hoặc phân biệt đối xử gián tiếp. Phân biệt đối
xử trực tiếp là trường hợp người khuyết tật
được đối xử kém thuận lợi hơn người không
khuyết tật trong khi đó phân biệt đối xử gián
tiếp liên quan đến các chính sách hoặc hành vi
áp đặt những yêu cầu bất hợp lí lên người
khuyết tật [7, tr.80-81]. Ví dụ, việc yêu cầu tất
cả những người lao động phải có khả năng sử
dụng điện thoại là phân biệt đối xử dù người sử
dụng lao động không cố ý phân biệt đối xử trừ
khi người sử dụng lao động chỉ ra rằng bản chất
của công việc đòi hỏi tất cả người lao động phải
có khả năng sử dụng điện thoại, ví dụ kinh
doanh bán hàng qua điện thoại [8, tr.23-24].
Pháp luật Việt Nam cũng cấm kỳ thị và phân
biệt đối xử đối với người khuyết tật. Như vậy,
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều cấm
phân biệt đối xử với người khuyết tật.
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
47
Nhóm thứ ba, quyền tiếp cận. Quyền tiếp
cận của người khuyết tật được hiểu là quyền
được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng dịch vụ xã
hội, tham gia vào các hoạt động xã hội, thực
hiện các quyền một cách bình đẳng với người
không khuyết tật phù hợp với dạng khuyết tật.
Người khuyết tật có đầy đủ các quyền con
người và quyền công dân như một người không
khuyết tật. Tuy nhiên, do khiếm khuyết về thể
chất hoặc tinh thần nên họ không có khả năng
thực hiện các quyền này một cách đầy đủ như
người bình thường. Ví dụ, trẻ em khiếm thính
không thể ngồi nghe giảng trên lớp học bình
thường nếu không có phương tiện hỗ trợVì
vậy, quyền tiếp cận là điều kiện tiên quyết để
người khuyết tật sống tự lập và tham gia đầy đủ
và bình đẳng trong xã hội. Trước hết, người
khuyết tật có nhu cầu tiếp cận môi trường sống,
học tập, lao động thực tế của xã hội, được tham
gia giao thông, được tiếp cận thông tin, được
giao tiếp, được cống hiến cho xã hội, được
tham gia các hoạt động xã hội, được sử dụng
các dịch vụ xã hội và được sử dụng các cơ sở
hạ tầng, phương tiện công cộng và các tiện tích
công cộng khác trong xã hội một cách đầy đủ
và bình đẳng như người không khuyết tật.
Nhưng vì họ không có khả năng tiếp cận những
thứ đó một cách đầy đủ và bình đẳng như người
không khuyết tật. Nên nếu không thừa nhận
những nhu cầu đó thành quyền của người
khuyết tật thì mọi quy định về quyền của người
khuyết tật chỉ mang ý nghĩa lí thuyết mà không
có tính thực tế. Vì lẽ đó, pháp luật cần thừa
nhận đây là quyền của người khuyết tật và
tương ứng với nó là nghĩa vụ của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân cần phải bảo đảm quyền tiếp cận
của người khuyết tật.
Nhóm thứ tư, quyền được hỗ trợ. Do người
khuyết tật thiệt thòi hơn người không khuyết tật
trong học tập, lao động và sinh hoạt vì vậy họ
cần được Nhà nước cho hưởng những ưu đãi
nhất định nhằm giảm bớt những khó khăn mà
họ phải gánh chịu do sự khiếm khuyết về thể
chất hoặc tinh thần. Chính sách hỗ trợ cho
người khuyết tật sẽ phụ thuộc vào mỗi quốc gia.
Ví dụ, người khuyết tật có thể được miễn, giảm
các loại thuế, phí và nghĩa vụ tài chính khác;
người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt
nặng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
Đây là những hỗ trợ trực tiếp dành cho người
khuyết tật. Bên cạnh đó, các quốc gia còn có thể
phát triển các chính sách hỗ trợ gián tiếp cho
người khuyết tật. Ví dụ chính sách ưu đãi thuế
và nghĩa vụ tài chính khác cho các doanh
nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật
nhằm tạo điều kiện để người khuyết tật có việc
làm nuôi sống bản thân và gia đình. Các sản
phẩm sản xuất dành riêng cho người khuyết tật
như xe lăn, máy trợ thính cũng được hưởng
ưu đãi thuế.
