Suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não

Tài liệu Suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 216 SUY GIẢM NHẬN THỨC SAU CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO Lê Thị Yến Phụng*, Trần Công Thắng** TÓM TẮT Mở đầu: Chấn thương sọ não là vấn đề sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, gây tử vong và tàn tật đứng hàng đầu. Ngoài ra, chấn thương sọ não còn ảnh hưởng lên chức năng nhận thức – một vấn đề còn chưa được chú trọng nhiều ở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tần suất, đặc điểm, và những yếu tố liên quan tới suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đánh giá chức năng nhận thức trên 63 bệnh nhân chấn thương sọ não tại khoa Chấn thương sọ não bệnh viện Chợ Rẫy tại thời điểm 3 tháng sau chấn thương. Kết quả: Tại thời điểm 3 tháng sau chấn thương, có 39 bệnh nhân có bất thường chức năng nhận thức trên MoCA test với điểm trung bình là 19,9 ± 3,5, 24 bệnh nhân có chức năng nhận thức bình thường với điểm trung bình 26,7 ± 0,9. Trong 39 bệnh nhân có ảnh hưởng...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 216 SUY GIẢM NHẬN THỨC SAU CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO Lê Thị Yến Phụng*, Trần Công Thắng** TÓM TẮT Mở đầu: Chấn thương sọ não là vấn đề sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, gây tử vong và tàn tật đứng hàng đầu. Ngoài ra, chấn thương sọ não còn ảnh hưởng lên chức năng nhận thức – một vấn đề còn chưa được chú trọng nhiều ở Việt Nam. Mục tiêu: Xác định tần suất, đặc điểm, và những yếu tố liên quan tới suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Đánh giá chức năng nhận thức trên 63 bệnh nhân chấn thương sọ não tại khoa Chấn thương sọ não bệnh viện Chợ Rẫy tại thời điểm 3 tháng sau chấn thương. Kết quả: Tại thời điểm 3 tháng sau chấn thương, có 39 bệnh nhân có bất thường chức năng nhận thức trên MoCA test với điểm trung bình là 19,9 ± 3,5, 24 bệnh nhân có chức năng nhận thức bình thường với điểm trung bình 26,7 ± 0,9. Trong 39 bệnh nhân có ảnh hưởng chức năng nhận thức có 2 bệnh nhân có ảnh hưởng trên hoạt động sống hàng ngày. Bệnh nhân bị chấn thương sọ não thường có tổn thương thùy trán, thùy thái dương, xuất huyết dưới nhện và tụ máu dưới màng cứng. Chấn thương sọ não không ảnh hưởng lên một chức năng nhận thức cụ thể mà ảnh hưởng đồng đều lên tất cả các nhóm. Độ nặng khi chấn thương, vị trí tổn thương và số lượng tổn thương không tương quan với mức độ suy giảm nhận thức. Tuổi cao, nữ giới và trình độ học vấn thấp là những yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức sau chấn thương. Kết luận: Chấn thương sọ não là một yếu tố nguy cơ của suy giảm nhận thức, ảnh hưởng lên toàn thể các chức năng nhận thức. Từ khóa: chấn thương sọ não, suy giảm nhận thức, thang đánh giá nhận thức MoCA ABSTRACT COGNITIVE IMPAIRMENT AFTER TRAUMATIC BRAIN INJURY Le Thi Yen Phung, Tran Cong Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 216 - 222 Background: Traumatic brain injury as a public health problem worldwide, causing death and disability forefront. Besides, traumatic brain injury also affect cognitive function - a problem has not been much focus on Vietnam. Objective: Determine the frequency, characteristics, and factors related to cognitive impairment after traumatic brain injury. Methods: Assessment of cognitive function on 63 brain injury patients at the Department of Head Trauma Cho Ray hospital at 3 months