Tài liệu Suy giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 54
SUY GIẢM NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
CÓ BIẾN CHỨNG THẬN
Võ Thành Nam*, Trần Công Thắng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh thận mạn do đái tháo đường không những là một bệnh lý nghiêm trọng, mà còn là yếu tố
nguy cơ gây suy giảm nhận thức, do não và thận có nhiều đặc điểm chung về mặt giải phẫu, nơi dễ bị tổn thương
do tình trạng rối loạn chuyển hóa đường huyết.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy giảm nhận thức, mô tả đặc điểm, và khảo sát các yếu tố liên quan của suy giảm
nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên đối tượng đái tháo đường típ 2
có biến chứng thận tại Bệnh viện An Bình.
Kết quả: Trong 100 người có bệnh thận mạn do đái tháo đường típ 2 được nghiên cứu, có 61% bệnh nhân
có suy giảm nhận thức qua bài đánh giá nhận thức. Trong đó, tỷ lệ sa sút trí tuệ chiếm tỉ lệ cao v...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 54
SUY GIẢM NHẬN THỨC TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
CÓ BIẾN CHỨNG THẬN
Võ Thành Nam*, Trần Công Thắng**
TÓM TẮT
Mở đầu: Bệnh thận mạn do đái tháo đường không những là một bệnh lý nghiêm trọng, mà còn là yếu tố
nguy cơ gây suy giảm nhận thức, do não và thận có nhiều đặc điểm chung về mặt giải phẫu, nơi dễ bị tổn thương
do tình trạng rối loạn chuyển hóa đường huyết.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy giảm nhận thức, mô tả đặc điểm, và khảo sát các yếu tố liên quan của suy giảm
nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên đối tượng đái tháo đường típ 2
có biến chứng thận tại Bệnh viện An Bình.
Kết quả: Trong 100 người có bệnh thận mạn do đái tháo đường típ 2 được nghiên cứu, có 61% bệnh nhân
có suy giảm nhận thức qua bài đánh giá nhận thức. Trong đó, tỷ lệ sa sút trí tuệ chiếm tỉ lệ cao với 68,9% và suy
giảm nhận thức nhẹ chiếm 31,1%. Loại chức năng nhận thức bị suy giảm là chức năng điều hành và thị giác
không gian, sự trừu tượng, sự chú ý, ngôn ngữ, và nhớ lại có trì hoãn. Bệnh nhân có bệnh thân mạn do đái tháo
đường đến giai đoạn điều trị insulin có nguy cơ suy giảm nhận thức với OR = 1,5.
Kết luận: Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận, gần hai phần ba dân số được phát hiện có
suy giảm nhận thức.
Từ khoá: đái tháo đường, suy giảm nhận thức, sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức nhẹ, đái tháo đường có
biến chứng thận
ABSTRACT
COGNITIVE ASSESSMENT IN PATIENTS WITH DIABETIC NEPHROPATHY
Vo Thanh Nam, Tran Cong Thang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 1- 2019: 54 - 58
Backgrounds: Diabetic nephropathy is not only a serious disease but also a risk factor of cognitive
impairment, because of the commonality of anatomy between brain and kidney, where are vulnerable due
to glucose metabolism disorders.
Objective: Estimate the prevalence, describe features and investigate related factors of cognitive impairment
in patients with diabetic nephropathy.
Methods: Cross-sectional study on patients with diabetic nerphropathy at An Binh hospital.
Results: In 100 patients with diabetic kidney disease, 61% have cognitive impairment. In the cognitive
decline population, dementia prevalence was high with 68.9%, mild cognitive impairment prevalence was 31.1%.
Cognitive domains effected were executive and visuospatial functions, abstraction, attention, language, and
delayed recall. Patients with insulin treatment are associated with an increased risk of cognitive impairment.
Conclusions: In patients with diabetic nerphropathy, approximately two-third of patients had impaired
cognitive function.