3. Tác động (tích cực, tiêu cực) của cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đến việc bảo
đảm quyền của người khuyết tật
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nền
tảng là công nghệ số và internet of things đã
xoá nhoà khoảng cách về không gian và thời
gian và người hưởng lợi lớn nhất từ cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư chính là người tiêu
dùng. “Chúng ta có thể đặt taxi, vé máy bay,
mua sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem
phim hoặc chơi game từ khoảng cách xa.”[9,
tr.3]. Chúng ta có thể thấy Uber hay Grab là
những ví dụ điển hình của vai trò của công nghệ
đối với tiêu dùng. Ngày nay, sinh viên hay các
nhà khoa học đang dần dần không phải đến thư
viện để tìm sách, thư viện số đã giúp họ có thể
tiếp cận và đọc tài liệu ở bất kỳ đâu. Trong giáo
dục, Topica là một ví dụ điển hình của việc ứng
dụng công nghệ trong giáo dục và đào tạo.
Người học không cần phải đến lớp mà có thể
đăng ký học online tại bất kỳ thời điểm nào,
không gian nào. Như vậy, tác động đầu tiên của
thế giới số là người tiêu dùng có thể đặt mua, sử
dụng sản phẩm, dịch vụ ở bất kỳ đâu. Vì vậy,
khoảng cách và đi lại không còn là trở ngại đối
với việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ. Điều này
mang những tín hiệu vui cho người khuyết tật.
Họ chỉ cần ngồi nhà hay ở bất kỳ đâu mà vẫn có
thể tham gia học tập, nghiên cứu, đặt mua hàng
và sử dụng dịch vụ.
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
48
Kỷ nguyên số dẫn đến số hoá tất cả các
doanh nghiệp. Việc sử dụng các thiết bị thông
minh, internet of things, cùng với hệ thống
thông tin được mã hoá và kết nối toàn diện dẫn
đến việc sử dụng lao động cũng thay đổi. Người
lao động có thể làm việc cho nhiều doanh
nghiệp ở những nơi khác nhau. Văn phòng thực
không phải là một vấn đề quan trọng. Việc quản
lí, điều hành, trao đổi công việc, trả kết quả
công việc, tiếp khách hàng có thể được thực
hiện trên môi trường số mà không nhất thiết
phải có gặp gỡ mặt đối mặt (face to face).
Thanh toán cũng được thực hiện hoàn toàn qua
mạng internet. Đây cũng là một tín hiệu vui cho
những người khuyết tật có bất lợi trong việc di
chuyển, đi lại. Họ hoàn toàn có thể ở nhà hoặc
ở đâu đó mà vẫn làm việc và có thu nhập.
Như vậy, kỷ nguyên số sẽ giúp xoá nhoà
những trở ngại về khả năng di chuyển của
người khuyết tật bị hạn chế về khả năng đi lại.
Những người này hoàn toàn có thể quản lí, điều
hành, làm việc, tiêu dùng mà không phải đi lại.
Có thể thấy rằng, quyền tiếp cận, quyền lao
động, quyền tự do kinh doanh của người khuyết
tật sẽ được bảo đảm tốt hơn trong thời đại công
nghiệp 4.0 khi mà những cản trở về mặt thể
chất không còn ý nghĩa trong thế giới ảo.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự
phát triển của các thế hệ robot mới có khả năng
thay thế con người cho các hoạt động từ đơn
giản đến phức tạp. Như vậy, công nghệ hỗ trợ
tối đa cho con người trong học tập, lao động và
sinh hoạt. Vì vậy, những khó khăn của người
khuyết tật có thể được khắc phục và giải quyết
một cách dễ dàng. Ví dụ, với xe tự lái, người
khuyết tật có khả năng di chuyển bằng phương
tiện này mà không cần thiết phải sử dụng chân,
tay điều khiển. Người khuyết tật nặng hoặc đặc
biệt nặng có thể được chăm sóc y tế bởi những
robot y tế thông minh qua đó làm giảm chi phí
nhân lực trong chăm sóc y tế cho người khuyết
tật và cũng giảm gánh nặng cho người thân
thích của người khuyết tật.
