Tài liệu Sự tương hợp giữa xếp loại thể lực theo chỉ số pignet và theo bài kiểm tra của Nhật Bản ở sinh viên khoa y tế công cộng Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 273
SỰ TƯƠNG HỢP GIỮA XẾP LOẠI THỂ LỰC THEO CHỈ SỐ PIGNET
VÀ THEO BÀI KIỂM TRA CỦA NHẬT BẢN Ở SINH VIÊN KHOA Y TẾ
CÔNG CỘNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Viên Đặng Khánh Linh*, Mai Thị Thanh Thuý*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, thể lực thường được đánh giá qua các chỉ số nhân trắc. Chỉ số Pignet được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về thể lực tại Việt Nam. Thanh niên Việt nam có sức bền chung của thể lực
xếp loại rất kém so với thanh thiếu niên Nhật. Tại Nhật, để khảo sát và nghiên cứu về thể lực, bài kiểm tra thể lực
Nhật Bản (JPFT) đã được sử dụng từ năm 1999.
Mục tiêu: Xác định xếp loại thể lực (XLTL) theo chỉ số Pignet và theo JPFT ở sinh viên khoa YTCC từ 20-
24 tuổi và sự tương hợp giữa hai cách thức xếp loại này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 180 sinh viên
(87 nam và 93 nữ) từ 20 đến 24 tuổi học tập tại k...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tương hợp giữa xếp loại thể lực theo chỉ số pignet và theo bài kiểm tra của Nhật Bản ở sinh viên khoa y tế công cộng Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 273
SỰ TƯƠNG HỢP GIỮA XẾP LOẠI THỂ LỰC THEO CHỈ SỐ PIGNET
VÀ THEO BÀI KIỂM TRA CỦA NHẬT BẢN Ở SINH VIÊN KHOA Y TẾ
CÔNG CỘNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Viên Đặng Khánh Linh*, Mai Thị Thanh Thuý*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ở Việt Nam, thể lực thường được đánh giá qua các chỉ số nhân trắc. Chỉ số Pignet được sử
dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về thể lực tại Việt Nam. Thanh niên Việt nam có sức bền chung của thể lực
xếp loại rất kém so với thanh thiếu niên Nhật. Tại Nhật, để khảo sát và nghiên cứu về thể lực, bài kiểm tra thể lực
Nhật Bản (JPFT) đã được sử dụng từ năm 1999.
Mục tiêu: Xác định xếp loại thể lực (XLTL) theo chỉ số Pignet và theo JPFT ở sinh viên khoa YTCC từ 20-
24 tuổi và sự tương hợp giữa hai cách thức xếp loại này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành trên 180 sinh viên
(87 nam và 93 nữ) từ 20 đến 24 tuổi học tập tại khoa Y Tế Công Cộng, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh với
phương pháp chọn mẫu phân tầng theo giới của từng ngành học, áp dụng quy trình của JPFT, bộ câu hỏi tự
điền và đo đạc các chỉ số nhân trắc.
Kết quả: Theo chỉ số Pignet, phần lớn sinh viên xếp loại Rất yếu, chiếm 53,3%, loại Yếu chiếm 10%, 7,2%
loại Trung bình, 21,1% loại Khoẻ và 8,3% loại Rất khoẻ. Theo JPFT, kết quả XLTL chủ yếu là loại E chiếm 50,5%
(tương đương Rất yếu), 35,0% loại D (Yếu), 12,8% loại C (Trung bình), 1,7% loại B (Khoẻ) và 0% loại A (Rất
khoẻ). Không có sự tương hợp có ý nghĩa thống kê giữa XLTL theo JPFT với XLTL theo chỉ số Pignet.
Kết luận: XLTL theo JPFT không có sự tương hợp có ý nghĩa thống kê với XLTL theo chỉ số Pignet. Tuy
nhiên, cần có nghiên cứu đánh giá tính giá trị và độ tin cậy của JPFT đối với người Việt Nam.