after injury. Results: At 3 months after injury, 39 patients with abnormal cognitive function on the MoCA test with average point of 19.9 ± 3.5, 24 patients had normal cognitive function with average point 26.7 ± 0.9. In 39 patients with cognitive functions affected 2 patients had an influence on activities of daily living. Patients with traumatic brain injury often have damage the frontal lobe, temporal lobe, subarachnoid hemorrhage and subdural hematoma. Traumatic brain injury does not affect a specific cognitive functions that affects equally to all groups. *Bộ môn Thần Kinh, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Yến Phụng ĐT: 0934040239 Email: yenphungle@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 217 As injury severity, lesion location and number of lesions does not correlate with the degree of cognitive impairment. Advanced age, female gender and low levels of education are factors related to cognitive impairment after injury. Conclusion: Traumatic brain injury is a risk factor of cognitive impairment, can affect all cognitive functions. Keywords: traumatic brain injury, cognitive impairment, MoCA test ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Niên giám thống kê y tế của Bộ Y tế Việt Nam vào các năm 2010(2), 2011(3), và 2012(4), tổn thương do chấn thương trong sọ luôn luôn là 1 trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Ngoài tỷ suất tử vong cao, các nạn nhân chấn thương sọ não còn chịu các ảnh hưởng về tàn tật, tâm lý và nhận thức sau chấn thương. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về suy giảm nhận thức sau chấn thương sọ não. Về dịch tễ học, chấn thương sọ não ở tuổi trẻ và trung niên làm tăng nguy cơ sa sút trí tuệ ở khi lớn tuổi gấp 2 đến 4 lần so với dân số chung(7). Tại Thái Lan – một quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội và giao thông gần giống nhất với Việt Nam, trong một nghiên cứu tiến hành năm 2011 có 27,1% bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ có ảnh hưởng tới chức năng điều hành – là một trong các lĩnh vực của nhận thức(11). Hiện tại ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá về nhận thức trên các bệnh nhân sau chấn thương sọ não. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bệnh nhân sau chấn thương sọ não được điều trị tại Khoa chấn thương sọ não bệnh viện Chợ Rẫy trong khoảng thời gian từ 01/01/2016 đến 31/01/2016. Thời gian đánh giá vào 3 tháng sau chấn thương. Phương pháp nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Bước 1: Thu thập số liệu về dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân chấn thương sọ não nhập viện từ 01/02/2016 đến 29/02/2016 trong thời gian bệnh nhân nằm nội trú. Bước 2: Khi bệnh nhân tái khám vào thời điểm 3 tháng, đánh giá thang điểm MoCA, IADL và phỏng vấn bệnh nhân và/hoặc thân nhân về tính chất giảm trí nhớ của bệnh nhân sau xuất viện, thời gian từ 01/04/2016 đến 30/04/2016. KẾT QUẢ Đặc điểm chấn thương sọ não và suy giảm nhận thức Trong 63 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, nữ giới có 17 người chiếm tỷ lệ là 27,0%, nam có 46 người chiếm tỷ lệ 73,0%. Như vậy nam chiếm ưu thế với tỷ lệ nam/ nữ là 2,7/1. Bệnh nhân bị chấn thương sọ não có tuổi thấp nhất là 19 tuổi và cao nhất là 68 tuổi, độ tuổi trung bình là 37,3 ± 13,3 tuổi. Trong đó tuổi trung bình của nữ giới là 44,6 ± 13,5 tuổi, tuổi trung bình của nam giới là 34,5 ± 12,2 tuổi.Tỷ lệ bệnh nhân bị chấn