Nói tóm lại, cách mạnh công nghiệp lần thứ
tư tăng cơ hội để cho người khuyết tật thực hiện
được quyền học tập, quyền lao động, quyền
kinh doanh và các quyền khác một cách bình
đẳng với người không khuyết tật. Tuy nhiên,
bên cạnh những tác động tích cực, cách mạng
công nghiệp lần thứ tư cũng mang đến những
thách thức không nhỏ cho người khuyết tật.
Thứ nhất, không phải tất cả những người
khuyết tật cũng đều có khả năng thụ hưởng
những lợi ích mà cách mạng công nghiệp 4.0
mang lại. Một điều khó có thể phủ định là tỷ lệ
người khuyết tật sống trong cảnh nghèo đói,
thất nghiệp cao hơn so với người không khuyết
tật. Một nghiên cứu cho thấy:
“Khoảng 20% người khuyết tật trong độ
tuổi lao động (18 đến 60 tuổi) không làm việc.
Lý do chính khiến người khuyết tật không làm
việc là do sức khỏe kém vì lý do khuyết tật... Ở
cấp độ gia đình, thu nhập hộ có quan hệ tỷ lệ
nghịch với mức độ khuyết tật. Người khuyết tật
thường thuộc những hộ nghèo hơn so với người
không khuyết tật.” [10, tr.8]
Rõ ràng, có một tỷ lệ không nhỏ người
khuyết tật khó khăn trong việc tiếp cận và thụ
hưởng những lợi ích của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Đương nhiên, nhóm người này
khó có thể tự mình bảo đảm được những quyền
của người khuyết tật mà pháp luật đã ghi nhận.
Với sự cô lập khỏi thế giới số, những người này
vẫn tiếp tục sống trong tình trạng nghèo đói, thất
nghiệp, bị kỳ thị, phân biệt đối xử.
Thứ hai, cách mạng công nghiệp 4.0 làm
thay đổi cấu trúc quan hệ lao động theo hướng
quyền của người lao động bị suy giảm. Như
trên đã phân tích, việc thuận tiện trong việc tiếp
cận, xử lí thông tin làm cho cơ hội các công ty
tìm kiếm được các ứng viên làm việc bán thời
gian tăng lên. Việc sử dụng không gian ảo
khiến cho các công ty không còn nhiều nhu cầu
sử dụng lao động dài hạn. Các quan hệ lao động
ngắn hạn trở lên phổ biến ở nhiều nước. Những
quyền, lợi ích của một người lao động dài hạn
không còn được chú trọng. “Trong xu hướng
đó, công đoàn, thoả ước lao động tập thể sẽ
ngày càng mờ nhạt vai trò: khó mà thiết lập
những thiết chế này khi mà lực lượng lao động
ngắn hạn và luôn thay đổi, hơn nữa, người lao
động phải cạnh tranh với máy móc.” [11, tr.5].
Như vậy, với xu hướng hợp đồng ngắn hạn
được ưa chuộng, quan hệ lao động truyền thống
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
49
bị phá vỡ. Các quy định có lợi cho người lao
động nói chung và người lao động khuyết tật
nói riêng khó có khả năng phát huy tác dụng.
Bởi vì, với các hợp đồng ngắn hạn, có tính chất
khoán việc, các bên sẽ tránh việc áp dụng Bộ
luật lao động, thay vào đó các quy định của Bộ
luật dân sự sẽ được các bên lựa chọn. Như vậy,
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động
nói chung và người lao động khuyết tật nói
riêng không còn được bảo đảm bởi các quy
định khắt khe của luật lao động.
Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 với quá
trình tự động hoá và robot thay thế con người
diễn ra nhanh chóng sẽ dẫn đến thay đổi cơ cấu
lao động. Nhiều vị trí công việc có nguy cơ bị
đe doạ thay thế bởi robot và trí tuệ nhân tạo.