Từ khóa: thể lực, bài kiểm tra thể lực Nhật Bản, thanh niên Việt Nam, nhân trắc, chỉ số Pignet
ABSTRACT
THE CONSISTENCY BETWEEN FITNESS CLASSIFICATION BY PIGNET INDEX AND BY JAPANESE
PHYSICAL FITNESS TEST AMONG STUDENTS IN FACULTY OF PUBLIC HEALTH, UNIVERSITY
OF MEDICINE AND PHARMACY AT HO CHI MINH CITY
Vien Dang Khanh Linh, Mai Thi Thanh Thuy
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 273-278
Background: In Vietnam, physical fitness was often assessed by anthropometric indexes. Pignet index has
been used widely in Vietnam’s physical fitness researches. Vietnamese youth have cardiorespiratory fitness ranked
very poor compared to Japanese youth. In Japan, to examine and study physical fitness, the Japanese Physical
Fitness Test (JPFT) has been used since 1999.
Objectives: To determine the fitness classification of students from 20-24 years old studying at Public
Health Faculty using Pignet index and JPFT and to identify the consistency between these two methods.
Subjects and methods: A cross-sectional study was conducted on 180 students (87 males and 93 females)
from 20 to 24 years old studying at Faculty of Public Health, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi
Minh city. A stratified sampling technique by gender for each major using JPFT, self-reported questionnaire and
*Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Viên Đặng Khánh Linh ĐT: 0398498177 Email: caitlin.yds@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 274
anthropometric indexes measurement was applied.
Results: According to Pignet index, the fitness rank is mainly Very poor (53.3%), 10% rank Poor,
7.2% rank Average, 21.1% rank Good and 8.3% rank Very good. According to JPFT, rank E (equivalent to
Very poor) has the highest proportion at 50.5%, 35.0% rank D (Poor), 12.8% rank C (Average), 1.7% rank
B (Good), and 0% rank A (Very good). There is no statistically significant consistency between fitness
classification by JPFT and by Pignet index.
Conclusions: Fitness classification by Pignet index has no statistically significant consistency with
classification by JPFT. However, there should be a study evaluating the validity and reliability of JPFT for
Vietnamese people.
Keywords: physical fitness, Japanese physical fitness test, Vietnamese youth, anthropometry, Pignet index
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể lực là năng lực chức năng của một người
để thực hiện một số loại nhiệm vụ nhất định đòi
hỏi hoạt động cơ bắp(3), là tập hợp các thuộc tính
có sẵn hoặc đạt được qua luyện tập(2). Thể lực có
thể chia thành hai nhóm: nhóm liên quan đến
sức khỏe và nhóm liên quan đến các kỹ năng thể
thao; trong đó, nhóm đầu tiên có ý nghĩa và
quan trọng với sức khỏe cộng đồng hơn. Các yếu
tố của thể lực liên quan đến sức khỏe bao gồm
năm thành phần: sức bền hệ tim mạch-hô hấp,
sức bền cơ bắp, sức mạnh cơ bắp, thành phần cơ
thể và sự linh hoạt(2). Để đo lường các yếu tố
này, có rất nhiều bài kiểm tra thể lực đã được
thực hiện ở các nước trên thế giới và JPFT là một
trong số đó(10). JPFT đã được Bộ Giáo dục, Khoa
học và Công nghệ Nhật Bản sử dụng trong khảo
sát thống kê quốc gia thường niên về thể lực và
khả năng vận động từ năm 1999 đến nay(10).
