Tài liệu Suy diễn trong hội thoại tiếng Việt (trên cứ liệu 100 truyện cười chọn lọc) - Đoàn cảnh Tuấn: 12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy diễn là một vấn đề còn khá mới trong giới
dụng học nói riêng và ngữ học nói chung. Vấn đề
suy diễn trước đó cũng đã được đề cập đến trong
một vài công trình nghiên cứu, tuy nhiên bị bao
gộp chung trong các thuật ngữ, chẳng hạn suy ý
hay suy lý trong Nhập môn logic hình thức và logic
phi hình thức (Nguyễn Đức Dân), Logic – Ngôn
ngữ học (Hoàng Phê) hay Giáo trình Logic hình
thức (Bùi Thanh Quất). Nhìn chung, các tác giả
đều có cùng quan điểm coi suy diễn là một loại suy
luận hay suy lý và xuất phát theo hướng tiếp cận
của logic hình thức. Cách tiếp cận này đi theo hai
chiều hướng: hoặc coi suy diễn là suy luận hay suy
lý hai tiền đề “suy diễn chính là phép suy luận hai
tiền đề hay đó chính là hệ thống suy diễn tiền đề
ĐOÀN CẢNH TUẤN*
*Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, doancanhtuana3@gmail.com
Ngày nhận bài: 18/4/2018; ngày sửa chữa: 16/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 689 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Suy diễn trong hội thoại tiếng Việt (trên cứ liệu 100 truyện cười chọn lọc) - Đoàn cảnh Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy diễn là một vấn đề còn khá mới trong giới
dụng học nói riêng và ngữ học nói chung. Vấn đề
suy diễn trước đó cũng đã được đề cập đến trong
một vài công trình nghiên cứu, tuy nhiên bị bao
gộp chung trong các thuật ngữ, chẳng hạn suy ý
hay suy lý trong Nhập môn logic hình thức và logic
phi hình thức (Nguyễn Đức Dân), Logic – Ngôn
ngữ học (Hoàng Phê) hay Giáo trình Logic hình
thức (Bùi Thanh Quất). Nhìn chung, các tác giả
đều có cùng quan điểm coi suy diễn là một loại suy
luận hay suy lý và xuất phát theo hướng tiếp cận
của logic hình thức. Cách tiếp cận này đi theo hai
chiều hướng: hoặc coi suy diễn là suy luận hay suy
lý hai tiền đề “suy diễn chính là phép suy luận hai
tiền đề hay đó chính là hệ thống suy diễn tiền đề
ĐOÀN CẢNH TUẤN*
*Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, doancanhtuana3@gmail.com
Ngày nhận bài: 18/4/2018; ngày sửa chữa: 16/5/2018; ngày duyệt đăng: 20/6/2018
SUY DIỄN TRONG HỘI THOẠI TIẾNG VIỆT
(TRÊN CỨ LIỆU 100 TRUYỆN CƯỜI CHỌN LỌC)
cổ xưa nhất: tam đoạn luận Aristotote” (Nguyễn
Đức Dân, 2005, tr.147) hoặc đồng nhất suy diễn
với suy luận và cho rằng suy diễn cũng vận dụng
những quy tắc của suy luận logic nhưng còn mang
một số quy tắc đặc trưng riêng của nó: “Suy ý là
suy luận để biết đến cái ý của người nói. Suy ý
cũng vận dụng những quy tắc của suy luận logic,
nhưng đồng thời nó còn có một số quy tắc đặc
trưng của nó” (Hoàng Phê, 2003, tr.103),“Phép
suy diễn là một suy lý gián tiếp mà tiền đề là hai
phán đoán đơn” (Bùi Thanh Quất, 1994, tr.125).
Mặc dù kế thừa quan điểm của các tác giả đi
trước về vấn đề này theo hướng tiếp cận logic hình
thức nhưng chúng tôi tập trung sâu vào phân tích
hội thoại dựa trên cứ liệu 100 truyện cười (kết hợp
các thủ pháp thống kê, phân loại, so sánh – đối
TÓM TẮT
Bài viết bước đầu miêu tả, phân tích một vài đặc trưng của suy diễn trong hội thoại tiếng Việt –
những suy diễn được tạo tác trong tư duy, được biểu hiện trong giao tiếp hàng ngày của người
Việt; xác định sự tồn tại của suy diễn, trên cơ sở đó, đi đến phân loại và mô hình hóa suy diễn
cũng như các phương thức cấu thành nên chúng. Dưới con mắt của dụng học, chúng tôi đã khái
quát hóa mối quan hệ giữa suy diễn với các nhân tố thuộc về ngữ cảnh cũng như cá nhân đối tượng
tham gia vào giao tiếp (những yếu tố kinh nghiệm, tâm lý cá nhân). Bên cạnh đó, nhấn mạnh vai
trò không chỉ của người nói hay người viết mà còn cả người nghe hay người đọc trong giao tiếp
là vô cùng quan trọng.
