Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan

Tài liệu Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 193 SỰ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC CỦA NGƯỜI BỆNH LAO VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Thị Mỹ Dung*, Alison Merrill**, Trần Thiện Trung*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bệnh lao là một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh đóng vai trò quan trọng trong trong quá trình chăm sóc, điều trị bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan tại Trung tâm y tế (TTYT) thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu là người bệnh lao đang điều trị tại TTYT Thành phố Đồng Xoài từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 06 năm 2019. Kết quả: Tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh là 73,8% và 26,2% không tuân thủ. Liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, kinh tế hộ gia đình, tình trạng hôn nhân, kiến thức của người bệnh, sự chăm sóc, hỗ trợ ...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 193 SỰ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC CỦA NGƯỜI BỆNH LAO VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Thị Mỹ Dung*, Alison Merrill**, Trần Thiện Trung*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bệnh lao là một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh đóng vai trò quan trọng trong trong quá trình chăm sóc, điều trị bệnh. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan tại Trung tâm y tế (TTYT) thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu là người bệnh lao đang điều trị tại TTYT Thành phố Đồng Xoài từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 06 năm 2019. Kết quả: Tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh là 73,8% và 26,2% không tuân thủ. Liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi, kinh tế hộ gia đình, tình trạng hôn nhân, kiến thức của người bệnh, sự chăm sóc, hỗ trợ và giám sát của gia đình, tác dụng phụ của thuốc với tuân thủ dùng thuốc của người bệnh (p <0,05). Kết luận: Tỷ lệ người bệnh lao không tuân thủ dùng thuốc trong quá trình điều trị còn cao. Cán bộ y tế có thể dựa vào các yếu liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh để đưa ra những can thiệp thích hợp hỗ trợ người bệnh lao tuân thủ dùng thuốc trong quá trình điều trị bệnh. Từ khóa: bệnh lao, tuân thủ, yếu tố liên quan ABSTRACT ADHERENCE USES MEDICINE OF TUBERCULOSIS PATIENT AND RELATED FACTORS Nguyen Thi My Dung, Alison Merrill, Tran Thien Trung * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 193 – 200 Background: Tuberculosis is a public health problem. Adherence of patients has an important role in the process of care and treatment of diseases. Objective: Evaluation adherence use medicine of Tuberculosis patient and related factors at the Medical Center (TTYT) of Dong Xoai city, Binh Phuoc province. Method: Design of descriptive cross-sectional study. The object of the study is that Tuberculosis patients are treated at Dong Xoai City Health Center from January 2019 to June 2019. Results: The patient's adherence rate of medicine use was 73.8% and 26.2% did not adhere. Relevance is statistically significant between age group, household economy, marital status, patient's knowledge, care, support and supervision of the family, drug side effects with adherence medicine of patients (p <0.05). Conclusion: The rate of non-adherence Tuberculosis patients taking medicines during treatment is still high. Health officials can rely on the