Mặt khác, tại Việt Nam, mức phát triển thể
lực cũng thường được đánh giá qua các chỉ số
nhân trắc như Broca – Brugseh, Quetelet, QVC,
C.I... nhưng chỉ số Pignet được sử dụng rộng
rãi hơn cả(6,7,9). Theo Báo cáo quốc gia năm
2015, thanh thiếu niên Việt Nam có sức bền
chung của thể lực và chỉ số công năng tim
trong vận động xếp loại rất kém so với thanh
thiếu niên Nhật(1). Việt Nam và Nhật Bản cùng
thuộc khu vực Đông Á, có nét tương đồng về
dân cư, chủng tộc nên việc áp dụng JPFT cho
người Việt có thể chấp nhận được. Ngoài ra,
khoa YTCC có mối quan hệ hợp tác với đại học
“Sức khoẻ và phúc lợi xã hội Takasaki”,
Gunma, Nhật Bản và có sinh viên đã từng
được tham gia JPFT tại Nhật. Vì vậy, nghiên
cứu này được tiến hành để xếp loại thể lực
sinh viên khoa YTCC từ 20-24 tuổi theo chỉ số
Pignet và theo JPFT, từ đó xác định sự tương
hợp giữa hai cách thức xếp loại này. Kết quả
nghiên cứu sẽ giúp mô tả thực trạng thể lực
sinh viên khoa YTCC và tạo tiền đề cho các
nghiên cứu tiếp theo tìm ra tiêu chuẩn vàng
trong đánh giá thể lực thanh niên Việt Nam.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành
từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2018 trên 180 sinh
viên (87 nam và 93 nữ) thuộc khoa Y Tế Công
Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Nghiên
cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu phân tầng
theo giới của từng ngành học của khoa. Tiêu chí
chọn vào là sinh viên hệ chính quy từ 20 đến 24
tuổi đang học tập tại khoa YTCC nằm trong
danh sách lấy mẫu và đồng ý tham gia nghiên
cứu. Tiêu chí loại ra là sinh viên không thực hiện
đủ các nội dung trong JPFT, sinh viên khuyết tật,
tàn tật hoặc mắc các loại bệnh không thể vận
động với cường độ và khối lượng cao.
Phương pháp thu thập số liệu
Quy trình tiến hành JPFT và phiếu điền kết quả
JPFT được tiến hành chuyển ngữ từ tiếng Nhật
sang tiếng Việt. Sinh viên đồng ý tham gia
nghiên cứu sẽ lần lượt thực hiện các bước:
Bước 1
Trả lời 7 câu hỏi tự điền về thông tin nền là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 275
họ tên, tuổi, giới, dân tộc, tôn giáo, quê quán và
ngành học.
Bước 2
Kiểm tra tình trạng sức khoẻ dựa vào phiếu
ghi nhận về tiền căn bệnh tim mạch, hô hấp, cơ
xương khớp và chấn thương, bất thường sức
khoẻ hoặc tên bệnh và thuốc điều trị hiện tại nếu
có, kết hợp với đo nhịp tim, huyết áp tại thời
điểm nghiêncứu để quyết định việc sinh viên có
thể thực hiện JPFT hay phải hoãn hoặc hủy bỏ.
Bước 3
Đo đạc và ghi nhận ba thông số nhân trắc
gồm: cân nặng, chiều cao và vòng ngực trung
bình bởi giám sát viên. Từ đó tính được các chỉ
số sau theo công thức:
Chỉ số BMI (kg/m2) =
Chỉ số Pignet = Chiều cao (cm) – (Cân nặng
(kg) + Vòng ngực trung bình (cm)).
Kết quả của chỉ số thể lực Pignet được đánh
giá theo 5 mức: Rất khoẻ ( <10,0); Khoẻ (10,1-
20,0); Trung bình (20,1-25,0); Yếu (25,1-30,0) và
Rất Yếu (>30)(8).