Từ khóa: cá nhân, giao tiếp, kinh nghiệm, ngữ cảnh, suy diễn
13KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
chiếu, đánh giá tổng hợp), để trên cơ sở đó, bước
đầu chỉ ra những phương thức cấu thành nên suy
diễn, các loại suy diễn khác nhau. Đồng thời chỉ ra
những đặc trưng khái quát nhất của suy diễn trong
hội thoại tiếng Việt.
2. NỘI DUNG
2.1. Các phương thức cấu thành suy diễn
Qua quá trình khảo cứu, chúng tôi nhận thấy
rằng, về bản chất, suy diễn được hình thành, tạo
tác trong tư duy và được hiện thực hóa qua ngôn
ngữ theo hai con đường sau:
2.1.1. Gián tiếp giới hạn ngữ cảnh có thể tạo
sinh trong tư duy từ một diễn ngôn X nào đó (vô
tình hiểu sai X)
Một quá trình giao tiếp thông thường sẽ bao
gồm bên phát (bên truyền đi thông điệp) và bên
nhận (bên thụ đắc thông điệp). Nói khác đi, giao
tiếp là chu trình truyền và phát đi thông điệp giữa
hai bên, một bên là người nói hay người viết và
bên còn lại là người nghe hay người đọc. Tuy
nhiên, khi thụ đắc ngôn ngữ, người nghe (người
đọc) đi theo một quy luật suy ý riêng, dựa trên
kinh nghiệm, nhận thức chủ quan của bản thân mà
vô tình hiểu sai hàm ý của chủ thể tạo ra phát ngôn
hoặc do người thuyết giải thông tin (người nghe/
người đọc) xuất phát từ một tiền đề sai. Điều đó
có nghĩa tuy chưa có đủ “cơ sở, căn cứ, lý lẽ xác
đáng” mà đã vội kết luận về nội dung của sự tình.
Tư duy qua quá trình “khúc xạ” bởi yếu tố thuộc
về bản ngã (về cá nhân) đồng nhất tất cả các hình
thức suy ý còn lại làm một, khiến sản sinh ra bộ
phận suy ý sai, cái được gọi là suy diễn.
Giả sử, cho các cặp tiên đề (a; b), (c; d), (e;
f), trong đó, các tiên đề b, d, f lần lượt là thuộc
tính đặc trưng, bản chất của các sự vật a, c, e. Ở
các cặp tiên đề đó, hiển nhiên ta có quy ước: a =>
b; c => d; e => f
Thử phân tích ví dụ dưới đây:
Hai em nhỏ ngồi chơi với nhau. Cậu anh hỏi:
“Con gà kêu như thế nào?”
- Cục ta cục tác.
- Con chó kêu như thế nào?
- Gâu gâu.
- Thế con bò kêu như thế nào?
- “Trăm phần trăm, trăm phần trăm, trăm
phần trăm Chúng tôi là những con bò”.
(Khái Hưng, Tuyển tập Tiếu lâm Việt Nam)
Xét từ thực tế khách quan và theo như quy ước
trên (a => b; c => d; e => f) thì:
Con gà sẽ kêu cục ta cục tác
a b
Con chó sẽ kêu gâu gâu
c d
còn con bò sẽ kêu bò...ò...ò
e f
Tuy nhiên, trong cuộc thoại trên, đặc trưng,
thuộc tính f về tiếng kêu của con bò lại là trăm
phần trăm, trăm phần trăm... Chúng tôi là những
con bò. Từ giả thuyết đã cho, rõ ràng, các mệnh đề
đi kèm trong các cặp tiên đề b, d, f phải là các thuộc
tính đặc trưng, bản chất của sự vật, hiện tượng
được đề cập đến, nhưng ở đây, e không suy ra f
mà người nghe khi tiếp nhận phát ngôn từ chủ thể
tạo ra phát ngôn lại suy ra một mệnh đề khác hoàn
toàn với chuỗi suy luận ban đầu. Quá trình lý giải
vẫn phải tiếp tục, tại không gian, thời gian thuyết
giải thông tin, bằng kinh nghiệm thực chứng, bằng
nhận thức tương đối của bản thân. Người đối thoại
vẫn phải trả lời nhưng không còn tuân theo quy
luật logic nữa mà suy diễn sang một hướng khác.
