Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi - Phạm Anh Nguyên

Tài liệu Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi - Phạm Anh Nguyên: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sức hấp dẫn trong hài đàm của Phan Khôi - Phạm Anh Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 73 SỨC HẤP DẪN TRONG HÀI ĐÀM CỦA PHAN KHÔI Phạm Anh Nguyên* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Trong giai đoạn mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam, Phan Khôi (1887 -1959) là người tiên phong, mở đường với tư tưởng hiện đại và sự cách tân về phong cách nghị luận báo chí độc đáo, không trộn lẫn với bất cứ ai. Phong cách “rất Phan Khôi” ấy được định hình rõ nét nhất trong thể tài Hài đàm. Đó là những bài viết theo lối tạp văn và được coi là “đặc sản”, chiếm một số lượng rất lớn trong sáng tác báo chí của ông. Sự độc đáo và hấp dẫn của hài đàm Phan Khôi thể hiện ở trong kết cấu độc đáo, bất ngờ, lối kể chuyện hài hước, dí dỏm, trào lộng và nhất là ở thủ pháp liên tưởng. Từ khóa: Phan Khôi, Hài đàm, kết cấu bài độc đáo, thủ pháp liên tưởng, nghệ thuật châm biếm. ĐẶT VẤN ĐỀ * Trong những năm gần đây, tên tuổi và sự nghiệp báo chí của học giả Phan Khôi mới được nhiều người biết tới một cách rõ ràng hơn là dựa vào kết quả sưu tầm của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Cho đến nay, Lại Nguyên Ân đã công bố các tác phẩm báo chí của Phan Khôi viết từ năm 1928 đến năm 1943, đây là ngữ liệu căn bản cho nhiều nghiên cứu, đánh giá những đóng góp của Phan Khôi ở các lĩnh vực văn học nghệ thuật, triết học, lịch sử, ngôn ngữ, báo chí... Riêng về Hài đàm có hai tác giả đề cập tới: Năm 2013, trong luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học “Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật sáng tạo trong ngôn từ của nhà báo Phan Khôi” (Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên), tác giả Phạm Anh Nguyên tập trung vào việc phân tích các kiểu dạng bài báo để từ đó hệ thống hóa các thủ pháp nghệ thuật ngôn từ mà Phan Khôi thường sử dụng và bước đầu đề cập tới sự độc đáo trong cách viết Hài đàm [1]. Cho tới năm 2015, luận án tiến sĩ báo chí học đầu tiên nghiên cứu về Phan Khôi “Vai trò của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thể kỷ XX” (Học viện Báo chí và Tuyên truyền), tác giả Phạm Thị Thành chủ yếu đề cập tới vấn đề thể loại và nhận định các bài khôi hài của Phan Khôi mang đặc điểm tiểu phẩm báo chí [2]. Có thể thấy việc tìm hiểu về Hài đàm của Phan Khôi cần được giới nghiên cứu quan * Tel: 0913395451; Email: phamanhnguyennn17@gmail.com tâm hơn nữa, nhất là xem xét Hài đàm như là một thể tài báo chí mà Phan Khôi đã có công lao gây dựng. Trong sự nghiệp làm báo của mình, Phan Khôi viết rất nhiều thể loại, kiểu dạng bài khác nhau, từ những bài khảo luận, nghiên cứu công phu đăng nhiều kỳ tới những bài tranh luận sôi nổi gai góc, bài phê bình văn học sắc sảo cho đến làm thơ, dịch thuật, sáng tác tiểu thuyết. Ở thể loại nào Phan Khôi cũng để lại dấu ấn cá tính rõ nét, nhưng độc đáo nhất, gây ấn tượng nhất lại chính là các bài tạp văn ngắn có trong chuyên mục “Câu chuyện hằng ngày”, “Những điều nghe thấy” mà đương thời được độc