Keywords: diabetes, cognitive impairment, dementia, mild cognitive impairment, diabetic nephropathy
*Khoa Nội Thần Kinh, Bệnh viện An Bình **Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Võ Thành Nam ĐT: 0779148704 Email: vothanhnam268@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 55
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy giảm nhận thức (SGNT) được định
nghĩa là sự thoái hoá thần kinh mắc phải về khả
năng nhận thức có thể làm ảnh hưởng tới hoạt
động sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, gần đây
thuật ngữ suy giảm nhận thức nhẹ (SGNTN)
cũng được sử dụng rộng rãi hơn để mô tả sự suy
giảm chức năng nhận thức chưa đủ tiêu chuẩn
chẩn đoán sa sút trí tuệ nhưng làm thay đổi
nhận thức đủ để nhận ra hoặc đo lường được(9).
Suy giảm nhận thức nhẹ tăng nguy cơ tiến triển
thành sa sút trí tuệ khoảng 10% mỗi năm. Đái
tháo đường (ĐTĐ) đã được chứng minh là một
yếu tố nguy cơ độc lập của sa sút trí tuệ (SSTT)
và suy giảm nhận thức nhẹ (SGNTN)(2,3,5). Não
và thận được cho là có liên quan với nhau qua
nhiều cơ chế, và một trong các cơ chế có thể do
sự giống nhau về mặt huyết động học của
giường mao mạch và giải phẫu bệnh học xuất
hiện ở các mạch máu nhỏ ở cả hai cơ quan(8).
Tình trạng tăng đường huyết gây rối loạn các vi
mạch máu thông qua ảnh hưởng chức năng của
tế bào nội mạc, là hậu quả của sự viêm vi mạch
và các chất oxy hoá, làm giảm độ lọc cầu thận
hay gây tiểu albumin niệu, tương tự ảnh hưởng
lên các mạch máu não nhỏ ở não, có thể dẫn tới
suy giảm nhận thức(6). Tại Việt Nam, nghiên cứu
của Vũ Anh Nhị và Tống Mai Trang cho thấy tỉ
lệ suy giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo
đường trong bệnh viện lên tới 65,8%(10). Và vẫn
chưa có nghiên cứu nào về tỷ lệ và đặc điểm suy
giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường
típ 2 có biến chứng thận tại Việt Nam. Vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm xác định
tỷ lệ, mô tả các đặc điểm, và khảo sát các yếu tố
liên quan của suy giảm nhận thức trên dân số
đái tháo đường típ 2 có biến chứng thận.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả,
chúng tôi liên tục thu nhận các bệnh nhân đái
tháo đường típ 2 thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh và
không có tiêu chuẩn loại trừ nhập khoa Nội Tiết
Bệnh viện An Bình từ tháng 01 năm 2018 tới
tháng 5 năm 2018.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân (BN) được chẩn đoán biến chứng
thận do đái tháo đường típ 2 thoả tiêu chuẩn của
Hiệp hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ (ADA)(1).
Tiêu chuẩn loại trừ
Các BN có bệnh thận không phải do
nguyên nhân đái tháo đường típ 2; BN có tiền
căn tổn thương não như đột quỵ não, u não,
viêm não, chấn thương đầu gây máu tụ, xuất
huyết do chấn thương; BN đã được chẩn đoán
và hoặc điều trị sa sút trí tuệ trước đó; BN
đang bị rối loạn sự thức tỉnh bị loại ra khỏi
nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Sử dụng công thức tính dùng để ước tính
một tỷ lệ:
= Z /
p(1 − p)
d
Trong đó: n là cỡ mẫu tối thiểu cần thiết; Z2(1-α/2): hệ số tin
cậy với Z2(1-α/2 = 1,962 tương ứng với α = 0,05 (KTC 95%);
d là khoảng khác biệt tối thiểu của các tỷ lệ ước lượng; p là
tỷ lệ dự kiến trước trong quần thể theo hồi cứu y văn. Theo
nghiên cứu của tác giả Tống Mai Trang và cộng sự, tỷ lệ
suy giảm nhận thức trên bệnh nhân đái tháo đường là
65,89%, chọn d = 0,1. Như vậy cỡ mẫu tối thiểu ước tính là
100 bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có biến
chứng thận thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu và không
có tiêu chuẩn loại trừ sẽ được thu thập các chỉ số
nhân trắc, sau đó được tiến hành đánh giá chức
năng nhận thức bằng bài đánh giá MoCA, và
đánh giá hoạt động sống hàng ngày bằng thang
điểm IADL rút gọn.