Trở lại câu chuyện về tiếng kêu của các con
vật, tại sao theo tri nhận của em nhỏ trong câu
chuyện này, con bò lại kêu “Trăm phần trăm...
trăm phần trăm...chúng tôi là những con bò.”? Lý
giải về điều này, có lẽ phải viện đến các quảng cáo
sữa trên một số phương tiện truyền thông ở Việt
Nam hiện nay. Đối với rất nhiều em nhỏ, đặc biệt
là những em nhỏ sống ở thành phố, từ bé, các em
đã không có hoặc ít có cơ hội trải nghiệm thực tế
về cuộc sống ở nông thôn, ít có cơ hội được tiếp
xúc với các con vật nhà nông như trâu, bò, lợn,...
14 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
mà chủ yếu, nếu có, các em thường tiếp xúc với
những con vật nuôi nhỏ trong gia đình như con
chó, con mèo hay con gà. Do vậy, khi hỏi các em
con chó kêu như thế nào hay con gà kêu như thế
nào thì các bạn nhỏ không ngần ngại gì khi trả lời
con chó thì kêu gâu gâu, con gà thì kêu cục ta cục
tác. Chính từ sự thiếu trải nghiệm thực tế của các
em nhỏ, các em nếu có cũng chỉ chứng kiến con
bò trên tivi, tranh ảnh, sách báo mà chưa hề được
nghe tiếng kêu của chúng nên sau khi xem các
quảng cáo sữa trên tivi thì nghiễm nhiên mặc định
rằng con bò kêu “Trăm phần trăm trăm phần
trăm chúng tôi là những con bò”. Như vậy, phát
ngôn rằng một con chó thì sủa gâu gâu, một con gà
sẽ kêu cục ta cục tác chắc chắn đúng nhưng không
thể có một con bò biết nói tiếng người. Do đó, suy
diễn trong trường hợp này bị chính ảnh hưởng của
kiến thức, của kinh nghiệm chi phối, tác động và
dẫn đến những khúc xạ khác nhau trong tư duy.
2.1.2. Trực tiếp giới hạn ngữ cảnh có thể tạo
sinh trong tư duy từ một diễn ngôn X nào đó (cố
ý hiểu sai X)
Bên cạnh cách thức gián tiếp giới hạn các
ngữ cảnh tình huống có thể tạo tác trong tư duy
từ một diễn ngôn X nào đó thì suy diễn cũng có
thể được hình thành do chủ thể luận giải cố tình
hiểu sai hàm ý (ý nghĩa n ẩn tàng trong phát ngôn
của chủ thể) của diễn ngôn bởi lẽ người luận giải
diễn ngôn muốn biến suy diễn thành công cụ để
đạt được mục đích của mình. Mặc dù có thể thuyết
giải được thông tin X nhưng vì động cơ Y nào đó
của anh ta nên anh ta không tuân thủ quy tắc suy
luận logic, triệt tiêu chúng đi, tạo điều kiện cho
suy diễn được hình thành và được hiện thực hóa
thông qua ngôn ngữ. Điều này thể hiện rất rõ trong
truyện cười dưới đây:
Một thực khách tức giận gọi bồi bàn đến:
- Tại sao trong bát phở của tôi lại có đến ba
con ruồi nằm thẳng cẳng thế này?
- Vâng, đây thực sự là một bi kịch thưa ông!
- Thế à? Nhà hàng lại mất vệ sinh đến thế kia à?
- Dù chúng tôi đã rất cố gắng can ngăn,
nhưng chuyện tình tay ba thường kết thúc bi
thảm như thế đấy ạ!
- ?!!
(Khái Hưng, Tuyển tập Tiếu lâm Việt Nam)
Ở truyện cười trên, thực khách muốn nói tới
một thực tế hiển nhiên “Trong bát phở có đến ba
con ruồi” mà điều đó đáng lí bất kì một nhân viên
bán hàng nào khi nghe đều nhận ra người khách
đang muốn phê bình vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm của quán. Cái hàm ngôn ở đây không khó
nhận thấy. Câu hỏi “tại sao” chẳng qua nhằm xác
nhận thông tin và muốn nghe một lời giải thích.