Bước 4
Thực hiện JPFT. Quy trình tiến hành JPFT
tuân theo “Hướng dẫn thực hiện bài kiểm tra thể
lực dành cho lứa tuổi từ 20 đến 64 tuổi” của Bộ
Giáo dục, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản, bao
gồm 6 nội dung: Lực nắm bàn tay, Nằm ngửa
gập bụng, Gập toàn thân đẩy xa, Bật xa tại chỗ,
Nhảy đổi bên lặp lại và Chạy con thoi 20m nhiều
giai đoạn (Hình 1). Kết quả mỗi nội dung được
ghi nhận và quy đổi ra điểm số trên thang điểm
10, sau đó tính điểm tổng thể lực của cả 6 nội
dung và từ đó xếp loại thể lực ở 5 mức A, B, C,
D, E theo thang điểm đối chiếu có sẵn, trong đó
mức A tương đương với thể lực Rất khoẻ (điểm
tổng ≥ 50); mức B là thể lực Khoẻ (49 ≥ điểm tổng
≥ 44); mức C là thể lực Trung bình (43 ≥ điểm
tổng ≥ 37), mức D là thể lực Yếu (36 ≥ điểm tổng
≥ 30) và mức E là thể lực Rất Yếu (29 ≥ điểm
tổng)(10).
Các chỉ số, kết quả của người tham gia được
ghi nhận bởi giám sát viên đã được tập huấn kỹ
về quy trình. Quá trình thu thập dữ liệu được
tiến hành đến khi đủ cỡ mẫu cần thiết.
Công cụ thu thập dữ liệu
Công cụ thu thập dữ liệu là bộ câu hỏi soạn
sẵn, phiếu điền các thông số nhân trắc và kết quả
thực hiện bài kiểm tra thể lực Nhật Bản – JPFT.
Phân tích số liệu
Các biến định tính được mô tả bằng tần số
và tỉ lệ phần trăm. Các biến định lượng phân
phối bình thường được mô tả bằng trung bình,
độ lệch chuẩn và giá trị nhỏ nhất, lớn nhất. Kiểm
định t được dùng để so sánh sự khác biệt về các
chỉ số nhân trắc giữa hai giới. Chỉ số Cohen’s
Kappa dùng để đánh giá sự tương hợp giữa
XLTL theo JPFT và XLTL theo chỉ số Pignet. Tất
cả phân tích được thực hiện bằng phần mềm
Stata 13.0.
Y đức
Toàn bộ quá trình của nghiên cứu được sự
chấp thuận về khía cạnh đạo đức của Hội Đồng
Đạo Đức trong nghiên cứu Y Sinh Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh, số: 236/ĐHYD-HĐĐĐ,
kí ngày 15/05/2018.
Hình 1. Các nội dung của JPFT
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 276
KẾT QUẢ
Trong tổng số 220 sinh viên nằm trong
danh sách mời tham gia nghiên cứu có 27 sinh
viên từ chối tham gia, 8 sinh viên có tình trạng
sức khỏe không đủ tốt (sốt, nhức đầu, chóng
mặt, chấn thương) tại thời điểm tiến hành
JPFT nên phải hoãn nhưng không hẹn được
ngày khác quay lại và 5 sinh viên không thực
hiện đủ 6 nội dung của JPFT. Như vậy, với tỉ lệ
mất mẫu thực tế là 18,2%, tổng cộng nghiên
cứu thu thập được thông tin trên 180 sinh viên,
bao gồm 87 nam và 93 nữ.
Theo Bảng 1, đối tượng tham gia nghiên cứu
là nữ nhiều hơn nam, với tỉ lệ lần lượt là 51,7%
và 48,3%. Độ tuổi trung bình chung là 21,6 ± 1,4
tuổi, trong đó nhỏ nhất là 20 tuổi và lớn nhất là
24 tuổi. Ở cả hai giới, sinh viên là người dân tộc
Kinh, không tôn giáo, sống ở nông thôn và học
ngành Y Học Dự Phòng đều chiếm tỉ lệ từ 65,0%
trở lên. Vì vậy, xét chung, có tới 81,1% sinh viên
thuộc dân tộc Kinh, 72,2% không theo tôn giáo
nào, 71,1% quê ở vùng nông thôn và 76,1% đến
từ ngành Y Học Dự Phòng.