Đái tháo đường: BN đã có tiền sử bệnh được
chẩn đoán đái tháo đường hoặc đang dùng
thuốc hạ đường huyết (uống hoặc chích).
Biến chứng thận do đái tháo đường được
chẩn đoán lâm sàng dựa trên sự xuất hiện của vi
đạm niệu, hoặc đạm niệu đại thể và hoặc giảm
độ lọc cầu thận và không có các triệu chứng cơ
năng và thực thể của các nguyên nhân gây tổn
thương thận khác(1).
Biến chứng mạch máu khác ngoài thận: chia
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 56
ra làm bệnh lý mạch máu lớn: tim mạch, xơ vữa
động mạch; và mạch máu nhỏ: võng mạc, thần
kinh ngoại biên.
MoCA: biến số định lượng không liên tục, có
giá trị từ 0 tới 30. Khi điểm số ≥ 26 được xem là
bình thường. Điểm số < 26 được xem là suy giảm
nhận thức.
IADL rút gọn: biến số định lượng không
liên tục, có giá trị từ 0 tới 4, tính theo thang
điểm hoạt động sống hàng ngày có dụng cụ
vói 4 câu hỏi về quản lý tiền bạc, tự uống
thuốc theo toa, tự sử dụng các phương tiện đi
lại, và sử dụng điện thoại. Điểm IADL = 4
được xem là bình thường.
Suy giảm nhận thức nhẹ: tình trạng suy giảm
nhận thức nhận thấy được nhưng chưa ảnh
hưởng đến hoạt động sống hàng ngày của bệnh
nhân. Được chẩn đoán suy giảm nhận thức nhẹ
khi điểm số MoCA < 26 và IADL rút gọn = 4.
Sa sút trí tuệ: tình trạng suy giảm nhận thức
đủ nặng làm ảnh hưởng đến hoạt động sống
hàng ngày của bệnh nhân. Được chẩn đoán sa
sút trí tuệ khi điểm số MoCA < 26 và IADL < 4.
Phân tích thống kê
Kết quả được trình bày dưới dạng bảng số
liệu. Ban đầu là phân tích đơn biến. Các biến
định lượng sẽ được kiểm tra có phân phối bình
thường hay không bằng phần mềm R. Để đánh
giá sự tương quan giữa một biến độc lập và một
biến phụ thuộc, chúng tôi dùng mô hình hồi qui
logistic để tính ra tỉ số nguy cơ (odds ratio).
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu
nhận được 100 bệnh nhân có bệnh thận do đái
tháo đường thỏa tiêu chuẩn nhận bệnh và không
có các tiêu chuẩn loại trừ, chúng tôi ghi nhận: số
lượng bệnh nhân nữ chiếm hơn hai phần ba dân
số nghiên cứu (69%), có 20% là người Việt gốc
Hoa, 80% là người Kinh. Tuổi trung bình là 65
tuổi, tập trung chủ yếu từ 59 tới 66 tuổi. Đa số
bệnh nhân nằm trong ngưỡng béo phì với 79%,
thừa cân 18%. Các đặc điểm khác của dân số
nghiên cứu gồm: 81% sống ở thành thị, 57% có
học vấn cấp 1 trở xuống, 89% có tăng huyết áp,
39% có rối loạn mỡ máu, 29% có hút thuốc lá, và
19% có uống bia rượu. Về đặc điểm của bệnh
thận do đái tháo đường, thời gian mắc bệnh
ĐTĐ trung bình là 5 năm, dùng insulin chích
chiếm 51%, thời gian mắc bệnh thận do ĐTĐ
trung bình 1,36 năm, đường huyết đói trung
bình là 184 mg/dL, HbA1c trung bình là 9,8%,
biến chứng mạch máu khác ngoài thận chiếm
55%, và tỷ lệ BN đã có giảm độ lọc cầu thận (độ
lọc cầu thận ước tính <60 mL/phút/1,73 m²)
chiếm 83%.