giả mến mộ gọi tên là Hài đàm. Từ năm 1928 đến năm 1932 trong hai chuyên mục này Phan Khôi đã viết 1084 bài. Đặc trưng các bài hài đàm của Phan Khôi thể hiện trong kết cấu độc đáo, đặc biệt ngắn gọn, lối kể chuyện hài hước, dí dỏm, trào lộng và nhất là ở thủ pháp liên tưởng. Trên thực tế tờ Gia định báo (1865) – tờ báo quốc ngữ đầu tiên ra đời của Nam Kỳ, đã từng có những mục mang hơi hướng hài hước: “Chuyện đời xưa”, “Lựa nhón lấy những chuyện hay và có ích”, “Chuyện khôi hài” của Trương Vĩnh Ký. Đây có thể xem như là gợi ý ban đầu cho sự ra đời của các chuyên mục trào phúng trên báo chí Việt Nam sau này. Các cây bút lão luyện như Tản Đà, Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhất, Ngô Tất Tố... cũng đều viết trào phúng, hài đàm trên báo chí, song không đều đặn và chưa hẳn làm nổi bật thể tài này. Chỉ từ khi Phan Khôi viết Hài Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 74 đàm, góp những câu chuyện kể thì người đọc báo mỗi ngày mới quả thực là biết “câu chuyện hàng ngày” với đủ loại nội dung: từ các việc xảy ra hàng ngày tại đô thị Sài Gòn và mọi miền trong nước đến các sự kiện ở nước ngoài. Biết từ chuyện bầu cử của hội đồng quản hạt, chuyện ăn Tết, chuyện thiếu nước, chuyện giá gạo tăng đến chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện quân phiệt bên Tầu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây... và nổi bật lên là giọng điệu khi mỉa mai, lúc hài hước của tác giả. Hài đàm của Phan Khôi là những bài viết theo lối tạp văn và được coi là “đặc sản”, chiếm số lượng rất lớn trong sáng tác báo chí của ông “Lượng bài Phan Khôi viết và đăng trên Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng trên bất cứ tờ báo nào... Trước hết là mục hài đàm “Những điều nghe thấy” mà tòa soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông reo (10 ngày đầu lấy là Tha Sơn)”. Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục “Những điều nghe thấy” [3; tr. 18]. Để thể nghiệm thành công thể tài mới mẻ này trên báo chí ngoài sự học hỏi kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel và Georges de la Fouchardière trên các tờ Le Journal và L’Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời 1 thì ta thấy được trong lối viết hài đàm của Phan Khôi có sự kết hợp tinh tế của tạp văn ngắn (viết sắc, gọn) với trí liên tưởng thông minh giàu sức sáng tạo. Đây là việc không phải ai cũng làm được. Vì thế những tài năng khôi hài, những cây bút trào phúng trên báo chí như Phan Khôi quả thật xưa nay vẫn hiếm. 1 Georges de la Fouchardière (1874 – 1946) năm 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập ra tờ L’Oeuvre (xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước, hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến thứ II. Clément Vautel (1876 – 1954; bút danh: Đảo Let thành Tel): viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, Le Liberté..., đặc biệt giữ mực “Mon film” (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái nhìn rất “phải lẽ” của một “français moyen” (thường dân) được độc giả đương thời hâm mộ... Đây cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến thứ II. [4; tr.411-412] KẾT CẤU ĐỘC ĐÁO VÀ CÁCH KỂ CHUYỆN VỪA