thương sọ não cao nhất trong nhóm 19-40 tuổi chiếm 60,3% (38 bệnh nhân), nhóm trên 60 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất 4,8% (3 bệnh nhân). Có 30,2% bệnh nhân được đi học từ 1 đến 6 năm (19 bệnh nhân), 47,6% bệnh nhân được đi học từ 7 đến 12 năm (30 bệnh nhân), và 22,2% bệnh nhân đi học trên 12 năm (14 bệnh nhân). Có 41 bệnh nhân có sử dụng rượu chiếm 65,1% và tất cả là nam giới. Có 25 bệnh nhân có sử dụng thuốc lá chiếm 39,7% trong đó có 24 bệnh nhân nam và 1 bệnh nhân nữ. Tình huống xảy ra chấn thương: Tỷ lệ chấn thương sọ não do tai nạn giao thông là 88,9% (56 trường hợp) và chấn thương do tai nạn sinh hoạt là 11,1% (7 trường hợp). Trong chấn thương do tai nạn sinh hoạt, có 4 trường hợp do té trên mặt phẳng ngang Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 218 chiếm 57,1% (6,3% tỷ lệ chung), 2 trường hợp do rơi từ trên cao xuống chiếm 28,6% (3,2% tỷ lệ chung), 1 trường hợp do bị đánh chiếm 14,3% (1,6% tỷ lệ chung). Mức độ chấn thương Trong nghiên cứu của chúng tôi có 42 trường hợp chấn thương mức độ nhẹ chiếm 66,7% và 21 trường hợp chấn thương mức độ trung bình chiếm 33,3%. Dấu thần kinh định vị Có 4 trường hợp có yếu nửa người chiếm tỷ lệ 6,3% và 3 trường hợp mất khứu sau chấn thương chiếm tỷ lệ 4,8%. Các dấu thần kinh khác như co giật, mất ngôn ngữ và giới hạn thị trường không ghi nhận trường hợp nào. Đặc điểm CT Scan não Bảng 1. Phân bố tổn thương trên CT Scan đầu Tổn thương Tần suất Tỷ lệ Không có tổn thương 25 39,7% Có tổn thương 38 60,3% Vị trí Thùy trán 11 28,9% Thùy đính 2 5,2% Thùy chẩm 1 2,6% Thùy thái dương 13 34,2% Xuất huyết dưới nhện 12 31,6% Tụ máu ngoài màng cứng 4 10,5% Tụ máu dưới màng cứng 15 39,5% Xuất huyết liềm, lều 8 21,1% Số lượng Một tổn thương 20 52,6% Nhiều tổn thương 18 47,4% Bán cầu Trái 13 34,2% Phải 13 34,2% Hai bên 12 31,6% Nhóm bệnh nhân bị chấn thương sọ não có tổn thương trên CT scan chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm bệnh nhân chấn thương không có tổn thương trên CT scan đầu. Trong các vị trí tổn thương, tổn thương nhu mô tại thùy trán và thùy thái dương thường gặp nhất. Trong các tổn thương ngoài nhu mô, xuất huyết khoang dưới nhện và tụ máu ngoài màng cứng thường gặp nhất. Tỷ lệ bệnh nhân có 1 tổn thương và nhiều tổn thương tương đương nhau. Tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương ở bán cầu trái, bán cầu phải hoặc cả 2 bán cầu cũng tương đương nhau. Tỷ lệ suy giảm nhận thức Dựa trên MoCA test với điểm cắt là 26, trong 63 trường hợp có 24 trường hợp nhận thức bình thường chiếm 38,1%, và 39 ca có tình trạng suy giảm nhận thức chiếm 61,9%. Điểm MoCA thấp nhất là 13, cao nhất là 29, trung bình là 22,5 ± 4,4 điểm. Trong 39 ca có suy giảm nhận thức, có 2 ca có ảnh hưởng đến hoạt động sống hàng ngày chiếm tỷ lệ 2,9% tổng số bệnh nhân. Do đó, chúng tôi không tách riêng nhóm có suy giảm nhận thức và hoạt động sống hàng ngày mà gộp chung trong tính toán số liệu về suy giảm nhận thức. Đặc điểm suy giảm nhận thức trên chấn thương sọ não Bảng 2. Liên quan giữa các lĩnh vực nhận thức và sự suy giảm nhận thức Điểm trung bình Có SGNT Không SGNTχ 2 p TGKG/CNĐH 3,1 4,54 25,12 0,000 Gọi tên 2,00 2,88 20,82 0,000 Chú ý 4,77 5,83 21,86 0,000 Ngôn ngữ 0,74 2,21 31,79 0,000 Trừu tượng 0,38 1,17 17,18 0,000 Nhớ lại 2,72 3,83 13,09 0,000 Định hướng 5,36 5,92 10,09 0,001 Hầu hết các lĩnh vực nhận thức đều bị ảnh hưởng sau chấn thương sọ não ở các mức độ khác nhau. Điểm MoCA test theo mức độ chấn thương Nhóm 42 bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ có điểm MoCA test trung bình là 21,95 ± 4,43. Nhóm 21 bệnh nhân chấn thương mức độ trung bình có điểm MoCA test trung bình là 23,52 ± 4,18. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 219 Mối liên quan giữa suy giảm nhận thức và đặc điểm chấn thương sọ não Bảng 6. Liên quan của đặc điểm dịch tễ và suy giảm nhận thức Nhóm có chức năng nhận thức bình thường Nhóm suy giảm nhận thức Giá trị p Tuổi 29,2 ± 9,7 42,2 ± 12,7 p=0,041 Giới Nam 22 (47,8%) 24 (52,2%) p=0,018 Nữ 2 (11,8%) 15 (88,2%) Trình độ học vấn 1-6 năm 0 (0,0%) 19 (48,7%) p=0,000 7-12 năm 12 (50,0%) 18 (46,2%) Trên 12 năm 12 (50,0%) 2 (5,1%) Các yếu tố tuổi, giới và trình độ học vấn có liên quan với sự suy giảm nhận thức của bệnh nhân. Mức độ chấn thương Trong nhóm suy giảm nhận thức có 28 bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ (71,8%) và 11 bệnh nhân chấn thương mức độ trung bình (28,2%). Trong nhóm chức năng nhận thức bình thường có 14 bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ và 10 bệnh nhân chấn thương mức độ trung bình. Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê, p=0,41>0,05. Tổn thương trên CT Scan Trong nhóm suy giảm nhận thức có 14 bệnh nhân không có tổn thương trên CT Scan đầu (35,9%) và 25 bệnh nhân có tổn thương trên CT Scan đầu (64,1%). Trong nhóm chức năng nhận thức bình thường có 11 bệnh nhân không có tổn thương trên CT Scan đầu (45,8%) và 13 bệnh nhân có tổn thương trên CT Scan đầu (54,2%). Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê, p=0,596 >0,05. Vị trí tổn thương trên CT Scan đầu Có 25 bệnh nhân suy giảm nhận thức và có tổn thương trên CT Scan đầu, số lượng bệnh nhân có tổn thương bán cầu phải, bán cầu trái và 2 bán cầu lần lượt là 8 (32%), 10 (40,0%), 7 (28,0%). Có 13 bệnh nhân nhận thức bình thường và có tổn thương trên CT Scan, số lượng bệnh nhân có tổn thương bán cầu phải, bán cầu trái và 2 bán cầu lần lượt là 5 (38,5%), 3 (23,0%), 5 (38,5%). Sự khác biệt về vị trí tổn thương ảnh hưởng chức năng nhận thức giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê, p=0,69>0,05. Số lượng tổn thương trên CT Scan đầu Có 25 bệnh nhân suy giảm nhận thức có tổn thương trên CT Scan đầu trong đó 12 bệnh nhân tổn thương 1 vị trí (48,0%) và 13 bệnh nhân tổn thương nhiều vị trí (52,0%). Có 13 bệnh nhân nhận thức bình thường có tổn thương trên CT Scan đầu trong đó 8 bệnh nhân tổn thương 1 vị trí (61,5%) và 5 bệnh nhân tổn thương nhiều vị trí (38,5%). Sự khác biệt giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê, p=0,506 >0,05. Vị trí tổn thương Tổn thương tại thùy trán ảnh hưởng nhiều nhất đến chức năng điều hành/thị giác không gian, nhớ lại, tư duy trừu tượng, và ngôn ngữ. Đồng thời chỉ có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nhớ lại giữa vị trí thùy trán và các vị trí khác, các lĩnh vực nhận thức khác không có sự khác biệt này. Tổn thương thùy thái dương ảnh hưởng đến chức năng điều hành/thị giác không gian, nhớ lại, ngôn ngữ và tư duy trừu tượng. Đồng thời không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các lĩnh vực nhận thức của tổn thương thùy thái dương so với các vị trí khác. Trong tổn thương xuất huyết dưới nhện, chức năng ngôn ngữ thay đổi chiếm tỉ lệ cao nhất, ngoài ra còn có chức năng điều hành/thị giác không gian, nhớ lại, chú ý, tư duy trừu tượng. Đồng thời không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các