“Theo các phân tích của Đại học Oxford và
Ngân hàng Thế giới, 35% việc làm ở UK sẽ
được thay thế bởi tự động hoá; ở nước OECD,
57% việc làm bị đe doạ, ở Trung Quốc, tỷ lệ
việc làm bị đe doạ là 77% và Ethiopia là 85%.
Điều này sẽ xảy ra nhanh chóng: theo báo cáo
gần đây của công ty nghiên cứu thị trường
company Forrester thì đến năm 2021, 6% việc
làm ở Hoa Kỳ được tự động hoá.” [11, tr.6].
Đây là thực tế sẽ xảy ra không xa. Như vậy,
một số lượng rất lớn người lao động bị mất việc
làm. Vậy những người khuyết tật thì sao?
Đương nhiên, những người lao động khuyết tật
cũng sẽ bị mất việc làm trong xu thế chung của
toàn cầu. Như vậy, quyền có việc làm của con
người nói chung và người khuyết tật nói riêng
bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Có thể dự đoán hệ quả của
cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc bảo đảm
quyền lao động, quyền bình đẳng và không
phân biệt đối xử của người khuyết tật như sau:
Một là, những người có khiếm khuyết về
tinh thần có nguy cơ mất việc làm và không có
việc làm cao nhất. Trong thời đại công nghệ số,
đòi hỏi lao động phải có trình độ cao, sự khiếm
khuyết về tinh thần có thể sẽ là những lí do để
người sử dụng lao động từ chối tuyển dụng
hoặc chấm dứt quan hệ lao động với người
khuyết tật.
Hai là, những người khuyết tật về thể chất
nhưng không có trình độ chuyên môn cao cũng
có nguy cơ mất việc làm. Sự thay đổi của công
nghệ, dẫn đến nhu cầu lao động giản đơn hoặc
trung cấp giảm đi.
Như vậy, người có khiếm khuyết về tinh
thần và người khuyết tật không có trình độ
chuyên môn cao là hai nhóm đối tượng có nguy
cơ chịu ảnh hưởng tiêu cực của cách mạng công
nghiệp 4.0 nhất. Họ sẽ phải đối mặt với những
hình thức phân biệt đối xử mới phù hợp với sự
phát triển của công nghiệp 4.0. Đặc biệt sự
phân biệt đối xử được bao bọc bởi những yếu tố
như “tính chất của công việc” đòi hỏi phải có
trình độ chuyên môn phù hợp. Bên cạnh đó, họ
cũng sẽ phải đối mặt với những cuộc chiến
pháp lí liên quan đến việc cho thôi việc hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động hàng loạt. Hơn
nữa, với xu thế ký hợp đồng ngắn hạn mang
tính chất khoán việc, các hợp đồng này có tính
chất của một hợp đồng dân sự thông thường mà
không phải là hợp đồng lao động. Vì vậy các
quy định khắt khe về các trường hợp sa thải,
chấm dứt hợp đồng lao động không được áp
dụng đối với các quan hệ hợp đồng này, điều
này càng giúp cho việc chấm dứt hợp đồng trở
nên dễ dàng hơn.
4. Các giải pháp bảo đảm quyền của người
khuyết tật trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam
Những phân tích trên cho thấy, cách mạng
công nghiệp 4.0 góp phần nâng cao khả năng
bảo đảm quyền của người khuyết tật nhưng
cũng đồng thời hình thành những nguy cơ ảnh
hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm quyền của
người khuyết tật. Để hạn chế những ảnh tiêu
cực của cách mạng công nghiệp 4.0 đối với việc
bảo đảm quyền của người khuyết tật, chúng tôi
đề xuất các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện các quy
định pháp luật về quyền của người khuyết tật.
Để bảo đảm quyền của người khuyết tật, trước
tiên, các quy định của pháp luật về quyền của
người khuyết tật cần tiếp tục được hoàn thiện.