Bảng 1. Đặc điểm nền của đối tượng nghiên cứu theo
giới
Đặc điểm nền
Nam (n=87) Nữ (n=93)
Chung
(n=180)
N (%) N (%) N (%)
Tuổi* 21,9 ± 1,4 21,3 ± 1,3 21,6 ± 1,4
Giới tính 87 (48,3) 93 (51,7) 180 (100,0)
Dân tộc
Kinh
Khác
67 (77,0)
20 (23,0)
79 (85,0)
14 (15,0)
146 (81,1)
34 (18,9)
Tôn giáo
Không tôn giáo
Phật giáo
Thiên chúa giáo
Khác
61 (70,1)
10 (11,5)
10 (11,5)
6 (6,9)
69 (74,2)
12 (12,9)
8 (8,6)
4 (4,3)
130 (72,2)
22 (12,2)
18 (10,0)
10 (5,6)
Quê quán
Thành thị
Nông thôn
23 (26,4)
64 (73,6)
29 (31,2)
64 (68,8)
52 (28,9)
128 (71,1)
Ngành học
Y Học Dự Phòng
Y Tế Công Cộng
72 (82,8)
15 (17,2)
65 (69,9)
28 (30,1)
137 (76,1)
43 (23,9)
* Trung bình ± độ lệch chuẩn
Theo kết quả trình bày trong bảng 2, giá trị
trung bình của các chỉ số cân nặng, chiều cao,
BMI, vòng ngực trung bình của giới nam đều
cao hơn so với giới nữ và sự khác biệt này giữa
2 giới đều có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Giá
trị trung bình của chỉ số Pignet ở nam giới
thấp hơn so với nữ giới, đạt 21,1±17,2, trong đó
giá trị thấp nhất là -37,0 và giá trị lớn nhất là
56,0. Ở nữ giới, chỉ số Pignet có giá trị trung
bình là 36,2±10,8 và không ghi nhận giá trị âm
nào, thấp nhất là 3,0 và cao nhất là 67,4. Sự
khác biệt về giá trị trung bình của chỉ số Pignet
giữa 2 giới là có ý nghĩa thống kê với p <0,001.
Bảng 2. Đặc tính của các chỉ số nhân trắc theo giới
Chỉ số nhân
trắc
Giới tính
Giá trị
p
Nam (n=87) Nữ (n=93)
TB
(ĐLC)
GTNN
GTLN
TB
(ĐLC)
GTNN
GTLN
Cân nặng
(kg)
61,9
(10,7)
43,3
101,0
48,8
(6,4)
35,0
66,0
<0,001**
Chiều cao
(cm)
167,9
(6,1)
155,0
182,0
156,2
(5,7)
146,0
180,0
<0,001*
Chỉ số BMI
21,9
(3,5)
15,4
32,6
20,0
(2,6)
14,4
29,0
<0,001**
Vòng ngực
trung bình (cm)
84,9
(7,8)
71,0
112,0
71,2
(5,0)
62,0
84,0
<0,001**
Chỉ số Pignet
21,1
(17,2)
-37,0
56,0
36,2
(10,8)
3,0
67,4
<0,001**
TB: Trung bình ĐLC: Độ lệch chuẩn
GTNN: Giá trị nhỏ nhất GTLN: Giá trị lớn nhất
(*) kiểm định t với phương sai đồng nhất
(**) Kiểm định t với phương sai không đồng nhất
Kết quả XLTL theo chỉ số Pignet (Bảng 3) cho
thấy ở giới nam, loại Khoẻ chiếm tỉ lệ cao nhất
(32,2%), còn ở giới nữ, loại Rất yếu chiếm đa số
(77,4%). Tuy nhiên xét chung, phần lớn sinh viên
xếp loại Rất yếu (53,3%), tiếp đó là loại Khoẻ với
21,1%, tỉ lệ các loại còn lại chênh lệch nhau
không nhiều với 10,0% loại Yếu, 8,3% loại Rất
khỏe và 7,2% loại Trung bình.