Rất nhanh trí, bồi bàn đã lấp liếm đi thực tế về
vấn đề vệ sinh của quán anh ta bằng một lối suy
diễn hết sức “có lý”. Cái có lý ấy đáng phải xem
xét. Có lý ở đây là sự hợp lý về mặt liên hệ với
trực quan sinh động, hình ảnh “ba con ruồi” với
hình ảnh “tình tay ba”. Nhưng về mặt logic, suy
luận ấy là vô lý. Người nghe (bồi bàn) cố tình
hiểu sai ý thực khách trong khi đó không phải
cái hàm ý mà người nói (thực khách) hướng tới.
Kết thúc đoạn truyện cười ở trên, đúng với ý
của bồi bàn (chủ thể tiếp nhận thông tin từ thực
khách), bằng cái lối suy diễn tài tình của mình, anh
ta đã dập tắt hội thoại, khiến cho sự tức giận của
thực khách không những mất đi mà còn tạo tình
tiết gây cười, gây thú vị cho khách hàng của quán.
Từ đối tượng “có lỗi” do không tuân thủ vệ sinh
an toàn thực phẩm mà bỗng “những kẻ gây lỗi”
biến thành những người bị động – những nạn nhân
“rất tiếc vì đã gắng sức nhưng không thể can ngăn
cuộc chiến bi kịch của ba con ruồi” xảy ra.
Quá trình thuyết giải thông tin của bồi bàn
theo như Grice trong Logic và hội thoại rõ ràng
đã vi phạm phải ba kiểu không tôn trọng trong
phương châm. Đó là chối bỏ phương châm (opt
out of a maxim), xúc phạm phương châm (flout) và
vi phạm phương châm (violate). Sau này Grice bổ
sung thêm phạm lỗi phương châm (infring) và các
nhà ngôn ngữ học bổ sung thêm kiểu treo phương
châm (suspend). Nếu phạm lỗi phương châm là do
15KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
người nói vụng về, không tuân thủ phương châm
một cách vô tình, không cố ý thì xúc phạm, vi
phạm, chối bỏ phương châm lại là những việc làm
có ý thức của người nói, cố ý gài đằng sau những
phát ngôn trực tiếp của mình những hàm ngôn
nhằm tạo ra ý nghĩa không tự nhiên.
Cần lưu ý rằng, cái gọi là người nói và người
nghe trong một cuộc hội thoại ở đây chỉ mang tính
chất tương đối. Vai trò của chủ thể tham gia giao
tiếp trong một diễn ngôn luân phiên nhau, tương
tác qua lại với nhau. Quá trình luân phiên lượt lời
diễn ra, vai “người nói” hay “người nghe” thay đổi
tùy vào trực chỉ.
2.2. Mô hình suy diễn
Từ hai phương thức cấu thành suy diễn trên,
con đường hình thành nên suy diễn có thể được
khái quát hóa qua mô hình 1 dưới đây. Chúng tôi
tạm gọi đó là mô hình suy diễn.
người phát muốn truyền tải đến nhưng vì một mục
đích, một động cơ cá nhân nào đó nên “anh ta” cố
tình liên tưởng sai lệch đi để phục vụ cho mục đích
nhất định của bản thân anh ta. Điều đó khiến cho
thông điệp X ban đầu trở thành một thông điệp Y
nào đó – cái thông điệp mà người nói không cố
tình đề cập tới.
Như vậy, suy diễn được tạo nên bởi trong quá
trình luận giải thông tin, người nhận đã gắn diễn
ngôn ban đầu với một ngữ cảnh cụ thể nào đó –
cái ngữ cảnh mà người phát và người nhận không
thống nhất, không hình thành trên cùng một phông
nền dẫn đến hiểu sai ý của nhau. Quá trình luận
giải thông tin của người phát đôi khi còn gắn với
nhận thức cảm tính, gắn với trải nghiệm, kinh
nghiệm cá nhân. Quả đúng như R. Nisbett đã từng
nhận định“Dường như sự khác nhau trong cách
tiếp nhận thông tin từ môi trường xung quanh là
hệ quả của những nền văn hóa khác nhau mà con
người được giáo dục trong đó” (Lý Toàn Thắng,
2008, tr.185), quá trình luận giải không chỉ gắn
với yếu tố cá nhân mà còn gắn với điều kiện xã hội
riêng biệt, sự ảnh hưởng của những nền văn hóa
khác nhau. Đó đều là những nhân tố hình thành
nên suy diễn.