Hiện nay, các quy định pháp luật về quyền của
người khuyết tật đã được thể hiện trong Luật
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
50
người khuyết tật năm 2010 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, nhiều quy định
còn khá chung chung, chưa cụ thể. Vì vậy,
chúng tôi đề xuất các quy định về quyền của
người khuyết tật cần tiếp tục được hoàn thiện
theo hướng sau:
Cần có hướng dẫn, giải thích cụ thể về phân
biệt đối xử vì lí do khuyết tật. Quy định về
chống phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật có thể
được hướng dẫn bởi một văn bản quy phạm
dưới luật hoặc giải thích bởi án lệ của toà án.
Theo chúng tôi, phân biệt đối xử vì lí do khuyết
tật là dành cho người khuyết tật sự đối xử kém
thuận lợi hơn so với người không khuyết tật
hoặc áp đặt những điều kiện bất hợp lí làm cho
người khuyết thật không thể thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình. Với cách giải thích này, quy
định chống phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật
có thể bao quát cả trường hợp lạm dụng công
nghệ để đối xử kém thuận lợi hơn cho người
khuyết tật, hoặc tạo ra các rào cản bất hợp lí
làm cho người khuyết tật không thể thực hiện
được quyền hoặc nghĩa vụ của mình. Ví dụ,
trong công ty có người khuyết tật bị mất cả hai
tay, cửa ra vào sử dụng hệ thống nhận dạng vân
tay mà không có hệ thống thay thế dành riêng
cho người lao động khuyết tật bị mất cả hai tay
là phân biệt đối xử.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định về quyền
tiếp cận của người khuyết tật trong thời kỳ công
nghiệp 4.0. Theo đó hệ thống internet of things
và công nghệ số cần bảo đảm khả năng tiếp cận,
tham gia, sử dụng hệ thống internet of things,
tiếp cận và xử lí thông tin. Nhà nước cần có
chính sách khuyến khích sản xuất các thiết bị
thông minh dành riêng cho người khuyết tật các
dạng. Các chính sách khuyến khích bao gồm
miễn, giảm thuế. Ngoài ra các doanh nghiệp sản
xuất thiết bị thông minh dành riêng cho người
khuyết tật đạt một số lượng hoặc tỷ lệ nhất định
còn được xem xét miễn, giảm thuế tương ứng
đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh
khác. Các quy định bảo đảm quyền tiếp cận của
người khuyết tật trong thời đại công nghiệp 4.0
giúp cho người khuyết tật theo kịp với sự phát
triển của thời đại, gia nhập vào thế giới số một
cách bình đẳng và đầy đủ như người không
khuyết tật.
Nhà nước cần luật hoá nhu cầu sử dụng trợ
giúp pháp lí của người khuyết tật thành quyền
tiếp cận trợ giúp pháp lí của người khuyết tật.
Trừ những người khuyết tật có điều kiện kinh tế
có khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lí của
luật sư, những người khuyết tật còn lại gặp khó
khăn trong việc tiếp cận các hỗ trợ pháp lí. Do
đó, việc ghi nhận trong luật quyền tiếp cận trợ
giúp pháp lí của người khuyết tật là rất cần
thiết. Để quyền này có thể được thực hiện trên
thực tế, cần thiết lập các trung tâm hỗ trợ pháp
lí cho người khuyết tật tại các hiệp hội hoặc tổ
chức của người khuyết tật, sở tư pháp các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương cũng cần giao
nhiệm vụ trợ giúp pháp lí cho người khuyết tật
cho đơn vị trợ giúp pháp lí. Bên cạnh đó, các cơ
sở đào tạo luật cần được khuyến khích thành
lập trung tâm trợ giúp pháp lí trong đó có phòng
trợ giúp pháp lí cho người khuyết tật. Người
khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt
nặng và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được trợ
giúp pháp lí miễn phí. Kinh phí phục vụ cho
hoạt động của các trung tâm này cần được huy
động từ các nguồn tài trợ của xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định của pháp
luật lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động khuyết tật. Như phần trên đã
phân tích, các thiết chế như công đoàn, thoả