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
suy giảm nhận thức (thang điểm MoCA <26)
trên dân số nghiên cứu của nhóm bệnh nhân có
bệnh thận do đái tháo đường típ 2 chiếm 61%.
Trong đó, tỷ lệ sa sút trí tuệ chiếm tỉ lệ cao với
68,9% và suy giảm nhận thức nhẹ chiếm 31,1%.
Bảng 1: Thang điểm MoCA trong nhóm nhận thức bình thường, SGNTN và SSTT
Chức năng nhận thức bình
thường (Trung bình ± Độ lệch
chuẩn)
Suy giảm nhận thức nhẹ
(Trung bình ± Độ lệch
chuẩn)
Sa sút trí tuệ
(Trung bình ± Độ lệch
chuẩn)
MoCA 28,05 (±1,32) 23,95 (±1,02) 17,24 (±4,01)
Chức năng điều hành và thị giác
không gian
3,67 (±0,98)
2,73 (±1,09) 0,97 (±1,02)
Định danh (Gọi tên) 3,00 (±0,00) 2,89 (±0,31) 2,69 (±0,56)
Sự chú ý 5.72 (±0,6) 4,47 (±1,07) 3,09 (±1,14)
Ngôn ngữ 2,80 (±0.70) 2,15 (±0,83) 1,36 (±0,76)
Tư duy trừu tượng 1,41 (±0,64) 1,00 (±0,74) 0,69 (±0,64)
Nhớ lại có trì hoãn 4,8 (±0,41) 4,15 (±0,83) 3,07 (±1,30)
Định hướng 5,92 (±0.27) 5,73 (±0,45) 4,83 (±1,10)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 57
Dựa trên phân nhóm chức năng nhận thức là
bình thường, suy giảm nhận thức nhẹ, và sa sút
trí tuệ, chúng tôi tiến hành phân tích chi tiết
thang điểm MoCA (Bảng 1).
Để phân tích tương quan giữa các biến độc
lập với tình trạng suy giảm nhận thức, chúng tôi
dùng mô hình hồi qui logistic để tính ra tỉ số
nguy cơ (OR) (Bảng 2).
Bảng 2: Tương quan đơn biến giữa các yếu tố nguy
cơ (biến độc lập) với tình trạng suy giảm nhận thức
(biến phụ thuộc)
OR
Khoảng tin
cậy 95%
Giá trị p
Giới tính (Nữ) 0,79 0,64-0,97 0,02
Tuổi (năm) 1,04 1,03-1,05 < 0,0001
Chỉ số khối cơ thể
(kg/m
2
)
0,99 0,96-1,02 0,631
Thời gian đái tháo
đường (năm)
1,06 1,03-1,09 0,0002
Điều trị insulin 1,50 1,27-1,77 < 0,0001
Đường huyết đói
(mg/dL)
0,99 0,99-1,00 0,896
HbA1c (%) 0,99 0,94-1,04 0,745
Biến chứng mạch 1,27 1,18-1,36 < 0,0001
OR
Khoảng tin
cậy 95%
Giá trị p
máu ngoài thận
Thời gian mắc bệnh
thận (năm)
1,17 1,1-1,25 < 0,0001
Giai đoạn của bệnh
thận mạn
1,23 1,19-1,42 <0,0001
BÀN LUẬN
Lược qua các nghiên cứu liên quan, có thể
thấy sự tương đồng trong tỉ lệ suy giảm nhận
thức của dân số nghiên trong bệnh viện, so sánh
với các nghiên cứu dân số được chọn trong cộng
đồng. Đặc điểm của dân số nghiên cứu là những
bệnh nhân không những có đái tháo đường, mà
còn có biến chứng thận. Bên cạnh đó, dân số
nghiên cứu là bệnh nhân nội trú có tỉ lệ các biến
chứng mạch máu khác ngoài thận cao, kèm rất
nhiều yếu tố nguy cơ khác của suy giảm nhận
thức như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ
máu, không ngạc nhiên khi tỉ lệ SGNT của dân
số nghiên cứu chiếm tỉ lệ cao, khoảng hai phần
ba của cỡ mẫu và gấp đôi so với nhóm có chức
năng nhận thức bình thường.