2.3. Phân loại suy diễn
Qua khảo sát 100 truyện cười chọn lọc (những
truyện cười Việt Nam có chứa yếu tố suy diễn),
theo chúng tôi, suy diễn gồm 2 nhóm: nhóm suy
diễn qua ngôn từ và nhóm suy diễn cá nhân hóa
tâm lý xã hội. Trong đó, nhóm suy diễn cá nhân
hóa tâm lý xã hội lại được tách bạch làm 3 loại
nhỏ hơn: đó là suy diễn có động cơ, suy diễn qua
niềm tin và suy diễn cực đoan hóa. Kết quả thống
kê được thể hiện trong bảng số liệu 1.
Kết quả khảo sát cho thấy, suy diễn qua ngôn
từ là loại suy diễn khá phổ biến, tuy nhiên chiếm
số lượng vượt trội là nhóm suy diễn cá nhân hóa
kinh nghiệm tâm lý xã hội. Trong khi nhóm suy
diễn qua ngôn từ chỉ có mặt ở 32 truyện (chiếm
29,91%) thì suy diễn cá nhân hóa kinh nghiệm tâm
Mô hình 1: Mô hình suy diễn
Người phát trong diễn ngôn ban đầu truyền đi
một thông điệp X đến người nhận. Tuy nhiên, do
trong quá trình luận giải thông tin, người nhận
chịu sự chi phối của các yếu tố như kinh nghiệm
cá nhân, yếu tố tâm lý, xã hội khác và đặc biệt là
tác động của sự giới hạn nhân tố ngữ cảnh đã khiến
người nhận hiểu sai “thông điệp” mà người phát
muốn hướng tới.
Ngữ cảnh giới hạn tạo sinh suy diễn có thể do
người nhận cố tình dù đã hiểu thông điệp X mà
16 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
lý xã hội lại xuất hiện ở 75 truyện trên tổng số 100
truyện cười (trong đó có 7 truyện cười chứa đựng
cả hai hình thức suy diễn). Điều đó chứng tỏ rằng,
suy diễn chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tâm lý
xã hội, yếu tố kinh nghiệm cá nhân bên cạnh ảnh
hưởng của ngôn ngữ. Các loại suy diễn này cũng
phần nào phản ánh tư duy của một bộ phận người
Việt và nhận thức của chúng ta về thế giới khách
quan sẽ biến đổi như thế nào trong tư duy khi có
các nhân tố bên ngoài ngôn ngữ tác động.
Riêng nhóm suy diễn qua ngôn từ, có thể được
hình thành do tính đa nghĩa hay mập mờ về nghĩa
trong từ ngữ mà người nói (người viết) tạo ra, đồng
thời không có đủ yếu tố ngữ cảnh cần thiết để luận
suy một cách logic chặt chẽ bởi lẽ trong ngôn từ
(từ, ngữ, câu, diễn ngôn) có tồn tại một bộ phận gọi
là ngụ ý hay ẩn ý. Ngụ ý không dễ dàng nhận ra
và không phải bất cứ một người nghe (người đọc)
nào cũng có thể hiểu được cho nên đôi khi phát
sinh ra những suy diễn. Thậm chí, có những kẻ dựa
vào ngụ ý để lừa phỉnh những cá nhân không có
năng lực thuyết giải thông tin (từ ngụ ý hình thành
các suy diễn tiêu cực mà thực chất người nói/viết
không có ý hướng đến người nghe/đọc) nhằm đạt
mục đích cá nhân nào đó của mình.
Trong một diễn ngôn, người nói (người viết)
có sử dụng từ (ngữ, câu, diễn ngôn) nào đó có tính
chất đa nghĩa hay dễ gây hiểu lầm do sự mập mờ
về nghĩa thì nhất định phải sử dụng yếu tố ngữ
cảnh cần thiết trong khi sử dụng để tránh suy diễn.
Giả sử, trong diễn ngôn, có một từ hay một ngữ
X nào đó bao gồm rất nhiều nghĩa (a
1
,a
2
,a
3
,a
4
,,
a
n
). Khi người nói hay người viết (A) sử dụng từ
(ngữ) đó với nghĩa a
1
trong đúng ngữ cảnh a
1
của
nó thì khi người nghe/người đọc (B) thuyết giải
thông tin, họ sẽ hiểu đúng cái nghĩa a
1
ban đầu mà
người nói/người viết hướng tới (suy luận logic).