HOẠT BÁT, HIỆN ĐẠI THEO LỐI TÂY PHƯƠNG VỪA SÂU SẮC, THÂM THÚY CỦA NHO GIA Bài Hài đàm của Phan Khôi độc đáo trước hết là ở kết cấu nội dung ngắn gọn: Từ năm 1928 đến năm 1932 trong hai chuyên mục “Câu chuyện hằng ngày”, “Những điều nghe thấy” Phan Khôi đã viết 1084 bài Hài đàm, tất cả các bài này đều có dung lượng ngắn gọn khoảng 400 đến 1500 chữ, về cơ bản các bài Hài đàm này đều có lối viết dẫn dắt như “kể chuyện”. Đó là nhân có một sự kiện, vấn đề xã hội đã xảy ra, vừa mới diễn ra trong đời sống sinh hoạt thường ngày được Phan Khôi “mượn” coi như là cái cơ để đặt vấn đề, dẫn dắt người đọc. Với cách mở đầu như vậy đã góp phần làm nổi bật, sáng rõ thông tin đã tạo nên phong cách thông tấn báo chí cho các bài Hài đàm. Sự ngắn gọn còn được thể hiện rất rõ trong việc tổ chức các đoạn văn. Đa phần các bài Hài đàm có từ 7 – 15 đoạn, đoạn ngắn nhất là 1 câu và đoạn dài là từ 3 – 7 câu. Chẳng hạn bài “Cấm lạy còn lạy” (Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 773, ngày 21/08/1928) gồm 9 đoạn, 12 câu: (i) “Vừa rồi có người đọc báo gởi thơ đến xin bổn báo dịch đăng cái tờ thông tin của quan Thống đốc Nam Kỳ truyền cho các chủ tỉnh phải khuyên quan viên Lang Sa tùng sự trong các tỉnh đãi người An Nam cho có lễ phép (1). (ii) Song tôi nghĩ có gì đâu mà đăng (2). Và tôi cũng đã nói tử tế không đều do ở nơi mình (3). (iii) Nếu như mình thấy mặt ai, cứ cúi xuống lạy đùa, thì một trăm tờ thông tư như vậy cũng chẳng làm chi, huống là một tờ (4). (iv) Tôi còn nhớ ông đốc phủ kia, cứ mỗi năm đầu năm tây, khăn đen áo lớn, dắt mấy thằng nhỏ đi đến chúc mừng ông Thống đốc Nam Kỳ (5). Ông đó có tiếng hay lạy, nên một hôm, trước khi đi vô, mấy thầy đã dặn: Chuyến nầy đừng lạy, nghe quan lớn! (6) (v) Ấy vậy mà vô nói chỉ năm ba tiếng cũng cúi xuống mà cuốc dài, làm cho mấy thầy mặc đồ Lang Sa té lên té xuống gần chết. (7) (vi) Ta mà còn đê hèn như vậy, mong gì ai trọng ta ! (8) Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 75 (vii) Lạ thiệt, cái thói đụng ai lạy nấy như tuồng đã in thâm nhiễm vào óc mình bao giờ (9). Cho đến nỗi từ xưa vua Thành Thái đã ra chỉ dụ cấm dân không được lạy người sống, mà vẫn cứ cuốc như thường (10). (viii) Cấm lạy mà cứ lạy, thật là một chuyện xưa nay chưa từng có ! (11) (ix) Lạy thét, có khi khỏi phải tập thể thao!” (12) [5; tr. 546 -547] Hài đàm của Phan Khôi còn được hấp dẫn bởi cách đặt nhan đề độc đáo: Mang nặng và đẻ đau; Con chó giống ông giời; Cả nhà hay thơ; Cưới ít đẻ nhiều; Người Tây chép chuyện Tầu; Bệnh điên của người Tây; Các ông hội đồng nhà ta mỗi ông nên ở một cái nhà lầu... Màu sắc khôi hài trong Hài đàm của Phan Khôi được hiển lộ ngay từ nhan đề. Dù kiệm chữ và thường là từ ngữ mang tính khẩu ngữ nhưng bằng thủ pháp tương phản, nhan đề trong sáng tác nói chung và Hài đàm nói riêng của Phan Khôi hấp dẫn người đọc bởi nét hiện đại, hoạt bát. Nhưng có lẽ, lối kể chuyện hóm hỉnh, “tỉnh bơ” của Phan Khôi mới thực sự đem đến sự lôi cuốn kỳ lạ đối với độc giả. Chẳng hạn, như bài “Mang nặng và đẻ đau” (Báo Trung Lập, Sài Gòn, số 6385, ngày 07/03/1931). Hội bảo trợ nhân quyền gởi đơn lên Thượng đế xin giải quyết cho một bất công: đàn bà đã mang nặng lại phải đẻ đau, trong khi