Bảng 3. Kết quả xếp loại thể lực theo chỉ số Pignet(8)
Xếp loại thể lực
Nam
(n=87)
n (%)
Nữ
(n=93)
n (%)
Chung
(n=180)
n (%)
Rất khoẻ 14 (16,1) 1 (1,1) 15 (8,3)
Khoẻ 28 (32,2) 10 (10,8) 38 (21,1)
Trung bình 10(11,5) 3 (3,2) 13 (7,2)
Yếu 11 (12,6) 7 (7,5) 18 (10,0)
Rất yếu 24 (27,6) 72 (77,4) 96 (53,3)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 277
Xét kết quả XLTL theo JPFT (Bảng 4), điểm
giống với XLTL theo chỉ số Pignet là loại E
(tương đương loại Rất yếu) đều chiếm tỉ lệ cao
nhất ở giới nữ (46,2%) và khi xét chung hai giới
(50,5%). Mặt khác, hơn một nửa nam sinh viên
cũng có kết quả XLTL theo JPFT là loại E với tỉ lệ
55,2%. Kế đó là loại D với tỉ lệ lần lượt là 31,0%
và 38,7% ở giới nam và giới nữ. Tiếp theo là loại
C chỉ chiếm tỉ lệ 10,3% ở nam giới và 15,1% ở nữ
giới. Chỉ có 3 sinh viên nam đạt loại B chiếm tỉ lệ
3,5%. Không ghi nhận bất kì sinh viên nào đạt
loại A.
Bảng 4. Kết quả xếp loại thể lực theo JPFT(10)
Xếp loại thể lực
Nam
(n=87)
n (%)
Nữ
(n=93)
n (%)
Chung
(n=180)
n (%)
A
(Rất khoẻ)
0
(0,0)
0
(0,0)
0
(0,0)
B
(Khoẻ)
3
(3,5)
0
(0,0)
3
(1,7)
C
(Trung bình)
9
(10,3)
14
(15,1)
23
(12,8)
D
(Yếu)
27
(31,0)
36
(38,7)
63
(35,0)
E
(Rất yếu)
48
(55,2)
43
(46,2)
91
(50,5)
Bảng 5. So sánh sự tương hợp giữa XLTL theo JPFT
và XLTL theo chỉ số Pignet
Xếp loại
thể lực
theo JPFT
Xếp loại thể lực theo chỉ số Pignet
Tổng
hàng Rất
khoẻ
Khoẻ
Trung
bình
Yếu
Rất
yếu
A 0 0 0 0 0 0
B 1 0 1 0 1 3
C 0 4 1 2 16 23
D 5 19 5 9 25 63
E 9 15 6 7 54 91
Tổng cột 15 38 13 18 96 180
Chỉ số
Kappa
0,056
Giá trị p 0,069
Sự tương hợp giữa xếp loại thể lực theo JPFT
và xếp loại thể lực theo chỉ số Pignet được so
sánh dựa vào chỉ số Cohen’s Kappa, hay còn gọi
là chỉ số Kappa. Dựa vào bảng 5, kết quả chỉ số
Kappa = 0,056 với p>0,05 cho thấy không có sự
tương hợp có ý nghĩa thống kê giữa hai cách
thức xếp loại này.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu lựa chọn độ tuổi của sinh viên
tham gia trong nhóm từ 20 đến 24 tuổi theo mốc
phân chia nhóm tuổi của JPFT(4), bên cạnh đó,
sự phân chia nhóm tuổi như vậy cũng giống
như trong Báo cáo quốc gia về thanh niên Việt
Nam năm 2015(1).