Nhưng khi người nói/người viết sử dụng từ (ngữ)
với nghĩa a
1
mà không đặt nó trong bất cứ ngữ
cảnh nào hoặc khi anh ta sử dụng từ hay ngữ X
nhưng lại kèm theo cả ẩn ý (ngụ ý) sẽ làm cho
suy luận logic phần nào bị cản trở, tạo môi trường
thuận lợi để hình thành suy diễn. Bởi lẽ, người
nghe/người đọc có thể viện tới bất kì một khái
niệm hay một nghĩa am nào đó thuộc về từ (ngữ)
X do không có ngữ cảnh chính xác . Trên cơ sở
đó, khi người nghe/người đọc (B) luận giải thông
tin từ người nói/người viết (A) chính bởi không
hiểu ngụ ý (ẩn ý) xuất phát từ phía A nên suy diễn
để luận giải thông tin về từ/ngữ X này. Từ/ngữ X
cũng có thể bị người nói phát âm sai hoặc người
viết viết sai so với quy chuẩn chính tả dẫn đến khi
luận giải thông tin, người nghe/người đọc dễ suy
diễn khác đi so với những gì người nói/người viết
đích thị muốn hướng đến. Điển hình về loại suy
diễn dựa trên tính đa nghĩa của từ ngữ được minh
họa thông qua ví dụ sau:
Bảng 1: Các loại suy diễn trong hội thoại tiếng
Việt chọn lọc
TT Loại suy diễn Số lượng
1 Suy diễn qua ngôn từ 32 (29,91%)
2
Suy diễn cá
nhân hóa
kinh nghiệm
tâm lý xã hội
Suy diễn qua
niềm tin
30 (28,04%)
Suy diễn cực
đoan hóa
23 (21,49%)
Suy diễn có
động cơ
22 (20,56%)
Mô hình 2: Các nhân tố hình thành suy diễn
17KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v
Ví dụ: Mất rồi
Một người sắp đi chơi xa dặn con:
- Ở nhà có ai hỏi thì bảo bố đi vắng nhé!
Sợ con mải chơi quên mất, lại cẩn thận lấy bút
viết vào tờ giấy rồi bảo:
- Có ai hỏi thì con cứ đưa cái giấy này!
Con cầm giấy bỏ vào túi áo. Cả ngày chẳng
thấy ai hỏi. Tối đến, sẵn có ngọn đèn, nó lấy giấy
ra xem, vô ý thế nào lại để giấy cháy mất.
Hôm sau, có người đến chơi, hỏi:
- Bố cháu có nhà không?
Nó ngẩn ngơ hồi lâu, sực nhớ ra, sờ túi không
thấy giấy, liền nói:
- Mất rồi!
Khách giật mình hỏi:
- Mất bao giờ?
- Tối hôm qua.
- Sao mà mất?
- Cháy !!!
(Khái Hưng, Tuyển tập Tiếu lâm Việt Nam)
Từ “mất” có một số nghĩa sau đây1:
Nghĩa động từ:
(1) Mất: không có, không thấy, không còn tồn
tại nữa.
Ví dụ: mất điện, mất vui, biến mất,
(2) Mất: không còn là của mình, thuộc về mình
nữa (cái vẫn tiếp tục tồn tại).
Ví dụ: mất cái ví, mất cắp, mất tiền,
(3) Mất: không còn ở mình nữa.
Ví dụ: người thương binh mất một chân, mất
danh dự, nghỉ mất sức,
(4) Mất: dùng hết thời gian, công sức hoặc tiền
của vào việc gì.
Ví dụ: phải mất một hai hôm nữa mới làm xong,
mất rất nhiều công sức, mất thời gian vô ích,
(5) Mất: không còn sống nữa, chết (một cách
nói giảm nói tránh, hàm ý thương tiếc).
Ví dụ: Ông cụ đều mất sớm, bố mẹ đã mất mấy
năm,
Khi “mất” đóng vai trò như một trợ từ:
(6) Mất: biểu thị ý thương tiếc về điều không
hay đã xảy ra hoặc có thể xảy ra
Ví dụ: quên bẵng đi mất, thế mà lại muộn mất
rồi, lỡ mất cơ hội,
(7) Mất: biểu thị ý nhấn mạnh về mức độ một
của tình cảm mà cảm thấy không sao kìm giữ được.