lĩnh vực nhận thức giữa tổn thương xuất huyết dưới nhện và các tổn thương khác. Tổn thương tụ máu dưới màng cứng gây ảnh hưởng lên hầu hết các chức năng ngoại trừ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 220 chức năng định hướng. Đồng thời không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các lĩnh vực nhận thức giữa tổn thương tụ máu dưới màng cứng với các vị trí khác. BÀN LUẬN Tuổi Trong số 63 bệnh nhân chấn thương sọ não, tỷ lệ cao nhất trong 2 nhóm 19-40 tuổi (60,3%) và 41-60 tuổi (34,9%) là nhóm tuổi lao động. Điều này có thể giải thích do nhóm bệnh nhân trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao trong cấu trúc dân số và cũng là nhóm tham gia lưu thông và lao động chủ yếu, vì thế nguy cơ bị chấn thương khi tham gia giao thông hay tham gia lao động sẽ cao hơn các nhóm tuổi khác.Kết quả phân tích của chúng tôi cho thấy sự suy giảm nhận thức của bệnh nhân chấn thương sọ não có gia tăng theo tuổi. Tuy nhiên, dù nhóm suy giảm nhận thức có độ tuổi trung bình cao hơn nhóm không suy giảm nhận thức (42,2 ± 12,7 so với 29,2 ± 9,7) nhưng đây vẫn là độ tuổi lao động. Sự suy giảm này có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng, khả năng làm việc trở lại sau chấn thương. Giới Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nữ chiếm 27,0% và nam chiếm 73%. So sánh với nghiên cứu của tác giả Trương Phước Sở nữ chiếm 33,5% và nam chiếm 66,5%(9), nghiên cứu của tác giả Trương Văn Việt nữ chiếm 39,5% và nam chiếm 60,5%(10). Dù các kết quả thống kê có sự khác biệt giữa các nghiên cứu nhưng tỷ lệ nam bị chấn thương sọ não cao hơn nữ khoảng 2 lần. Trình độ học vấn Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy bệnh nhân được đi học từ 1-6 năm chiếm 30,2%, từ 6-12 năm là 47,6%, và trên 12 năm là 22,2%. Kết quả cho thấy trình độ học vấn dưới 12 năm chiếm đa số vì nghiên cứu đã loại đi các bệnh nhân không biết chữ để dễ thực hiện đánh giá MoCA test. Điều này cũng phù hợp với trình độ văn hóa giáo dục của Việt Nam. Đồng thời dân số trong nghiên cứu phổ biến ở khu vực nông thôn nên phân bố trình độ học vấn chủ yếu dưới 12 năm.Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự suy giảm nhận thức có liên quan đến trình độ học vấn có ý nghĩa thống kê. Và trình độ học vấn cũng được chứng minh là yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức. Với số năm được đi học chính thức càng cao thì ít có nguy cơ suy giảm nhận thức và sa sút trí tuệ hơn những người được đi học ít hơn(1). Đặc điểm suy giảm nhận thức trên bệnh nhân chấn thương sọ não Trong nghiên cứu của chúng tôi, điểm MoCA test trung bình là 22,5 ± 4,4 điểm. Trong nghiên cứu của tác giả Pertiwi điểm MoCA test trung bình là 23,84 ± 3,13(6). Điều này có thể giải thích do tỷ lệ bệnh nhân tốt nghiệp phổ thông trong nghiên cứu của tác giả Pertiwi cao hơn so với chúng tôi (44,6% so với 22,2%). Điểm MoCA test trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm bệnh nhân chấn thương sọ não nhẹ và trung bình lần lượt là 21,95 ± 4,43 điểm và 23,52 ± 4,18 điểm. Trong nghiên cứu của tác giả de Guise điểm MoCA của 2 nhóm lần lượt là 19,02 ± 6,38 điểm và 18,83 ± 6,09 điểm(5). Điểm MoCA trong nhóm chấn thương mức độ trung bình của chúng tôi cao hơn so với nhóm chấn thương mức độ nhẹ do trong nhóm chấn thương mức độ trung bình có tỷ lệ bệnh nhân đã tốt nghiệp phổ thông cao hơn, với 14,3% ở nhóm chấn thương nhẹ và 38,1% ở nhóm chấn thương trung bình. Điểm MoCA trong nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm bệnh nhân không có tổn thương trên CT Scan và có tổn thương (tương ứng với tổn thương lan tỏa độ I và độ II) lần lượt là 23,92 ± 3,52 điểm và 21,53 ± 4,66 điểm. Trong nghiên cứu của tác giả de Guise điểm MoCA lần lượt là 18,84 ± 5,83 điểm và 18,55 ± 6,58 điểm(5). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học Thần kinh 221 Mức độ chấn thương Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ chấn thương mức độ nhẹ là 66,7% và chấn thương mức độ trung bình là 33,3%. Trong nghiên cứu của tác giả Trương Phước Sở, tỷ lệ chấn thương mức độ nhẹ 61,6% và chấn thương mức độ trung bình là 29,3%(9). Trong nghiên cứu của tác giả de Guise tỷ lệ bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ là 55,1% và mức độ trung bình là 26,1%(5). Có sự khác biệt này có thể giải thích do trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân chấn thương mức độ nặng. Và qua số liệu của các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân chấn thương mức độ nhẹ cao hơn chấn thương mức độ trung bình khoảng 2 lần. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết luận giống nghiên cứu của tác giả de Guise là không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm MoCA giữa mức độ chấn thương nhẹ và trung bình, và điều này cũng tương tự khi phân tích với từng lĩnh vực nhận thức(5). Tổn thương trên CT Scan đầu Trong nghiên cứu của chúng tôi, trong nhóm có tổn thương tỷ lệ bệnh nhân có dập não là 52,6%, xuất huyết dưới nhện là 31,6%, xuất huyết liềm lều là 21,1%, tụ máu dưới màng cứng là 39,5%, tụ máu ngoài màng cứng là 10,5%. Trong tổn thương dập não chủ yếu gặp ở thùy thái dương và thùy trán. Những tổn thương nội sọ ghi nhận được trong nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các vị trí tổn thương được ghi nhận trong lý thuyết cũng như qua các nghiên cứu là thùy trán, thùy thái dương, xuất huyết dưới nhện và tụ máu dưới màng cứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt có y nghĩa thống kê về điểm MoCA giữa 2 nhóm có và không có tổn thương. Điều này tương tự như kết luận của tác giả de Guise không có sự khác biệt có ý nghĩa về điểm MoCA giữa các nhóm của phân loại Marshall trên CT Scan sau chấn thương(5). Vị trí tổn thương trên CT Scan đầu Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về suy giảm nhận thức giữa tổn thương bán cầu trái, bán cầu phải hoặc cả 2 bán cầu. Tổn thương thùy trán, thùy thái dương, xuất huyết dưới nhện và tụ máu dưới màng cứng thường gặp trong chấn thương sọ não tuy nhiên các tổn thương này không ảnh hưởng chuyên biệt lên chức năng nhận thức nào. Điều này có thể giải thích do trong chấn thương sọ não tổn thương có thể không ở 1 vị trí, hơn nữa mặc dù không thấy tổn thương trên CT Scan nhưngtổn thương lan tỏa do nhu mô bị kéo căng và rách trên diện rộng, bao gồm nhiều loại tổn thương như xuất huyết và rách nhu mô trên toàn não bộ. Dạng này thường gặp trong cơ chế tăng /giảm tốc như trong tai nạn giao thông(8). Ngoài ra, tổn thương xuất huyết dưới nhện gây ảnh hưởng chức năng nhận thức do ảnh hưởng của tăng áp lực nội sọ cấp tính và đầu nước sau xuất huyết dưới nhện. Tổn thương tụ máu dưới màng cứng thường xuất hiện ở vị trí thùy trán và thái dương gây chèn ép các cấu trúc thần kinh gây ảnh hưởng lên chức năng nhận thức. KẾT LUẬN Qua khảo sát trên 63 bệnh nhân chấn thương sọ não, bao gồm 42 trường hợp chấn thương mức độ nhẹ (66,7%) và 21 trường hợp chấn thương