Tài liệu Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0092
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 110-118
This paper is available online at
SỰ THAY ĐỔI CỦA NGHỀ LƯỚI RÊ VÀ NHỮNG HỆ QUẢ CỦA NÓ
TẠI ĐẦM NHA PHU, TỈNH KHÁNH HÒA
Nguyễn Tường Huy
Khoa Địa lí, Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt.Nghề cá nhỏ ven đầm Nha Phu đã trải qua quá trình chuyển đổi trong hơn ba thập
kỉ qua. Bài báo phân tích những thay đổi của nghề lưới rê và các hệ quả kinh tế, xã hội
và tài nguyên của những thay đổi này. Ngư dân có xu hướng sử dụng lưới rê có kích thước
mắt lưới nhỏ hơn và có mức độ chọn lọc thấp hơn để tối đa hóa sản lượng đánh bắt. Những
thay đổi này có ảnh hưởng quan trọng đối với khai thác và quản lí nguồn lợi. Ngư dân cũng
có xu hướng sử dụng kết hợp các loại lưới và gia tăng chiều dài vàng lưới để đảm bảo sản
lượng và thu nhập từ đánh bắt. Tuy nhiên, chiến lược này lại phụ thuộc vào khả năng đầu
tư của các hộ ngư dân. Trong bối cảnh đó, thu nhập thấp và bất bình đẳng về thu nhập, c...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0092
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 10, pp. 110-118
This paper is available online at
SỰ THAY ĐỔI CỦA NGHỀ LƯỚI RÊ VÀ NHỮNG HỆ QUẢ CỦA NÓ
TẠI ĐẦM NHA PHU, TỈNH KHÁNH HÒA
Nguyễn Tường Huy
Khoa Địa lí, Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt.Nghề cá nhỏ ven đầm Nha Phu đã trải qua quá trình chuyển đổi trong hơn ba thập
kỉ qua. Bài báo phân tích những thay đổi của nghề lưới rê và các hệ quả kinh tế, xã hội
và tài nguyên của những thay đổi này. Ngư dân có xu hướng sử dụng lưới rê có kích thước
mắt lưới nhỏ hơn và có mức độ chọn lọc thấp hơn để tối đa hóa sản lượng đánh bắt. Những
thay đổi này có ảnh hưởng quan trọng đối với khai thác và quản lí nguồn lợi. Ngư dân cũng
có xu hướng sử dụng kết hợp các loại lưới và gia tăng chiều dài vàng lưới để đảm bảo sản
lượng và thu nhập từ đánh bắt. Tuy nhiên, chiến lược này lại phụ thuộc vào khả năng đầu
tư của các hộ ngư dân. Trong bối cảnh đó, thu nhập thấp và bất bình đẳng về thu nhập, các
chiến lược ứng phó không bền vững và sự suy giảm nguồn lợi là những hệ lụy đáng lưu ý
của sự thay đổi.
Từ khóa: Sinh kế, bất bình đẳng, bền vững, nghề cá, nghèo.
1. Mở đầu
Đầm Nha Phu, thuộc tỉnh Khánh Hoà, có điều kiện thuận lợi để phát triển nghề cá nhỏ ven
bờ với cơ cấu nghề nghiệp đa dạng (xem Hình 1). Nghề cá đã và đang đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo sinh kế cho phần lớn cư dân sống ven đầm. Trong suốt hơn ba thập kỉ vừa qua, nghề
cá ở đây đã trải qua quá trình chuyển đổi nhanh chóng. Các phương thức đánh bắt cá ở đây đã có
nhiều thay đổi, từ các ngư cụ/kĩ thuật truyền thống và giản đơn thành các ngư cụ/ kĩ thuật hiện đại
và phức tạp hơn. Những thay đổi này đã dẫn đến những chuyển biến quan trọng về kinh tế, xã hội
và tài nguyên của địa phương. Trong bối cảnh thiếu vắng cơ chế quản lí hợp lí tài nguyên dùng
chung, sự suy giảm nguồn lợi cũng là một thách thức lớn của sự phát triển bền vững nghề cá ở đây.
Bài báo này có mục đích phân tích những thay đổi của nghề lưới rê và nhận diện một số hệ
quả kinh tế, xã hội và tài nguyên của những thay đổi này tại đầm Nha Phu. Bài báo mở đầu bằng
việc giới thiệu bối cảnh và vấn đề nghiên cứu. Sau phần khái quát về nghề lưới rê tại đầm Nha
Phu, bài báo tập trung phân tích những thay đổi cơ bản của nghề lưới rê, nhận diện và thảo luận
một số hệ quả kinh tế, xã hội và tài nguyên của những thay đổi này tại đầm Nha Phu. Trong phần
kết luận, bài báo sẽ tóm lược những kết quả nghiên cứu chính và đưa ra một số khuyến nghị. Bài
báo sử dụng các dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu thực địa của tác giả trong khoảng thời
gian từ năm 2008 - 2012 và tháng 7 năm 2015 (xem thêm [9, 10]).