đàn ông chỉ hưởng cái sướng mà không chịu chung cái khổ. Thượng đế bèn ra lệnh: đàn bà đẻ, đàn ông đau. Lệnh truyền ra thấy nguy quá. Một bà nọ đẻ, chồng không thấy đau mà ông hàng xóm lại đau... [6; tr. 453- 454] Bài “Người Tây chép chuyện Tầu” (Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 733, ngày 19/06/1928) có kết cấu cực ngắn, như vậy. Thoạt đầu, người đọc bị hút vào câu chuyện đồ lục rùng rợn đang diễn ra ở nước Tầu qua lời thuật lại của một ký giả. Nhưng đọc đến dòng cuối cùng, thì mới vỡ nhẽ rằng: Đúng là Tây chép chuyện Tầu! Chuyện gọn chỉ có thế này: “Ôi, dân Tầu đương bị đồ lục một cách thê thảm. Bữa nọ tôi đương đi bỗng nghe thấy tiếng rầy rà, chạy lại thấy một người đi đường đương tranh biện với một tốp lính. Người kia vừa khóc vừa la: “Không phải tôi! Không phải tôi!”. Thình lình chú lính đứng đằng sau tuốt gươm ra mà chém người ấy, đầu rơi xuống đất... Rồi đó, lính tráng người ngựa tan đâu mất, chỉ còn lại cái thây không đầu nằm trơ ra đó, máu chảy ròng ròng. Một lát lại thấy lắm người trong quán chen nhau lại, lấy bánh mỳ chấm vào máu đó mà ăn. Nghe họ nói máu ấy có thể làm cho người ăn đặng khương kiện, khỏi bịnh hoạn gì hết...”. Chuyện hết là ở lời nhắc của Phan Khôi: “Văn cô chép hay lắm. Song cô ta quên mất một điều là Hán khẩu không có ăn bánh mỳ như dân Paris vậy đâu” [5; tr. 201-202]. Giọng kể tưng tửng, nhưng ngoắt một cái lại nảy ra cái kết bất ngờ cùng tiếng cười đầy ẩn ý. Hay bài “Cả nhà cùng hay thơ” (Báo Trung lập, Sài Gòn, số 6393, ngày 17/03/1931) cũng chỉ là một chuyện vui nhưng kết cấu quả là độc đáo vì kể chuyện bằng thơ. Mở đầu câu chuyện chỉ có vài lời dẫn: “Thiên hạ có kẻ đa sự thuật chuyện đời xưa có một nhà kia tuy chẳng phải là con cháu cụ Lý Thái Bạch nhưng cả nhà đều hay thơ” [6. tr. 467], trong nhà ông bố thì ham rượu chè, thằng con thì thích cờ bạc. Một bận ông bố đang đánh chén thấy thằng con cờ bạc về, thì nổi đóa mắng bằng thơ: Ắc lặn xăm xăm tới, Gà kêu lủi thủi về, Chục lớn hết, chục nhỏ hết; Ghê! Thấy ông già đương đánh chén, thằng con cũng liền đáp ngay lại một bài: Một năm mười hai tháng, Một tháng ba mươi ngày Tĩn lớn hết, tĩn nhỏ hết; Say! Bà mẹ đương loay hoay trong nhà, nghe hai cha con đương khẩu ó, thì vừa chạy ra vừa đọc: Ốc ngỡ mình ốc vặn, Hay đâu ốc lại trường; Lẩn thẩn chê con chạch, Lươn! Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 76 Con dâu bấy giờ đương quét dọn ở nhà dưới, nghe nhà trên ba cha con làm om sòm, chị ta cũng chống cây chổi mà ngâm rằng: Ngó lên vách phên đổ; Ngó xuống mâm bát rơi, Cha rứa, con rứa, Thôi!... [6; tr. 467 - 468] Kết cấu bài ngắn gọn, cách viết hài hước của ông vừa hoạt bát hiện đại theo lối Tây phương vừa mang ý nghĩa thâm thúy của một nhà nho. Các bài Hài đàm của Phan Khôi không chỉ hài hước, kể chuyện vui mà ẩn chứa sự châm biếm sâu sắc. THỦ PHÁP LIÊN TƯỞNG - NGHỆ THUẬT TẠO TIẾNG CƯỜI CHÂM BIẾM, TRÀO PHÚNG, HÓM HỈNH Liên tưởng là thủ pháp cơ bản được Phan Khôi sử dụng tài tình trong Hài đàm, để tạo ra tiếng cười đả kích, châm biếm, trào phúng. Thường thì, nhân một sự kiện nào đó, một tin tức thời sự trong nước hay trên thế giới, ông liên tưởng tới mặt tiêu cực nào đó trong xã hội đương thời, tạo ra