ước lao động tập thể, hợp đồng lao động dài
hạn không còn là công cụ hữu hiệu bảo vệ
quyền và lợi ích của người lao động nói chung
và người lao động khuyết tật nói riêng. Vì vậy,
nếu các quy định của pháp luật lao động không
thay đổi để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
mới thì pháp luật lao động sẽ không còn là công
cụ hữu hiệu để bảo vệ người lao động. Chúng
tôi đề xuất phương án:
- Thay vì chú trọng vào công đoàn cấp cơ
sở, pháp luật lao động cần chú trọng đến vai trò
của công đoàn địa phương hoặc công đoàn
ngành trong việc bảo vệ người lao động. Như
vậy, người lao động có thể gia nhập công đoàn
địa phương hoặc công đoàn ngành để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
51
- Cần đa dạng hoá các loại hợp đồng lao
động, với các thoả thuận linh hoạt về thời hạn
hợp đồng, công việc, thời giờ làm việc... Pháp
luật không nên hạn chế quyền thoả thuận về
thời hạn hợp đồng, phạm vi công việc, thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các trường hợp
chấm dứt hợp đồng lao động và các nội dung
khác. Tuy nhiên các quyền lợi cơ bản của người
lao động cần được bảo đảm. Để tránh việc
người sử dụng lao động lẩn tránh pháp luật
bằng cách áp dụng các quy định của Bộ luật dân
sự đối với các hợp đồng làm việc ngắn hạn,
pháp luật cần ghi nhận người lao động có quyền
lựa chọn luật áp dụng là Bộ luật lao động hay
Bộ luật dân sự.
Thứ ba, thực hiện chính sách giáo dục trọn
đời cho người khuyết tật. Cách mạng công
nghiệp 4.0 dẫn đến sự thay đổi cơ cấu lao động
trong xã hội, nhiều ngành nghề mất đi nhưng lại
có những ngành nghề mới xuất hiện [12, tr.5].
Như vậy, người khuyết tật cũng phải sẵn sàng
với những thay đổi này. Nhà nước và xã hội cần
có chiến lược đào tạo suốt đời. Các chương
trình đào tạo cần thay đổi theo hướng, người
khuyết tật có thể tiếp cận với những cái mới và
có khả năng học tập lâu dài. Quyền học tập suốt
đời của người khuyết tật cần được bảo đảm trên
thực tiễn mà không phục thuộc vào khuyết tật,
tuổi tác. Các trường Đại học, các cơ sở dạy
nghề cần đi tiên phong trong việc đào tạo suốt
đời cho người lao động và có những chính sách
ưu đãi, khuyến khích người khuyết tật tham gia
học tập. Đương nhiên, các cơ sở đào tạo, cơ sở
dạy nghề cung cấp dịch vụ đào tạo thường
xuyên cho người khuyết tật sẽ được hưởng
những chính sách ưu đãi nhất định từ Nhà nước.
Ví dụ, các chính sách hỗ trợ tài chính, chính
sách ưu đãi về thuế, phí đối với các hoạt động
phải chịu thuế, phí. Học tập suốt đời giúp cho
người khuyết tật luôn cập nhật kiến thức mới,
bảo đảm khả năng gia nhập và thực hiện các
quyền trên thực tế. Điều này hoàn toàn đúng
trong thời đại công nghiệp 4.0. Khi mà nhu cầu
lao động có kĩ năng cao cấp tăng trong khi đó
nhu cầu lao động có kĩ năng thấp, không qua
đào tạo giảm. [9, tr.4]
Thứ tư, nâng cao năng lực của các tổ chức,
hiệp hội của người khuyết tật trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật.
Vai trò của các tổ chức, hiệp hội của người
khuyết tật là rất quan trọng trong việc bảo vệ
nhóm người khuyết tật yếu thế khỏi những hành
vi xâm phạm, lạm dụng của các chủ thể khác
trong xã hội. Vì vậy, các tổ chức, hiệp hội này
cần có quyền yêu cầu chấm dứt vi phạm, khiếu
nại, tố cáo, khởi kiện các chủ thể có hành vi
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
khuyết tật nói chung. Các tổ chức, hiệp hội của
người khuyết tật cần có quyền nhân danh cá
nhân người khuyết tật yêu cầu các cá nhân, tổ
chức xâm phạm quyền của người khuyết tật
chấm dứt hành vi vi phạm. Các tổ chức, hiệp
hội của người khuyết tật cũng cần có quyền
nhân danh cá nhân người khuyết tật khởi kiện,
khiếu nại hoặc yêu cầu các cơ quan nhà nước,
tổ chức có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người khuyết tật.