Nhìn chung, các chỉ số cân nặng, chiều cao,
vòng ngực trung bình của nam đều cao hơn nữ
và kết quả này tương đồng với đa số các nghiên
cứu thể lực khác(1,4,5,6,7), phản ánh đúng thực tế
là nam giới có sự vượt trội về tầm vóc, hình thái
hơn so với nữ.
Chỉ số Pignet được xem là một chỉ số thể lực
và giá trị của chỉ số này ở một người càng thấp
chứng tỏ người đó càng khoẻ. Chỉ số Pignet
trung bình của nam sinh khoa YTCC từ 20-24
tuổi là 21,1±17,2, của nữ là 36,2±10,8. Một nghiên
cứu của tác giả Mai Văn Hưng so sánh các chỉ số
nhân trắc của người Việt Nam và người Hàn
Quốc từ 20-25 tuổi ghi nhận chỉ số Pignet ở giới
nam và giới nữ Hàn Quốc lần lượt là 13,56±5,75
và 21,43±6,22, trong khi chỉ số này của người
Việt cùng độ tuổi là 32,39±3,26 ở nam và
35,97±6,38 ở nữ(7). Như vậy, có thể nói chỉ số
Pignet của người Hàn trong nghiên cứu trên tốt
hơn so với ĐTNC của chúng tôi. Tuy nhiên, so
với người Việt Nam cùng độ tuổi trong nghiên
cứu trên, chỉ số Pignet của nam giới trong
nghiên cứu chúng tôi lại tốt hơn còn ở nữ giới lại
khá tương đồng.
Kết quả xếp loại thể lực theo JPFT trong
nghiên cứu này chủ yếu là loại E, trái lại, theo dữ
liệu thống kê quốc gia Nhật Bản, người Nhật ở
lứa tuổi 20-24 đạt loại E lại chiếm tỉ lệ thấp nhất,
chỉ 6,60% và cao nhất là loại C với tỉ lệ 30,87%, kế
đó là loại B (28,12%), rồi loại D (18,08%) và loại A
(16,33%)(4). Như vậy có thể nói rằng, thể lực của
sinh viên khoa YTCC từ 20 đến 24 tuổi kém hơn
so với thanh niên Nhật Bản cùng độ tuổi. Kết
quả này tương đồng với kết luận trong báo cáo
quốc gia về thanh niên Việt Nam(1). Điều này có
thể là do tầm vóc của người Việt Nam thấp bé
hơn so với người Nhật Bản(1) và các bài kiểm tra
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 278
này còn khá mới, chưa được luyện tập nhiều với
sinh viên chúng tôi.
Kết quả ghi nhận không có sự tương hợp
có ý nghĩa thống kê giữa hai phương pháp nêu
trên. Điều này một phần có thể do thang điểm
để quy đổi kết quả cho từng bài kiểm tra dựa
theo tiêu chuẩn dành cho người Nhật Bản,
chưa phù hợp với thực trạng thể lực người
Việt Nam. Mặt khác, chỉ số Pignet không phải
tiêu chuẩn vàng trong việc đánh giá thể lực vì
thực chất chỉ số này chỉ phán ánh tương quan
giữa chiều cao, cân nặng và bề ngang thân thể.
Một nghiên cứu của H.Monod và S.Bouisset
cũng chỉ ra rằng việc chỉ sử dụng chỉ số Pignet
là không đủ để đánh giá thể lực một người(8).