mâu thuẫn nực cười. Liên tưởng càng bất ngờ, tác dụng gây cười càng thú vị. Bài “Các ông hội đồng ta mỗi ông nên ở một cái nhà lầu” (Báo Trung Lập, Sài Gòn, số 6338, ngày 03/01/1931) là một trong những bài đặc sắc sử dụng biện pháp liên tưởng. Nhân có một tờ báo Pháp đưa tin: “Một người đàn ông tên Benjamin Darston, ở Tinsley, gần Sheffield vốn là cựu chiến binh. Khi đi đánh giặc trong trận đại chiến 1914 - 1918 trở về thì anh ta mang lấy một lần ba cái tật, vừa đui, vừa câm, vừa điếc. Đã 12 năm nay, chàng Benjamin sống trong một cái đời rất là thảm sầu về hy vọng, thôi không còn chỗ nói. Mới rồi chàng va ở nhà đơn độc có một mình, men mo đi dạo chỗ phòng mình ở cho khuây, kẻo sợ ngồi nằm dài ngày cuồng cẳng. Rồi sẩy chưn một cái, Benjamin té xuống thang lầu, nhè gãy phứt đi một cánh tay nữa (...) Ai hay trong sự rủi mà lại có sự may bất ngờ. Sau khi té gãy tay, va điếng ngất đi một chặp, rồi bỗng dưng con mắt thấy ra, lỗ tai nghe ra, và miệng nói ra được” [6; tr. 374 - 375], Phan Khôi bèn liên tưởng tới các ông nghị, các ông nên ở nhà lầu, nhà lầu có thang gác. Các ông leo lên leo xuống có thể ngã. Nhờ đó may ra các ông mới khỏi mù, khỏi câm, khỏi điếc. Một liên tưởng quá bất ngờ, tạo nên đòn đả kích ác hiểm đối với các ông nghị gật. “Bệnh điên của người Tây” (Báo Trung Lập, Sài Gòn, số 6352, ngày 21/1/1931) là một bài đặc sắc bởi có ý nghĩa rất sâu sắc, đồng thời tạo ra tiếng cười đầy cay đắng, chua chát, cười ra nước mắt: Một thông tin thời sự nóng hổi cho biết, Giorgi là người Tây, làm nghị viên phòng canh nông đã vô cớ mà đánh chết một người An Nam. Ông ta khai trước tòa là mắc bệnh điên, nên không biết gì cả. Thế là tòa xử trắng án. Phan Khôi liền liên tưởng, so sánh, nói rằng Tây với ta khác nhau đủ thứ, điên cũng khác nhau: “Người mình nếu là điên thì phần nhiều phát ra nói bậy bạ, thậm chí xé áo xé quần, đi dồng dỗng ngoài đường phố mà không biết xấu hổ... Cái điên của người Tây là điên theo kiểu văn minh, khác hẳn với cái điên kiểu An Nam mới vừa nói đó. Coi một chút đó thì biết cái trình độ dân tộc Âu Châu đã tấn bộ, cái điên cũng tiến bộ” [6; tr. 397]. Giogri được bác sĩ xác nhận là điên chính cống, nhưng vẫn khỏe mạnh: “Bình nhựt ông ở trong nghị viện, nói năng cử chỉ chẳng có khác gì mấy ông nghị viên kia, chẳng hề lộ ra vẻ gì là điên hết. Người ta lại năng gặp ông ấy đi ngoài đường, mặc quần trắng áo đen giắt khăn đỏ nơi túi áo trên, tay cầm gậy, uy nghi cùng tề chỉnh, chẳng chút sai ngoa” [6; tr. 398]. Có những bài sự độc đáo còn là ở việc nhận định và phân tích vấn đề sắc sảo. Trong bài Ít lời lạm bàn đề chánh sách của ông Parquier, quan toàn quyền mới Đông Pháp (Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 762, ngày 30/08/1928) là một bài như vậy. Từ phát ngôn của Pasquier trước báo giới là: “... sẽ noi theo chánh sách của hết thảy các quan tiền lỵ mà chánh sách ấy tức là của nước Pháp; ngài định ý thiệt hành cuộc liên lạc các phần tử lương thiện ở bổn xứ với dân Lang Sa, chẳng hề dung thứ cho sự phiến động hoặc sự gì đụng chạm đến trật tự và trị an, là những Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 77 điều cần cho cuộc tấn bộ của thuộc địa" [5; tr. 81]. Thoạt nghe lời tuyên