Bảng3: So sánh một số nghiên cứu liên quan
Tác giả Thiết kế Kết quả Tổng kết các phát hiện
Tống Mai Trang và cs
(2010)
(10)
Nghiên cứu cắt ngang
mô tả 129 BN ở Khoa Nội
Tiết BV Chợ Rẫy
Tỷ lệ SGNT là 65,89%,
trong đó SSTT chiếm
38,76%
Các loại chức năng nhận thức bị ảnh hưởng bao
gồm định hướng, chú ý tập trung, tính toán, trí
nhớ gần, ngôn ngữ, trí nhớ ngữ nghĩa, kỹ năng
dùng từ, chức năng điều hành.
Yuko Murata và cs
(2017)
(7)
281 BN lớn tuổi bị ĐTĐ
típ 2 ở bệnh viện Fuchu
Nhật Bản
Tỷ lệ SGNT là 31,3%.
SGNTN là 26%, SSTT là
5,3%
Phát hiện gần một phần ba người lớn tuổi bị ĐTĐ
típ 2 có SGNT.
Gao và cs (2015)
(4)
8213 BN trong cộng đồng
dân cư ở Thiên Tân,
Trung Quốc
Tỷ lệ SGNTN là 13,5%;
SSTT là 2,34%
Tỷ lệ hiện mắc của suy giảm nhận thức ở BN
ĐTĐ típ 2 trong dân số lớn tuổi ở Trung Quốc
cao.
Trong các bệnh nhân bệnh thận do đái tháo
đường típ 2 có SGNT, tỉ lệ suy giảm nhận thức
nhẹ và sa sút trí tuệ lần lượt là 19% và 42%. Như
vậy, sa sút trí tuệ chiếm đa số (68,9%) so với
nhóm suy giảm nhận thức nhẹ (31,1%). Nghiên
cứu của chúng tôi có tỉ lệ suy giảm nhận thức đa
số là sa sút trí tuệ, khác với các nghiên cứu trên
(Bảng 3) vì ngoài những đặc điểm dân số chọn
mẫu nêu trên, có vài lý do như hạn chế của
thang điểm IADL rút gọn với độ nhạy cao mà độ
đặc hiệu thấp. Thang điểm IADL rút gọn chỉ
đánh giá ảnh hưởng lên hoạt động sống, không
đánh giá được nguyên nhân gây ảnh hưởng chất
lượng cuộc sống khác, như bệnh thận mạn do
đái tháo đường thường kèm bệnh lý vọng mạc
do đái tháo đường gây giảm thị lực, cũng như
tuổi dân số nghiên cứu trung bình là 65, và các
lão hóa của các cơ quan khác như mờ mắt do
đục thủy tinh thể người già, đau nhức xương
khớp do thoái hóa cơ xương khớp, Các bệnh lý
này và ảnh hưởng của chúng lên sinh hoạt hàng
ngày của bệnh nhân chưa được nhìn nhận, đánh
giá và điều trị đúng mức. Hay văn hóa tuổi già
phân chia tài sản cho con cháu sau đó không còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 58
quản lý về tài chính, cùng văn hóa Á Đông
người lớn tuổi nên được nghỉ ngơi và được con
cái chăm sóc như là cách báo hiếu cũng góp
phần làm tăng tỉ lệ phụ thuộc vào người khác
dân số lớn tuổi. Tất cả các yếu tố trên góp phần
giảm tính độc lập của bệnh nhân trong hoạt
động sống hàng ngày, góp phần làm tăng tỷ lệ
sa sút trí tuệ của dân số nghiên cứu.
Các loại chức năng nhận thức bị suy giảm
trên bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng
thận dựa theo phân tích chi tiết thang điểm
MoCA là chức năng điều hành và thị giác
không gian, sự chú ý, ngôn ngữ, sự trừu tượng
và nhớ lại có trì hoãn.