weaknesses related to the patient's adherence to medication to provide appropriate interventions to support the patient's adherence with using medicines during treatment. Keywords: tuberculosis, adherence, related factors *Trường cao đẳng Y tế Bình Phước **Friendship Bridge Nurses Group ***Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Mỹ Dung ĐT: 0908063982 Email: mydung01091984@gmail.com hongnhung2000ag@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 194 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh lao là một trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, đứng đầu trong nhóm nguyên nhân tử vong do tác nhân truyền nhiễm trên thế giới. Năm 2017, Trên toàn thế giới có khoảng 10 triệu người bệnh lao trong đó 6,4 triệu trường hợp mắc lao mới, ước tính 1,6 triệu trường hợp tử vong vì bệnh lao(12). Năm 2015, Việt Nam có khoảng 102.676 người mắc bệnh lao, mỗi năm có khoảng 50.000 trường hợp mắc lao AFB (+) mới(1). Năm 2017, Việt Nam có 105.733 trường hợp mắc bệnh lao, là 20/30 nước có số lượng người bệnh lao cao nhất trên thế giới(12). Điều kiện quan trọng góp phần quyết định điều trị thành công bệnh lao, giảm nguy cơ tử vong, ngăn ngừa tình trạng kháng thuốc và lây truyền bệnh cho cộng đồng chính là sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá “Sự tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan”. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác định tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích cho việc đề ra những chương trình can thiệp hỗ trợ người bệnh tuân thủ dùng thuốc trong quá trình điều trị, giúp tăng tỷ lệ điều trị thành công và hạn chế được nguy cơ kháng thuốc. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ người bệnh lao có kiến thức đúng. Xác định tỷ lệ bệnh nhân lao tuân thủ dùng thuốc theo phác đồ điều trị lao. Xác định các yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Trên 84 người bệnh lao đang tham gia điều trị từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2019 tại TTYT thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Tiêu chuẩn chọn bệnh Người bệnh được chọn tham gia vào nghiên cứu phải có đủ các tiêu chuẩn Được chẩn đoán mắc bệnh lao theo tiêu chuẩn chẩn đoán, phân loại của Bộ Y tế. Có thời gian điều trị từ 01 tháng trở lên tính đến thời điểm điều tra. Người bệnh có khả năng giao tiếp, đọc, viết được tiếng Việt và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ Người bệnh lao mắc bệnh tâm thần, suy kiệt nặng, đang trong giai đoạn cấp cứu. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Thu thập số liệu Thu thập số liệu thông qua phỏng vấn trực tiếp người bệnh tham gia nghiên cứu bằng bộ câu hỏi soạn sẵn trong khoảng thời gian 15 phút. Công cụ thu thập số liệu gồm 4 phần: thông tin của người bệnh, kiến thức, tuân thủ dùng thuốc và các yếu tố liên quan. Phần 1 Thông tin của người bệnh như: Tuổi, giới, nghề nghiệp, dân tộc, trình độ học vấn, thu nhập, tình trạng hôn nhân, thể bệnh, giai đoạn bệnh, số lần điều trị và đáp ứng với điều trị. Phần 2 Kiến thức của người bệnh. Gồm 5 câu hỏi về kiến thức bệnh lao với tổng điểm là 8. Người bệnh đạt điểm số ≥ điểm trung bình: có kiến thức tốt, nếu điểm số < điểm trung bình: kiến thức chưa tốt. Kiến thức về các nguyên tắc điều trị: câu hỏi gồm 6 ý với tổng điểm là 6. Người bệnh đạt 6 điểm là kiến thức tốt, 5≥ là kiến thức chưa tốt(9). Phần 3 Tuân thủ dùng thuốc. Sử dụng thang điểm Morisky Medication Adherence Scales (MMAS) gồm 8 câu hỏi để đánh giá. Người bệnh đạt 8 điểm là tuân thủ, 7 điểm ≥ là không tuân thủ(9). Phần 