bố chính sách này có vẻ logic nhưng sau khi Phan Khôi phân tích, sẽ thấy đây là một chính sách kỳ dị. Bởi mỗi quan toàn quyền có chính sách cai trị khác xa nhau. Ông Pasquier có sự nhầm lẫn giữa quan niệm về đạo đức với chính trị: về đạo đức, có thể cho phép một người gồm đủ các cái hay; về chánh trị, lẽ nào đã theo lối thành thiệt của ông Van Vallanhoven lại còn theo lối tinh khôn của ông Sarraut; đã theo cách quả quyết của ông Merlin lại còn theo cách do dự của ông Varenne sao được? Nếu làm được ông Pasquier là ông thánh! Các chính sách cai trị của mỗi quan tuy có khác nhau, song có một điểm chung là quyết không dung thứ cho những ai chống lại. Đặc sắc ở chỗ, chỉ có vài dòng mà Phan Khôi đã lột tả được bản chất chính sách cai trị của thực dân là bóc lột, chỉ viết quyết không dung thứ cho phiến động, mà không tìm hiểu chính sách đó đã hợp với lòng dân chưa? Dân không phục thì mới có loạn. Xin dẫn thêm một câu chuyện khác. Có một thông tin: Ở Trung Quốc Lư Tín vừa xuất bản một cuốn sách là “Bất triệt để” nghĩa là “không tới nơi”. Cuốn sách nói rằng không thể biết được tới nơi, biết triệt để một việc gì hết. Như vũ trụ vô cùng, không thể biết được giới hạn của nó. Cuốn sách kết luận “sự nghĩ, sự biết, sự làm, đừng yêu cầu tới nơi làm gì”. Phan Khôi bèn viết “Không tới nơi” (Báo Trung lập, Sài Gòn, số 6377, ngày 26/02/1931). Ông liên hệ với nước mình: “Giống theo cách học thuyết này có lẽ An Nam ta đúng lắm. Cái gì chúng ta cũng có mà cái gì cũng không ra cái gì cả, cái gì cũng không tới nơi !” [6; tr. 440]. Mượn chuyện Tây để nói chuyện ta, chuyện cổ nói chuyện kim thông qua đường dây liên tưởng là thủ pháp ưa dùng của Phan Khôi. Ông đọc báo Tây thấy đăng chuyện lạ khỉ biết nói, có thể vác 425 đến 630 kg, có sức mạnh gấp ba, bốn người thợ tráng kiện, ông bèn liên tưởng đến công việc lao động nặng nhọc, nguy hiểm tính mạng của công nhân người Việt bị bóc lột ở đồn điền cao su: “... một ngày kia, khỉ làm việc thế cho mình. Phải đặng vậy đã khỏi xảy ra mấy cái án mạng về chuyện cao su” (Khỉ biết nói chuyện, Báo Thần chung, Sài Gòn, số 36, ngày 28/02/1929) [7; tr. 251]. Hay được biết người ta thành lập một hội nghiên cứu triết học. Hội này đưa ra cái thuyết “Không biết được” (Agnosticisme: thuyết bất khả tri). Ông liền viết bài “Không biết được” (Báo Trung lập, Sài Gòn, số 6347, ngày 15/01/1931) để chế giễu Hội Nam kỳ cứu tế nạn dân và ông Nguyễn Phan Long, chủ tờ báo Đuốc nhà Nam thu chi tiền không minh bạch. Hội Nam kỳ cứu tế nạn dân vận động quyên góp được 4000 đồng mà ỉm đi. Khi được hỏi, trả lời “Không biết được!”; còn ông Nguyễn Minh Doãn hùn vốn cho báo Đuốc nhà Nam để kinh doanh. Ông ta hỏi Nguyễn Phan Long lời lỗ ra sao. Trả lời “Không biết được”. Kết luận: Thế là Việt Nam đã có cái học thuyết “Không biết được” rồi không cần tìm đến cái triết học Agnosticisme ti xiếc bên Tây làm gì [6; tr. 388]. Phan Khôi chú trọng xây dựng tác phẩm bằng thông tin sự kiện hơn là chú ý tới xây dựng hình tượng, điển hình hóa giống như cách viết tiểu phẩm của các nhà văn, nhà báo đương thời. Do vậy các bài hài đàm của ông mang đặc trưng của ngôn ngữ báo chí hơn là ngôn ngữ văn học. Cách tổ chức tác phẩm của ông là đi thẳng