Điều trị insulin liên quan tới suy giảm nhận
thức một cách có ý nghĩa thống kê, có điều trị
insulin là yếu tố nguy cơ với tỉ số nguy cơ là 1,50,
khoảng tin cậy 95%: 1,27-1,77, p<0,0001. BN
được chỉ định dùng insulin khi có chống chỉ
định của đa số các thuốc hạ đường huyết đường
uống, hoặc dùng thuốc đường uống không kiểm
soát được đường huyết mục tiêu. Trong nghiên
cứu này của chúng tôi, 100% BN tham gia
nghiên cứu có tổn thương màng lọc cầu thận với
chỉ điểm sinh học là sự hiện diện albumin trong
nước tiểu, trong đó 83% đã có giảm độ lọc cầu
thận, chống chỉ định của các thuốc uống, cũng
đồng nghĩa dưới tác động của rối loạn đường
huyết máu theo thời gian đã gây ra những tổn
thương ở cầu thận. Khi các mạch máu ở tiểu cầu
thận đã tổn thương dẫn tới vi đạm niệu hay gây
giảm độ lọc cầu thận, mạch máu nhỏ ở não cũng
có thể đã có những sang thương mạch máu, gây
tổn thương vùng vỏ và dưới vỏ, dẫn tới suy
giảm nhận thức.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu của 100 BN có bệnh thận do
đái tháo đường típ 2 tại bệnh viện An Bình, ghi
nhận tỷ lệ suy giảm nhận thực trong nhóm dân
số nghiên cứu cao 61%. Như vậy, gần hai phần
ba bệnh nhân có bệnh thận do đái tháo đường
típ 2 có suy giảm nhận thức bài đánh giá tâm
thần kinh. Do đó, việc thực hiện tầm soát SGNT
trên nhóm bệnh nhân này một cách thường quy
là cần thiết.
Nhóm BN đái tháo đường típ 2 có biến
chứng thận đến giai đoạn điều trị insulin có
nguy cơ suy giảm nhận thức cao, với OR = 1,5,
p<0,0001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Diabetes Association (2015). "Standards of Medical
Care in Diabetes—2015 Abridged for Primary Care Providers".
Clinical Diabetes: A Publication of the American Diabetes Association,
tập 33(2), tr. 97-111.
2. Arvanitakis Z et al (2004). "Diabetes mellitus and risk of
Alzheimer disease and decline in cognitive function". Arch
Neurol, tập 61(5), tr. 661-6.
3. Biessels GJ et al (2006). "Risk of dementia in diabetes mellitus: a
systematic review". Lancet Neurol, tập 5(1), tr. 64-74.
4. Gao Y et al (2016). "The prevalence of mild cognitive
impairment with type 2 diabetes mellitus among elderly people
in China: A cross-sectional study". Arch Gerontol Geriatr, tập 62,
tr. 138-42.
5. Gudala K et al (2013). "Diabetes mellitus and risk of dementia: A
meta-analysis of prospective observational studies". J Diabetes
Investig, tập 4(6), tr. 640-50.
6. Li L and Holscher C (2007). "Common pathological processes in
Alzheimer disease and type 2 diabetes: a review". Brain Res Rev,
tập 56(2), tr. 384-402.
7. Murata Y, Kadoya Y, Yamada S, Sanke T (2016). "Cognitive
impairment in elderly patients with type 2 diabetes mellitus:
prevalence and related clinical factors". Diabetology International.
tập 8(2), tr. 193-198.
8. Murray AM (2009). "The brain and the kidney connection: A
model of accelerated vascular cognitive impairment". Neurology,
tập 73(12), tr. 916-7.
9. Petersen RC et al (1999). "Mild cognitive impairment: clinical
characterization and outcome". Arch Neurol, tập 56(3), tr. 303-8.
10. Tống Mai Trang, Vũ Anh Nhị (2010). "Thần Kinh Học Chuyên
đề: Những Tiến Bộ Trong Thần Kinh Học". Hội Thần Kinh học
Việt Nam, tập 2, tr. 138.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- suy_giam_nhan_thuc_tren_benh_nhan_dai_thao_duong_tip_2_co_bi.pdf