4 Gồm 11 câu hỏi về các yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh như: tư vấn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 195 và giám sát việc dùng thuốc của CBYT, sự chăm sóc và hỗ trợ của gia đình, phản ứng phụ của thuốc, khoảng cách từ nhà đến cơ sở y tế(6,9). Biến số nghiên cứu Sự tuân thủ dùng thuốc: người bệnh lao dùng thuốc đều đặn hàng ngày, không bỏ bất kỳ liều thuốc nào được đánh giá là tuân thủ dùng thuốc. Nếu người bệnh bỏ bất kỳ liều thuốc nào trong quá trình điều trị được đánh giá là không tuân thủ dùng thuốc(3). Kiến thức của người bệnh về bệnh lao và nguyên tắc điều trị: sự hiểu biết của người bệnh về bệnh lao như: bệnh lao có phải bệnh truyền nhiễm không? Biện pháp cần thiết để điều trị khỏi bệnh lao là gì? Điều trị bệnh trong thời gian bao lâu? Nếu người bệnh không tuân thủ điều trị thì hậu quả sẽ như thế nào? Hiểu biết của người bệnh về các nguyên tắc điều trị lao?(11). Yếu tố liên quan đến sự tuân thủ dùng thuốc: là mối liên quan giữa tuân thủ dùng thuốc của người bệnh đối với các yếu tố như: gia đình – cộng đồng, dịch vụ y tế, môi trường làm việc, đặc điểm của người bệnh(6,10). Xử lý số liệu Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Sau khi xử lý hoàn thiện sẽ được phân tích bằng phần mềm Stata IC 13, sử dụng thống kê mô tả, Chi-square test hoặc Fisher với mức ý nghĩa 0,05 để kiểm định mối liên quan. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y đức trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 66/ĐHYD-HĐĐĐ. KẾT QUẢ Nghiên cứu 84 người bệnh lao đang được quản lý và điều trị tại Trung tâm Y tế thành phố Đồng Xoài trong thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2019, chúng tôi thu được các thông tin. Kiến thức của người bệnh về bệnh lao Người bệnh biết bệnh lao là bệnh lây chiếm 98,8%, biết bệnh lao có thể điều trị khỏi 100%, biết cách điều trị khỏi bệnh lao là 91,7%, biết thời gian điều trị bệnh là 77,4%, biết được hậu quả của không tuân thủ điều trị thì: Bệnh không khỏi 94,1%, kháng thuốc 52,4% và bệnh nặng thêm 61,9% (Bảng 1). Bảng 1. Thông tin kiến thức của người bệnh về bệnh lao Thông tin kiến thức Người bệnh (n=84) Tỷ lệ (%) Biết bệnh lao là bệnh lây Có 83 98,8 Không 1 1,2 Biết bệnh lao điều trị khỏi Có 84 100 Không 0 0 Biết cách điều trị khỏi bệnh Có 77 91,7 Khác 5 5,9 Không biết 2 2,4 Biết thời gian điều trị 6 tháng 34 40,5 8 tháng 31 36,9 Không biết 19 22,6 Biết hậu quả không tuân thủ điều trị Không khỏi Có 79 94,1 Không 5 5,9 Kháng thuốc Có 44 52,4 Không 40 47,6 Bệnh nặng thêm Có 52 61,9 Không 32 38,1 Bảng 2. Phân loại kiến thức của người bệnh về bệnh lao Kiến thức Người bệnh (n=84) Tỷ lệ (%) Tốt 60 71,4 Chưa tốt 24 28,6 Người bệnh có kiến thức tốt về bệnh lao là 71,4% cao hơn so với 28,6% kiến thức chưa tốt (Bảng 2). Bảng 3. Hiểu biết của người bệnh về các nguyên tắc điều trị (n=84) Nguyên tắc điều trị Người bệnh Tỷ lệ (%) Biết 2 nguyên tắc 1 1,2 Biết 3 nguyên tắc 8 9,5 Biết 4 nguyên tắc 10 11,9 Biết 5 nguyên tắc 20 23,8 Biết 6 nguyên tắc 45 53,6 100% người bệnh biết về các nguyên tắc điều trị bệnh lao. Tỷ lệ người bệnh biết 6 nguyên tắc điều trị bệnh lao chiếm 53,6% (Bảng 3). Người bệnh biết về nguyên tắc dùng thuốc đúng liều chiếm 98,8%, dùng thuốc đúng thời Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 196 gian là 90,5%, dùng thuốc đều đặn chiếm 84,5%, dùng thuốc đúng cách 84,5%. Tỷ lệ 70,2% người bệnh biết nguyên tắc xét nghiệm định kỳ. Người bệnh biết nguyên tắc tái khám đúng hẹn là 92,9% (Bảng 4). Bảng 4. Hiểu biết của người bệnh về từng nguyên tắc điều trị (n=84) Hiểu biết của người bệnh Người bệnh Tỷ lệ (%) Dùng thuốc đúng liều Có 83 98,8 Không 1 1,2 Dùng thuốc đúng thời gian Có 76 90,5 Không 8 9,5 Dùng thuốc đều đặn Có 71 84,5 Không 13 15,5 Dùng thuốc đúng cách Có 71 84,5 Không 13 15,5 Xét nghiệm định kỳ Có 59 70,2 Không 25 29,8 Tái khám đúng hẹn Có 78 92,9 Không 6 7,1 Bảng 5. Phân loại kiến thức của người bệnh về nguyên tắc điều trị bệnh lao Kiến thức Người bệnh (n=84) Tỷ lệ (%) Tốt 45 53,6 Chưa tốt 39 46,4 Người bệnh có kiến thức tốt về nguyên tắc điều trị bệnh lao chiếm 53,6% (Bảng 5). Tuân thủ dùng thuốc của người bệnh Bảng 6. Tuân thủ dùng thuốc giai đoạn tấn công Thực hành tuân thủ dùng thuốc Người bệnh Tỷ lệ (n=38) (%) Không quên uống thuốc 33 86,8 Không quên uống thuốc trong 2 tuần 37 97,4 Không tự ý giảm liều thuốc 34 89,5 Không quên thuốc khi đi xa nhà 38 100 Không tự ý ngừng uống thuốc 38 100 Không thấy phiền hà khi uống thuốc 35 92,1 Uống đủ liều thuốc 37 97,4 Mức độ quên uống thuốc 34 89,5 100% người bệnh không quên thuốc khi đi xa nhà và không tự ý ngừng uống thuốc, không quên uống thuốc trong 2 tuần và uống đủ liều thuốc là 97,4%, không thấy phiền hà khi uống thuốc chiếm 92,4% và có 89,5% không bao giờ/hiếm quên uống thuốc (Bảng 6). Người bệnh tuân thủ dùng thuốc giai đoạn tấn công là 84,2% (Bảng 7). Bảng 7. Mức độ tuân thủ dùng thuốc giai đoạn tấn công Mức độ tuân thủ Người bệnh (n=38) Tỷ lệ (%) Tuân thủ 32 84,2 Không tuân thủ 6 15,8 Người bệnh không quên uống thuốc là 69,6%, không quên uống thuốc trong 2 tuần và không tự ý giảm liều thuốc lần lượt là 95,7% và 89,1%, 100% không quên thuốc khi đi xa nhà và uống đủ liều thuốc. Người bệnh không tự ý giảm liều thuốc và không tự ý ngừng uống thuốc đạt 89,1%, 69,6% không bao giờ/hiếm quên uống thuốc (Bảng 8). Bảng 8. Tuân thủ dùng thuốc giai đoạn duy trì Thực hành tuân thủ dùng thuốc Người bệnh Tỷ lệ (n=46) (%) Không quên uống thuốc 32 69,6 Không quên thuốc trong 2 tuần 44 95,7 Không tự ý giảm liều thuốc 41 89,1 Không quên thuốc khi đi xa nhà 46 100 Không tự ý ngừng uống thuốc 41 89,1 Không thấy phiền hà khi uống thuốc 36 78,3 Uống đủ liều thuốc 46 100 Mức độ quên uống thuốc 32 69,6 Bảng 9. Mức độ tuân thủ dùng thuốc giai đoạn duy trì Mức độ tuân thủ Người bệnh Tỷ lệ (n=46) (%) Tuân thủ 30 65,2 Không tuân thủ 16 34,8 Bảng 10. Mức độ tuân thủ dùng thuốc của người bệnh đang điều trị (n=38) Mức độ tuân thủ Người bệnh Tỷ lệ (%) Tuân thủ 62 73,8 Không tuân thủ 22 26,2 Người bệnh tuân thủ dùng thuốc giai đoạn duy trì là 65,2% (Bảng 9). Người bệnh tuân thủ dùng thuốc là 73,8% (Bảng 10). Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao Liên quan giữa việc tuân thủ dùng thuốc Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 197 của người bệnh với nhóm tuổi, kinh tế hộ gia đình, tình trạng hôn nhân, kiến thức về bệnh và các nguyên tắc điều trị, sự chăm sóc, hỗ trợ và giám sát dùng thuốc của gia đình, tác dụng phụ của thuốc có ý nghĩa thống kê (Bảng 11). Bảng 11. Các yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc Biến số Tuân thủ dùng thuốc OR p Có n (%) Không n (%) CI 95% Tuổi 18 – <60 tuổi 57 (79,2) 15 (20,8) 5,32 1,22 – 23,96 0,006 ≥60 tuổi 5 (41,7) 7 (58,3) Kinh tế hộ gia đình Hộ nghèo, cận nghèo 5 (41,7) 7 (58,3) 0,19 0,04 – 0,82 0,006 Hộ trung bình, khá 57 (79,2) 15 (20,8) Tình trạng hôn nhân Chưa kết hôn/ly hôn 3 (21,4) 11 (78,6) 0,06 0,01 – 0,27 <0,001 Đã kết hôn 59 (84,3) 11 (15,7) Kiến thức về bệnh Tốt 51 (85) 9 (15) 6,9 2,02 – 22,4 <0,001 Chưa tốt 11 (45,8) 13 (54,2) Kiến thức về các nguyên tắc điều trị Có 39 (86,7) 6 (13,3) 4,5 1,4 – 15,9 0,004 Không 23 (59) 16 (41) Gia đình chăm sóc, hỗ trợ Có 56 (83,6) 11 (16,4) 9,3 2,46 – 36,7 0,002 Không 6 (35,3) 11 (64,7) Gia đình giám sát dùng thuốc Có 56 (84,9) 10 (15,1) 11,2 2,96 – 44,21 <0,001 Không 6 (33,3) 12 (66,7) Tác dụng phụ của thuốc Có 19 (57,6) 14 (42,4) 0,25 0,08 – 0,78 0,006 Không 43 (84,3) 8 (15,7) BÀN LUẬN Kiến thức của người bệnh Về bệnh lao Trong nghiên cứu của chúng tôi có 71,4% người bệnh có kiến thức tốt cao hơn so với 28,6% người bệnh kiến thức chưa tốt. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9), trong đó 54% người bệnh có kiến thức tốt so với 46% kiến thức chưa tốt. Về các nguyên tắc điều trị Tỷ lệ người bệnh có kiến thức tốt về các nguyên tắc điều trị trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 53,6% so với 46,4% chưa tốt, cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Hà Văn Như(4) tại Bắc Giang là 11,2% người bệnh kiến thức tốt. Do đặc điểm kinh tế, xã hội và học vấn của đối tượng ở các khu vực nghiên cứu không giống nên kiến thức của người bệnh khác nhau. Phần lớn người bệnh lao là người nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn, ít được tiếp cận các phương tiện truyền thông, cho nên kiến thức về bệnh lao và các nguyên tắc điều trị còn hạn chế, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tuân thủ dùng thuốc và ý thức phòng chống lây lan cho cộng đồng của người bệnh. Tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao Giai đoạn tấn công Trong nghiên cứu của chúng tôi tại Đồng Xoài có 84,2% người bệnh tuân thủ dùng thuốc tốt và 15,8% chưa tốt. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả gần giống với Nguyễn Kim Soạn(7) tại huyện Duyên Khánh tỉnh Khánh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 198 Hòa: 85,2% người bệnh tuân thủ tốt so với 14,8% chưa tốt. Vì Đồng Xoài là trung tâm hành chính - kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh Bình Phước nên người bệnh có điều kiện cập nhật các kiến thức y khoa và được chăm sóc y tế tốt hơn. Mặt khác, sự bao phủ của công tác phòng chống lao trên toàn thành phố nên trong quá trình điều trị người bệnh luôn được cán bộ y tế (CBYT) giám sát, hỗ trợ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9) ở huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định và Vy Thanh Hiền(11) ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Theo tác giả Trần Văn Ý trong giai đoạn tấn công tỷ lệ người bệnh tuân thủ tốt 72,5% và 27,5% chưa tốt. Kết quả của tác giả Vy Thanh Hiền tỷ lệ tuân thủ tốt ở giai đoạn tấn công chiếm 72,4% so với tuân thủ chưa tốt là 27,6%. Do đặc thù ở Bình Định và Quảng Ngãi, kinh tế chủ yếu là làm nông, đánh bắt thủy sản, đa số người dân làm việc theo thời vụ nên cũng ảnh hưởng đến quá trình điều trị bệnh. Giai đoạn duy trì Tỷ lệ người bệnh tuân thủ dùng thuốc tốt trong nghiên cứu của chúng tôi là 65,2% cao hơn so với 34,5% tuân thủ chưa tốt. Kết quả cho thấy tuân thủ dùng thuốc của người bệnh trong giai đoạn duy trì thấp hơn trong giai đoạn tấn công và điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Vì sau khi người bệnh điều trị thuốc chống lao được vài tuần, dấu hiệu bệnh thuyên giảm, người bệnh thấy người khỏe hơn, ăn uống ngon miệng hơn và có thể tăng cân. Tâm lý người bệnh lúc này thường có phần chủ quan, lơ là điều trị bệnh. Mặt khác, do thời gian điều trị kéo dài có thể làm cho người bệnh cảm thấy mệt mỏi, phiền hà khi phải dùng thuốc đều đặn mỗi ngày. Tác dụng phụ của thuốc kháng lao cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến người bệnh không tuân thủ dùng