mức độ trung bình (33,3%), chúng tôi có kết luận: Trên bệnh nhân chấn thương sọ não, tỷ lệ suy giảm nhận thức là 61,9%, trong đó có 2,9% là suy giảm nhận thức điển hình và 59% suy giảm nhận thức nhẹ. Chấn thương sọ não gây suy giảm tất cả các chức năng nhận thức (thị giác không gian/chức năng điều hành, gọi tên, chú ý, ngôn ngữ, trừu tượng, nhớ lại và định hướng) tuy nhiên không có mất chức năng nhận thức chuyên biệt. Mối liên quan tình trạng nhận thức và đặc điểm chấn thương: Tuổi bệnh nhân càng cao, nguy cơ suy giảm nhận thức tăng.Nữ giới có nguy cơ suy giảm nhận thức cao hơn nam giới. Bệnh nhân có trình độ học vấn thấp có nguy cơ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Chuyên Đề Nội Khoa 222 suy giảm nhận thức cao hơn. Tổn thương thùy trán ảnh hưởng đến chức năng điều hành/thị giác không gian, ngôn ngữ, tư duy trừu tượng. Tổn thương thùy thái dương ảnh hưởng đến ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, nhớ lại và định hướng. Tổn thương xuất huyết dưới nhện ảnh hưởng đến chức năng điều hành/thị giác không gian, chú ý, ngôn ngữ, trừu tượng và nhớ lại. Tổn thương tụ máu dưới màng cứng ảnh hưởng đến chức năng điều hành/thị giác không gian, gọi tên, chú ý, ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, nhớ lại. Tình trạng suy giảm nhận thức không tương quan với độ nặng khi chấn thương, vị trí tổn thương và số lượng tổn thương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Baumgart M, Snyder HM, Carrillo MC (2015). Summary of the evidence on modifiable risk factors for cognitive decline and dementia: A population-based perspective. Alzheimer’s& Dementia, 11: 718-26. 2. Bộ Y tế (2011). Niên giám thống kê y tế 2010. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội: 203-209. 3. Bộ Y tế (2012). Niên giám thống kê y tế 2011. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội: 210-216. 4. Bộ Y tế (2013). Niên giám thống kê y tế 2012. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội: 214-220. 5. de Guise E, Alturki AY, LeBlanc J, et al (2014). The Montreal Cognitive Assessment in persons with traumatic brain injury. Appl Neuropsychol Adult, 21 (2): 128-35. 6. Pertiwi JM, Yusuf I, As’ad S, et al (2015). Executive Function and Nitric Oxide in Mild-Moderate Traumatic Brain Injury. Scholars Journal of Applied Medical Sciences, 3 (1B): 113-7. 7. Shively S, Scher AI, Perl DP, et al (2012). Dementia resulting from traumatic brain injury: What is the pathology?. Archives of Neurology, 69 (10): 1245-51. 8. Silver JM, McAllister TW, Yudofsky SC (2005). Neuropathology. In: Textbook of traumatic brain injury, American Psychiatric Publishing, Inc., Washington, DC: 27-50. 9. Trương Phước Sở, Tô Vĩnh Ninh, và cộng sự (2009). Nghiên cứu tình trạng chấn thương sọ não từ sau quy định đội mũ bảo hiểm. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược Thành phố HCM, tập 13 (6): 319-29. 10. Trương Văn Việt (2002). Các yếu tố nguy cơ gây chấn thương sọ não do tai nạn giao thông tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược Thành phố HCM, tập 6 (Phụ bản của số 1): 14-20. 11. Tunvirachaisakul C, Thavichachart N, Worakul P (2011). Executive dysfunction among mild traumatic brain injured patients in Northeastern Thailand. Asian Biomedicine 5 (3): 407- 11. Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/12/2016 Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsuy_giam_nhan_thuc_sau_chan_thuong_so_nao.pdf
Tài liệu liên quan