Nghiên cứu có những hạn chế là thang
điểm quy đổi kết quả cho từng nội dung trong
JPFT dựa theo tiêu chuẩn người Nhật nên
chưa phù hợp với thể lực người Việt Nam và
quy trình chuyển ngữ thang đo chưa chuẩn vì
không tiến hành dịch ngược. Tuy nhiên, điểm
mạnh của nghiên cứu là việc áp dụng bài kiểm
tra thể lực thực địa, đòi hỏi sinh viên phải trực
tiếp thực hiện và sử dụng thiết kế cắt ngang
mô tả giúp phản ánh được thực trạng thể lực
sinh viên theo chỉ số Pignet và JPFT. Hơn nữa,
phương pháp chọn mẫu phân tầng theo giới
của từng ngành học cũng giúp kết quả nghiên
cứu mang tính đại diện cho sinh viên khoa
YTCC từ 20 đến 24 tuổi. Vì vậy, kết quả của
nghiên cứu đã cung cấp nguồn dữ liệu tham
khảo về thể lực sinh viên từ 20 đến 24 tuổi và
tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo đánh
giá tính giá trị và độ tin cậy của các thang đo
thể lực, từ đó tìm ra tiêu chuẩn vàng trong việc
đánh giá thể lực người Việt Nam.
KẾT LUẬN
Xếp loại thể lực theo chỉ số Pignet không
có sự tương hợp có ý nghĩa thống kê với xếp
loại thể lực theo JPFT. Chỉ số Pignet chưa phải
tiêu chuẩn vàng trong đánh giá thể lực người
Việt nên có thể được cải tiến cho phù hợp hơn.
Mặt khác, dù JPFT là một bài kiểm tra thể lực
thực địa, đòi hỏi sinh viên phải trực tiếp thực
hiện và đánh giá được nhiều yếu tố của thể lực
tuy nhiên vẫn cần có nghiên cứu đánh giá tính
giá trị và độ tin cậy của JPFT khi áp dụng cho
người Việt Nam. Từ đó, kết hợp với các thông
số nhân trắc sẽ giúp đánh giá thể lực một
người một cách toàn diện và chính xác.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể sinh viên
khoa Y Tế Công Cộng - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, CLB
Sinh viên 5 Tốt khoa YTCC, trường Đại học Sức khoẻ và Phúc lợi
xã hội Takasaki – Nhật Bản, TS. Viên Quang Mai, BS. Noriko
Kitamura - Viện Pasteur Nha Trang, BS. Khương Quỳnh Long –
Khoa YTCC và SV Trần Trịnh Ngọc Mai – Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội Vụ, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2015).
Báo cáo Quốc gia về thanh niên Việt Nam, Hà Nội, 45-47.
2. Caspersen CJ, Powell KE, Christenson GM (1985). "Physical
activity, exercise, and physical fitness: definitions and
distinctions for health-related research". Public health reports,
100 (2):126.
3. Fleishman EA (1964). "The structure and measurement of
physical fitness".
4. Japan Sport Agency (2016). National Statistics Survey on
Physical Fitness and Motor Ability. published on 8/10/2017.
5. Lê Đình Vấn, Nguyễn Quang Bảo Tú (2004). "Nghiên cứu tình
trạng thể lực và dinh dưỡng của sinh viên mới vào trường của
Đại học Huế". Tạp chí Khoa học, Đại học Huế.
6. Lê Thị Tuyết Lan, Hoàng Đình Hữu Hạnh, Bùi Đại Lịch,
Trương Đình Kiệt (2009). "Đánh giá tình trạng thể lực của
thanh niên Việt Nam". Tạp chí Y dược học quân sự, 1:18-23.
7. Mai Van Hung, Sunyoung P (2008). "The impact of
environment on morphological and physical indexes of
Vietnamese and South Korean students". VNU Journal of
Science, Natural Sciences and Technology, 24 (1):50-55.
8. Monod H, Bouisset S (1964). "An evaluation of three standard
tests of physical fitness". Internationale Zeitschrift für angewandte
Physiologie einschließlich Arbeitsphysiologie, 20 (3):223-232.
9. Nguyễn Trường An (2004). Đánh giá về mặt nhân trắc học tình
trạng thể lực, dinh dưỡng và phát triển người miền Trung từ 15 tuổi
trở lên, Chuyên ngành Giải phẫu người, Đại học Y Hà Nội.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_tuong_hop_giua_xep_loai_the_luc_theo_chi_so_pignet_va_the.pdf