Ngày nhận bài: 15/5/2016. Ngày nhận đăng: 20/8/2016
Liên hệ: Nguyễn Tường Huy, e-mail: tuonghuy@hnue.edu.vn
110
Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái quát về nghề lưới rê tại đầm Nha Phu
Lưới rê (ngư dân địa phương gọi là lưới cước) là một ngư cụ truyền thống lâu đời và hiện
vẫn là một sinh kế chính của ngư dân trong khu vực. Trong những năm gần đây, cùng với sự gia
tăng dân số, sự suy giảm nguồn lợi và sự thất bại của nghề nuôi tôm, áp lực đối với sinh kế này
ngày càng tăng. Theo ước tính từ các cuộc phỏng vấn và các cuộc thảo luận nhóm, hiện có khoảng
70% số hộ ở Ngọc Diêm đang làm nghề lưới rê. Con số này là khoảng 60-65% ở Hà Liên, Tân Tế,
Hang Dơi và Lệ Cam, 50-60% ở Tam Ích, Tân Đảo, và khoảng 30% ở thôn Tân Thủy. Hình 1 mô
phỏng không gian hoạt động của nghề lưới rê tại đầm Nha Phu.
Hình 1. Lưới rê và các hoạt động khai thác nguồn lợi tại đầm Nha Phu
(Nguồn: Tái sử dụng từ [2] dựa trên kết quả nghiên cứu thực địa của tác giả từ 2008 – 2012 và 2015)
Lưới rê là một ngư cụ thích hợp với nghề cá thủ công tại đầm Nha Phu. Trước hết, lưới rê
vốn là ngư cụ có chi phí thấp so với các ngư cụ khác. Ngư dân không phải đầu tư quá nhiều cho
việc mua sắm và bảo trì lưới. Hơn nữa, do đặc điểm tự nhiên của đầm, họ cũng chỉ cần thuyền
111
Nguyễn Tường Huy
chèo tay hoặc thuyền máy có công suất nhỏ cho 1 ngư dân (đối với thuyền chèo tay) hoặc 2 ngư
dân (đối với thuyền máy nhỏ). Do đó, phương pháp đánh bắt cá này được sử dụng rộng rãi và được
coi là một nghề cá quy mô nhỏ điển hình, khá hiệu quả tại đầm Nha Phu.
Lưới rê là loại ngư cụ hoạt động theo phương pháp bị động, lưới được thả trôi theo dòng
chảy hoặc được thả chắn ngang đường đi của cá và một số loài thủy sản khác. Khi gặp lưới rê, tôm
cá bị mắc vào mắt lưới hoặc bị quấn vào lưới. Theo kết cấu của lưới, có 2 loại lưới được sử dụng
trong đầm Nha Phu, lưới rê 1 lớp và lưới rê 3 lớp [3]. Theo đối tượng đánh bắt, ngư dân địa phương
có thể phân lưới rê thành các loại lưới như lưới rê 1 lớp, lưới rê cá 3 lớp (cá, tôm, ghẹ, cua), lưới rê
tôm 3 lớp (tôm, cá, ghẹ, cua) và lưới rê ghẹ 3 lớp (ghẹ, cá, tôm) (xem thêm [3]).
Lưới rê 1 lớp có cấu tạo đơn giản gồm các tấm lưới/ áo lưới hình chữ nhật được lắp ráp
giềng phao, giềng chì, phao, chì tạo thành các cheo lưới, các cheo lưới ghép lại với nhau tạo thành
vàng lưới rê. Tùy thuộc vào đối tượng đánh bắt, nhu cầu và khả năng nguồn vốn mà các vàng lưới
rê có cấu tạo và kích thước khác nhau. Áo lưới là những tấm lưới hình chữ nhật do đan hoặc dệt
tạo thành, kích thước mắt lưới của lưới rê phải phù hợp với đối tượng đánh bắt. Dây giềng phao
được lắp phao và giềng chì được lắp chì để định hình tấm lưới trong nước. Phao lưới rê được làm
từ nhiều loại vật liệu khác nhau như nhựa, xốp tổng hợp. Số lượng và kích thước phao tùy thuộc
vào yêu cầu kĩ thuật và vật liệu chế tạo phao. Chì lưới rê được làm bằng chì hoặc đá hoặc vật liệu
khác có hình trụ với số lượng tùy theo loại vật liệu và yêu cầu khai thác [3, 6].