Ví dụ: Buồn quá đi mất, sướng phát điên
lên mất,
Chỉ một từ “mất” mà có bảy nghĩa như trên,
nhưng khi sử dụng, cậu bé trong truyện lại không
cung cấp đầy đủ ngữ cảnh (chuỗi từ kết hợp bao
xung quanh từ “mất” đủ làm cho nó xác định về
nghĩa) để người khách đến chơi nhà luận giải
thông tin từ sự tình. Cái gọi là “mất” mà em bé sử
dụng là với nghĩa “không có, không thấy, không
còn tồn tại nữa”, “mất rồi” ở đây là “mất” tờ giấy
mà bố cậu bé đã đưa cho cậu ta trước khi đi xa
nhà bởi cậu bé này đã làm cháy tờ giấy ấy. Ngược
lại, ông khách lại thuyết giải thông tin của sự tình
với nghĩa “không còn sống nữa, chết” và tưởng
như cậu bé dùng từ “mất” để bày tỏ sự thương
tiếc trước “sự ra đi đột ngột” của người bố cậu ta.
Nhưng rõ ràng chính tính đa nghĩa của từ “mất”
và sự biểu thị mập mờ của cậu bé trong truyện
đã làm người nghe (ông khách) suy diễn với một
hiện thực khác bởi ông ta đã viện tới một ngữ cảnh
khác khi sử dụng ngôn ngữ (cụ thể từ “mất” trong
trường hợp này).
18 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 14 - 7/2018
v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH
3. KẾT LUẬN
Nhìn chung, suy diễn chính là hình thức thuyết
giải thông tin của các chủ thể tham gia vào giao
tiếp khi tiếp nhận một thông tin nào đó, đi ngược
lại với quy luật của suy luận logic. Hay nói khác
đi, suy diễn là cách thức liên tưởng của người nghe
(người đọc) khi tiếp nhận thông tin tuân theo một
số quy tắc nhất định. Suy diễn được tạo thành do
trực tiếp hay gián tiếp giới hạn ngữ cảnh có thể
tạo sinh trong tư duy từ một diễn ngôn X. Với hai
phương thức cấu thành như vậy, suy diễn có thể
được tách bạch ra làm hai nhóm: nhóm suy diễn
qua ngôn từ và nhóm suy diễn cá nhân hóa tâm
lý xã hội (bao gồm các suy diễn qua niềm tin, suy
diễn cực đoan hóa và suy diễn có động cơ)./.
Chú thích:
1. Theo <
M%E1%BA%A5t>
Tài liệu tham khảo:
A. G. Kavaliôp (1976), Tâm lý xã hội, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
G. Brown, G. Yule (2002), Phân tích diễn ngôn,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
G. Yule (2003), Dụng học, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (2003), Cơ sở Ngữ dụng học (tập 1),
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học (tập 1),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân (2005), Nhập môn Logic hình
thức và Logic phi hình thức, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
Khái Hưng (2010), Tuyển tập Tiếu lâm Việt Nam,
NXB Thời đại, Hà Nội.
Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, NXB
Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng.
Bùi Thanh Quất (1994), Giáo trình Logic hình
thức, NXB Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
Lý Toàn Thắng (2008), “Thử nhìn lại một số vấn
đề cốt yếu của ngôn ngữ học tri nhận”, Tạp chí
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 24, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
DEDUCTION IN VIETNAMESE CONVERSATIONS
(ON THE EVIDENCE OF 100 SELECTED COMIC STORIES)
DOAN CANH TUAN
Abstract: We initially analyzed, described the features of deduction formed through
communication and in thinking, confirmed the existence of deduction and gradually came to
categorize deduction as well as determine their mode of formation. In pragmatics’s perspective,
we would like to generalize the relationship between deduction and the context factor as well
as the factors (experience, psychology, society) belonging to the individual - the person who
receives the communicative message. Moreover, we emphasized the extremely important role of
both the speakers and the listeners in communication; When the speakers adhere to and apply the
principles of conversation, they will fundamentally achieve their aims of communication.
Keywords: context, communicate, deduction, individual, principles of coversation.
Received: 18/4/2018; Revised: 16/5/2018; Accepted for publication: 20/6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khnnqs_14_7_2018_12_18_doan_canh_tuan_2114_2136229.pdf