vào vấn đề mang tính thời sự mà dư luận đang quan tâm. Trong đó phép liên tưởng là thủ pháp nghệ thuật thường được sử dụng để gây sự bất ngờ, hấp dẫn tạo nên giá trị cho tác phẩm. KẾT LUẬN Phan Khôi hoạt động trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa – tư tưởng, nghiên cứu – học thuật cho tới sáng tác – dịch thuật. Dù ở bất cứ lĩnh vực nào Phan Khôi vẫn luôn hiện diện với tư cách là nhà báo chuyên nghiệp dùng ngôn luận tác động vào nhận thức của xã hội theo hướng đổi mới. Bằng chính lao động sáng tạo và với vai trò là người viết chính trong các chuyên mục “Câu chuyện hằng ngày”, “Những điều nghe thấy” trên các tờ báo Trung lập, Thần chung, Đông Pháp thời báo từ năm 1928 đến 1932, Phan Khôi đã có Phạm Anh Nguyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 73 - 78 78 những đóng góp mang tính chất “khai phá - mở đường” góp phần quan trọng cho việc định hình và phát triển thể tài Hài đàm trên báo chí tại Việt Nam. Viết Hài đàm với nhiều thủ pháp nghệ thuật độc đáo, Phan Khôi đã tạo nên một phong cách báo chí tân kỳ, độc đáo, hấp dẫn, khác biệt – không thể lẫn với ai – trong thời kỳ đầu của lịch sử báo chí Việt Nam giai đoạn Đông Tây đụng độ, tân cựu giao tranh. TAI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Anh Nguyên (2013), Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật sáng tạo trong ngôn từ của nhà báo Phan Khôi, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. 2. Phạm Thị Thành (2015), Vai trò của Phan Khôi đối với báo chí Việt Nam đầu thể kỷ XX, Luận án tiến sĩ báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 3. Lại Nguyên Ân (2008), “Phạm trù của chủ nghĩa cá nhân thuộc phạm trù tư tưởng phương Tây trong sự lý giải của Phan Khôi”, Tạp chí Văn học, số 12. 4. Lại Nguyên Ân (2009), Mênh mông chật chội, Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và và biên soạn), (2003), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, Nxb Đà Nẵng. 6. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và và biên soạn), (2007), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 7. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và và biên soạn), (2004), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1929, Nxb Đà Nẵng. SUMMARY THE ATTRACTION IN “HAI DAM” OF PHAN KHOI Pham Anh Nguyen* TNU - University of Sciences At the beginning of the history of Vietnamese journalism, Phan Khoi (1887-1959) was a pioneer with modern thought and innovation in the style of journalistic press, not mixed with whoever. The style "very Phan Khoi" is shaped most clearly in the "Hai dam". These are literary works and are considered "specialties", accounting for a great deal of his writing. The attraction of “Hai dam” Phan Khôi shows in the unique structure, surprise, funny storytelling, witty, whispering and especially in the association of ideas. Keywords: Phan Khoi, "Hai dam", unique post structure, associated methods, sarcastic art. Ngày nhận bài: 21/5/2018; Ngày phản biện: 12/6/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0913395451; Email: phamanhnguyennn17@gmail.com oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf348_376_1_pb_8459_2127100.pdf
Tài liệu liên quan