thuốc, do đó CBYT cần tư vấn kỹ cho người bệnh biết về tác dụng phụ của thuốc là một yếu tố chính giúp chương trình điều trị thành công. Kết quả nghiên cứu của của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Kim Soạn(7) và Vy Thanh Hiền(11) nhưng cao hơn so với tác giả Trần Văn Ý(9). Nghiên cứu của Nguyễn Kim Soạn giai đoạn duy trì tuân thủ tốt là 82,4% và tuân thủ chưa tốt là 17,6%. Nghiên cứu của Vy Thanh Hiền: Giai đoạn duy trì tuân thủ tốt là 71% cao hơn so với 29% tuân thủ chưa tốt. Nghiên cứu của Trần Văn Ý tuân thủ dùng thuốc tốt 51,2% cao hơn 48,8% người bệnh tuân thủ dùng thuốc chưa tốt. Tuân thủ dùng thuốc của người bệnh đang điều trị Nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc chung là 73,8% cao hơn so với 26,2% không tuân thủ. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả thấp hơn so với tác giả Nguyễn Kim Soạn(7) nhưng cao hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9), Uông Thị Mai Loan(10), Frederick AD Kaona(5) và Xue-Hui Fang(3). Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Kim Soạn, người bệnh tuân thủ dùng thuốc là 78,7% và 21,3% không tuân thủ. Nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý, tuân thủ dùng thuốc chiếm 56,3% cao hơn 43,7% không tuân thủ và theo Uông Thị Mai Loan, tỷ lệ tuân thủ là 63,8% và không tuân thủ là 36,2%. Nghiên cứu của tác giả Frederick cho thấy tỷ lệ tuân thủ của người bệnh trong quá trình điều trị là 70,2%. Trong nghiên cứu của tác giả Xue Hui Fang tỷ lệ tuân thủ của người bệnh là 33,6%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong quá trình điều trị lao thường xuất hiện tình trạng người bệnh quên uống thuốc, tỷ lệ người bệnh quên uống thuốc giai đoạn duy trì cao hơn trong giai đoạn tấn công. Thực trạng này rất đáng lo ngại nếu người bệnh không tuân thủ dùng thuốc đều đặn hàng ngày thì tỷ lệ điều trị thành công bệnh sẽ giảm và tăng nguy cơ vi khuẩn lao kháng thuốc. Vì vậy cần có các biện pháp can thiệp nhắc nhở người bệnh sử dụng thuốc hàng ngày. Các yếu tố liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh lao Trong nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh dưới 60 tuổi tuân thủ dùng thuốc tốt hơn những người bệnh trên 60 tuổi (p=0,006). Liên quan đến Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 199 người bệnh trên hoặc dưới 60 tuổi tương tự với nghiên cứu của tác giả Hà Văn Như(4) ở tỉnh Bắc Giang năm 2013. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với thực tế vì người cao tuổi thì trí nhớ thường giảm, hay quên và thường phụ thuộc vào con cháu trong việc đưa đi khám bệnh. Mặt khác, tuổi già đi kèm với sự suy giảm chức năng các tạng nên có thể thường mắc nhiều bệnh cùng lúc và phải sử dụng nhiều loại thuốc khác nhau. Do đó sự quan tâm chăm sóc và giám sát điều trị của gia đình rất quan trọng đối với người bệnh cao tuổi. Liên quan giữa kinh tế hộ gia đình và tuân thủ dùng thuốc. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của tác giả Lưu Thanh Tùng(6). Người bệnh thuộc diện nghèo, cận nghèo hàng ngày phải tất bật, bươn chải để lo miếng cơm, manh áo qua ngày do đó cũng ảnh hưởng đến tuân thủ dùng thuốc. Mối liên hệ có ý nghĩa thống giữa tình trạng hôn nhân và tuân thủ dùng thuốc (p <0,001). Người bệnh đã kết hôn tuân thủ dùng thuốc 84,3% so với người bệnh độc thân là 21,4%. Điều này phù hợp với thực tế, những người bệnh độc thân, không sống cùng gia đình thường thiếu người quan tâm, chăm sóc thường xuyên, động viên và nhắc nhở trong quá trình điều trị. Nghiên cứu của tác giả Hà Văn Như(4) cũng cho thấy có mối quan hệ giữa tuân thủ và tình trạng chung sống với vợ/chồng của người bệnh. Người bệnh có kiến thức tốt về bệnh lao thì sẽ tuân thủ dùng thuốc cao hơn 6,9 lần so với người bệnh kiến thức chưa tốt. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn trong nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9): Người bệnh có kiến thức tốt tuân thủ cao hơn 2,4 lần so với người bệnh kiến thức chưa tốt. Người bệnh có hiểu biết về các nguyên tắc điều trị tuân thủ cao hơn 4,5 lần so với người bệnh không có hiểu biết về các nguyên tắc điều trị. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Kim Soạn(7) cũng đã chứng minh được mối quan hệ giữa tuân thủ của người bệnh và kiến thức về các nguyên tắc điều trị: Người bệnh có hiểu biết về các nguyên tắc điều trị lao thì tỷ lệ tuân thủ cao hơn những người bệnh không hiểu biêt (p <0,05). Do đó, cần thực hiện tốt tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, cung cấp kiến thức về bệnh và các nguyên tắc điều trị cho người bệnh. Khi người bệnh hiểu được bản chất cân bệnh họ mắc phải là bệnh có nguy cơ lây lan cộng đồng, có thể điều trị khỏi và cách duy nhất để khỏi bệnh là tuân theo phác đồ điều trị của CBYT. Nhắn mạnh cho người bệnh hiểu rằng nếu không tuân thủ thì nguy cơ bệnh không khỏi, kháng thuốc, sẽ giúp người bệnh hiểu được để khỏi bệnh họ cần phải làm gì, từ đó người bệnh sẽ tuân thủ dùng thuốc theo sự hướng dẫn của CBYT góp phần nâng cao tỷ lệ điều trị thành công bệnh và hạn chế được tình trạng kháng thuốc hiện nay. Người bệnh được gia đình chăm sóc, hỗ trợ thì tuân thủ tốt hơn 9,3 lần so với người bệnh không được gia đình chăm sóc, hỗ trợ (p=0,002). Kết quả này gần tương đương với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Hà(8) và cao hơn nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9). Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Hà: người bệnh được quan tâm, giúp đỡ của người thân thì tuân thủ tốt hơn 8,8 lần so với nhóm không được quan tâm, giúp đỡ. Nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý: người bệnh được gia đình chăm sóc, hỗ trợ thì tuân thủ cao hơn 4,1 lần so với nhóm không nhận được sự chăm sóc, hỗ trợ từ gia đình. Người bệnh được gia đình giám sát việc dùng thuốc thì tuân thủ tốt hơn 11,2 lần so với người bệnh không được gia đình giám sát (p <0,001). Nghiên cứu của tác giả Uông Thị Mai Loan(10) đã cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuân thủ của người bệnh và giám sát của gia đình (p <0,001). Qua nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả khác cho thấy vai trò quan trọng của gia đình đối với quá trình điều trị của người bệnh. Sự động viên, chăm sóc và hỗ trợ của gia đình là nhân tố quan trọng giúp người bệnh điều trị khỏi bệnh. Người bệnh có tác dụng phụ của thuốc kháng lao tuân thủ chỉ bằng 0,25 lần so với Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 200 người bệnh không có tác dụng phụ của thuốc. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của tác giả Trần Văn Ý(9): Người bệnh có tác dụng phụ của thuốc tuân thủ chỉ bằng 0,4 lần so với người bệnh không có tác dụng phụ của thuốc. Tác dụng phụ của thuốc kháng lao chính là cản trở rất lớn đối với tuân thủ dùng thuốc của người bệnh. Do đó trong quá trình điều trị cho người bệnh, CBYT cần phát hiện sớm tác dụng phụ của thuốc để có biện pháp can thiệp kịp thời, ngăn ngừa tình trạng không tuân thủ của người bệnh. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu sự tuân thủ dùng thuốc và các yếu tố liên quan của người bệnh lao tại Trung tâm Y tế thành phố Đồng Xoài, chúng tôi rút ra các kết luận. Người bệnh có kiến thức tốt về bệnh lao 71,4% so với 28,6% có kiến thức chưa tốt. Người bệnh có kiến thức tốt về các nguyên tắc điều trị 53,6% và 46,4% có kiến thức chưa tốt. Người bệnh tuân thủ dùng thuốc tốt chung của nghiên cứu là 73,8% so với 26,2% người bệnh tuân thủ chưa tốt. Ở giai đoạn điều trị tấn công, người bệnh tuân thủ dùng thuốc tốt là 84,2% cao hơn so với 15,8% tuân thủ dùng thuốc chưa tốt. Ở giai đoạn duy trì, người bệnh tuân thủ dùng thuốc tốt là 65,2% và 34,5% tuân thủ chưa tốt. Liên quan giữa kinh tế hộ gia đình, tác dụng phụ của thuốc và tuân thủ dùng thuốc với nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p=0,006. Tình trạng hôn nhân, kiến thức về bệnh và gia đình giám sát dùng thuốc liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh với p <0,001. Kiến thức về các nguyên tắc điều trị và sự chăm sóc, hỗ trợ của gia đình có liên quan đến tuân thủ dùng thuốc của người bệnh với p lần lượt là 0,004 và 0,002. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2017). Tóm tắt số liệu thống kê y tế 2011-2015. Nhà xuất bản Y học Hà Nội, pp.1-16. 2. Bộ Y tế (2018). Hướng dẫn chuẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh Lao. Nhà xuất bản Y học Hà Nội, pp.1-127. 3. Fang XH, Shen HH, Hu WQ (2019). "Prevalence of and Factors Influencing Anti-Tuberculosis Treatment Non-Adherence Among Patients with Pulmonary Tuberculosis: A Cross- Sectional Study in Anhui Province, Eastern China". Medical Science Monitor, 25:1928-1935. 4. Hà Văn Như, Nguyễn Xuân Tình (2013). Thực trạng tuân thủ điều trị của người bệnh lao và một số yếu tố liên quan tại phòng khám ngoại trú bệnh viện lao và bệnh phổi Bắc Giang. Tạp chí Y học Thực hành, 905(2):43-47. 5. Kaona FA, Tuba M, Siziya S, et al (2004). "An assessment of factors contributing to treatment adherence and knowledge of Tuberculosis transmission among patients on Tuberculosis treatment". BMC Public Health, 4(1):68. 6. Lưu Thanh Tùng (2015). Thực trạng tuân thủ điều trị và các yếu tố liên quan của bệnh nhân lao được quản lý tại các trạm y tế của thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công cộng. 7. Nguyễn Kim Soạn (2014). Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới tuân thủ các nguyên tắc điều trị lao của bệnh nhân lao mới đang được quản lý tại các trạm y tế xã thuộc huyện diên khánh tỉnh Khánh Hòa. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công cộng. 8. Nguyễn Ngọc Hà (2013). Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tới tuân thủ điều trị của người bệnh lao phổi tại phòng khám lao quận Hoàng Mai, Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công cộng. 9. Trần Văn Ý (2017). Thực trạng tuân thủ điều trị và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân lao được quản lý tại các trạm y tế huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công cộng. 10. Uông Thị Mai Loan, Hồ Thị Hiền, Vũ Thị Tường Văn (2011). Một số yếu tố liên quan đến thực hành tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao phổi tại phòng khám lao quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tạp chí Y tế Công cộng, 20(20):24-28. 11. Vy Thanh Hiền (2013). Thực trạng và một số yếu tố liên quan tới tuân thủ điều trị lao tại trung tâm y tế dự phòng huyện Sơn Tịnh, tỉnh quảng ngãi. Luận văn Thạc sỹ, Đại học Y tế Công cộng. 12. World Health Organization (2018). Global Tuberculosis Report. WHO, pp.1-265. Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_tuan_thu_dung_thuoc_cua_nguoi_benh_lao_va_cac_yeu_to_lien.pdf
Tài liệu liên quan