5. Kết luận
Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cơ
hội lớn để người khuyết tật thực hiện được
quyền của người khuyết tật trên thực tế khi mà
các rào cản về thể chất bị xoá nhoà. Tuy nhiên,
cách mạng công nghiệp 4.0 cũng gây ra những
thách thức nhất định đối với người khuyết tật.
Những thách thức xuất phát từ sự thay đổi của
cách thức sản xuất, kinh doanh. Một số lượng
không nhỏ người khuyết tật có nguy cơ bị bỏ lại
phía sau, đồng thời một lực lượng lớn người
khuyết tật có thể mất việc làm hoặc phải thay
đổi việc làm do có sự thay thế bởi trí tuệ nhân
tạo và robot. Vì vậy, quyền của người khuyết
tật bị ảnh hưởng đáng kể. Để bảo đảm quyền
của người khuyết tật trong thời đại công nghiệp
4.0 cần thực hiện các giải pháp sau: (1) cần tiếp
tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quyền của người khuyết tật; (2) tiếp tục hoàn
thiện các quy định của pháp luật lao động; (3)
thực hiện chính sách học tập trọn đời; và (4)
nâng cao vai trò của các tổ chức, hiệp hội của
người khuyết tật.
N.T. Trang / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 1 (2019) 43-52
52
Tài liệu tham khảo
[1] [PWC (2016), 2016 Global Industry 4.0 Survey,
Industry 4.0: Building the digital enterprise,
www.pwc.com/industry40;
[2] Ministry of Industry of Republic of Indonesia
(2017), Chances and Challenges of Industry 4.0
Workforce;
[3] Delloite (2015), Industry 4.0 Challenges and
solutions for the digital transformation and use of
exponential technologies;
[4] Prime Minister’s Industry 4.0 Taskforce (2017),
Industry 4.0 Testlabs in Australia Preparing for
the Future, Australian Government, Swinburne
Research;
[5] Đỗ Hạnh Nga (2011), Những khó khăn của gia
đình có trẻ khuyết tật phát triển và nhu cầu của họ
đối với dịch vụ xã hội, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học
Công tác xã hội-kết nối và chia sẻ, Trường Đại
học KHXH&NV TpHCM tổ chức, 11/11/2011;
[6] United Nations, From Exclusion to Equality -
Realizing the rights of persons with disabilities,
Handbook for Parliamentarians on the Convention
on the Rights of Persons with Disabilities and Its
Optional Protocol, No. 14 - 2007;
[7] Lelia Helms (2010), Disability Litigation and
Universities in Universities in Australia and the
United States: A Comparative Perspective,
International Journal of Law & Education, 1836-
9030 Vol 15, No 1, 2010, pp. 79-107;
[8] Bonnie Poitras Tucker (1995), The Disability
Discrimination Act: Ensuring Rights of
Australians With Disabilities, Particularly
Hearing Impairments, Monash University Law
Review [Vol 21, No 1 '95] ;
[9] Klaus Schwab, The Fourth Industrial Revolution:
what it means and how to respond, World
Economic Forum,
https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-
fourth-industrial-revolution-what-it-means-and-
how-to-respond;
[10] Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (2013), Chi phí
kinh tế của sống với khuyết tật và kỳ thị ở Việt
Nam, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội;
[11] Sherif Elsayed-Ali (2016), Our human rights
need to adapt, and fast, if they're to keep up
with technology, World Economic Forum,
https://www.weforum.org/agenda/2016/12/five
-ways-technology-is-shaping-the-future-of-
human-rights;
[12] Meg Whitman (2017), The case for optimism as
we face a daunting wave of technological change,
https://www.weforum.org/agenda/2017/01/case-
for-optimism-tech-change.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4141_85_8057_1_10_20190324_8875_2124697.pdf