Lưới rê 3 lớp được sử dụng rộng rãi tại đầm Nha Phu từ cuối thập niên 80 của thế kỉ XX.
Lưới rê 3 lớp thường có năng suất đánh bắt cao hơn và đánh bắt được nhiều loài hơn so với lưới rê
1 lớp, trong đó có tôm và ghẹ là những đối tượng đánh có giá trị. Lưới rê 3 lớp gồm 3 tấm lưới,
trong đó tấm có kích thước mắt lưới nhỏ nằm ở giữa hai tấm có kích thước mắt lưới lớn. Các tấm
được liên kết lại với nhau thông qua hệ thống dây giềng phao và dây chì tương tự như lưới rê 1 lớp
[3]. Với cấu tạo như vậy, tôm cá với kích thước khác nhau có thể bị mắc vào mắt lưới hoặc bị quấn
vào lưới. Do vậy, lưới rê 3 lớp là một ngư cụ đánh bắt hiệu quả tại khu vực đầm với nguồn lợi hải
sản đa loài với kích cỡ khác nhau [7].
2.2. Những thay đổi của nghề lưới rê tại đầm Nha Phu
2.2.1. Thay đổi về kích thước mắt lưới
Theo ngư dân, hiệu quả đánh bắt của lưới rê phụ thuộc vào một số thuộc tính của lưới.
Những thuộc tính này đã được ngư dân sửa đổi/cải biến theo thời gian để tối đa hóa năng suất và
hiệu quả đánh bắt của họ. Trong số các thuộc tính này, kích thước mắt lưới là thuộc tính quan trọng
nhất. Kích thước mắt lưới của lưới rê thường được đo bằng khoảng cách giữa các nút thắt (a) hoặc
đường kéo dài của một mắt lưới (2a). Trong hai loại lưới rê, lưới rê 1 lớp có tính chọn lọc cao vì sử
dụng 1 lớp lưới có kích thước đồng nhất. Cũng vì vậy, lưới rê 1 lớp được coi là loại lưới duy nhất
đánh bắt được cá có kích thường đồng đều [7]. Ngược lại, lưới rê 3 lớp lại có tính chọn lọc thấp vì
chúng được làm bằng 3 lớp lưới có kích thước mắt lưới khác nhau. Như đã đề cập ở trên, ngư cụ
này được thiết kế để bắt các loài khác nhau với các kích cỡ khác nhau ở các vùng biển nhiệt đới –
với đặc thù đa loài và đa kích cỡ. Kích thước mắt lưới và mức độ chọn lọc của lưới rê có ý nghĩa
quan trọng đối với việc khai thác và quản lí nguồn lợi trong đầm. Mặc dù đã có những quy định
về kích cỡ mắt lưới, nhưng ngư dân có xu hướng giảm kích thước mắt lưới để tối đa hóa sản lượng
đánh bắt của họ.
112
Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa
2.2.2. Thay đổi về độ trong suốt, mềm và mảnh của sợi lưới
Các thuộc tính của vật liệu được sử dụng để chế tạo sợi lưới cũng có ảnh hưởng quan trọng
đến hiệu quả đánh bắt. Trong số các thuộc tính này, mức độ trong suốt, mềm mại và mảnh của
sợi lưới là những thuộc tính quan trọng nhất. Theo ngư dân, sản lượng đánh bắt giảm khi mức độ
trong suốt của sợi lưới giảm. Điều này đã dẫn đến những thay đổi trong việc sử dụng các vật liệu
chế tạo sợi lưới cho lưới rê. Sợi tự nhiên (cotton) có mức độ trong suốt thấp đã dần được thay thế
bằng sợi tổng hợp (synthetic fiber) có độ trong suốt cao. Sự xuất hiện của sợi tổng hợp với ưu việt
về độ trong suốt đã làm thay đổi căn bản nghề lưới rê tại đầm Nha Phu trong suốt hơn 3 thập kỉ
qua. Với độ trong suốt cao, ngư dân có thể sử dụng lưới rê sợi tổng hợp để đánh bắt tại bất kì môi
trường nước nào (trong, đục, màu sắc), tại bất kì thời điểm nào (ngày, đêm). Đây là sự khác biệt
lớn nhất so với lưới rê làm bằng sợi tự nhiên trước đây – ngư cụ đánh bắt không hiệu quả vì chỉ sử
dụng được tại môi trường nước đục hoặc vào buổi chiều tối và ban đêm không có ánh trăng. Chính
vì vậy, lưới rê bằng sợi tổng hợp hiện đã thay thế hoàn toàn lưới rê làm bằng sợi tự nhiên.
Thuộc tính quan trọng thứ hai của vật liệu chế tạo sợi lưới là độ mềm và độ mảnh của sợi
lưới. Theo ngư dân, độ trong suốt của sợi lưới quan trọng hơn độ mềm và độ mảnh của sợi lưới –
lưới cứng có độ trong suốt cao sẽ đánh bắt được nhiều hơn lưới mềm có độ trong suốt thấp. Tuy
nhiên, nếu so sánh hai loại lưới có độ trong suốt như nhau thì lưới có độ mềm và mảnh cao hơn sẽ
đánh bắt được nhiều hơn lưới cứng và thô hơn. Vì vậy, sợi lưới mảnh và mềm ngày càng được ưa
chuộng để tăng thêm mức độ trong suốt và sự mềm mại của lưới rê. Cùng chính vì thế mà lưới rê
tại đầm Nha Phu còn có tên địa phương khác là lưới bén – loại lưới được dệt bằng sợi rất mảnh.
2.2.3. Xu hướng sử dụng kết hợp và gia tăng chiều dài các loại lưới
Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy sự khác biệt đáng kể về mức đầu tư và lợi nhuận kinh tế của
các loại lưới. Bảng 1 cho thấy vốn đầu tư ban đầu cho một vàng lưới nhỏ (dùng cho 1 lao động)
gia tăng từ lưới cá 1 lớp (khoảng 1,2 triệu đồng) đến lưới cá 3 lớp (1,9 triệu đồng), lưới tôm 3 lớp
(2,5 triệu đồng) và lưới ghẹ 3 lớp (3,4 triệu đồng). Theo đó, lợi nhuận kinh tế cũng tùy thuộc vào
loại lưới được ngư dân sử dụng. Thông thường, loại lưới có vốn đầu tư cao hơn sẽ cho thu nhập
ròng cao hơn. Lưới ghẹ 3 lớp là một ngoại lệ, đòi hỏi đầu tư cao nhất, nhưng thu nhập ròng thấp
nhất. Tuy nhiên, ngư dân vẫn sử dụng loại lưới này để tạo nguồn thu nhập bổ sung cho lưới cá và
lưới tôm.
Bảng 1. Ước tính đầu tư, chi phí và lợi nhuận kinh tế của một vàng lưới rê
TT Loại lưới Tổng đầutư (đồng)
Chi
phí/ngày*
(đồng)
Tổng
thu/ngày
(đồng)
Thu
nhập/ngày
(đồng)
Chu kì
sử dụng
(ngày)
Bán lưới
rách
(đồng)
1 Lưới cá 1 lớp (6 tấm) 1.215.500 40.500 100.000 59.500 30 250.000
2 Lưới cá 3 lớp (8 tấm) 1.889.000 21.000 120.000 99.000 90 375.000
3 Lưới tôm 3 lớp (8tấm) 2.544.500 56.500 120.000 63.500 45 800.000
4 Lưới ghẹ 3 lớp (8tấm) 3.396.500 75.500 120.000 44.500 45 750.000
Chi phí/ngày*: Không bao gồm đá, đồ ăn thức uống cho chuyến đánh bắt
Nguồn: Nghiên cứu thực địa của tác giả từ 2008 – 2012 và 2015
Theo các ngư dân được phỏng vấn, ngoại trừ lưới cá 3 lớp, thu nhập ròng từ các loại lưới
chỉ có thể trang trải được các chi phí cơ bản hàng ngày cho gia đình. Cần lưu ý rằng, các loại lưới
sẽ bị rách và bị thay thế sau một khoảng thời gian sử dụng nhất định (trung bình là 30 ngày đối
113
Nguyễn Tường Huy
với lưới rê 1 lớp, 45 ngày đối với lưới tôm và ghẹ 3 lớp, 90 ngày đối với lưới cá 3 lớp). Ngư dân
có thể bán lưới rách cho người nuôi vẹm xanh hoặc người bẫy tôm hùm giống để được một khoản
tiền bằng khoảng 20 – 25% đầu tư ban đầu (xem Bảng 1).
Thu nhập từ đánh bắt cá bằng lưới rê không chỉ phụ thuộc vào loại lưới mà còn phụ thuộc
vào chiều dài của lưới. Vì vậy, để duy trì và gia tăng sản lượng đánh bắt, ngư dân có xu hướng tăng
số lượng tấm lưới – lưới càng dài thì càng đánh bắt được nhiều cá. Tuy nhiên, chiến lược này lại
phụ thuộc vào khả năng đầu tư của hộ gia đình. Đối với các hộ ngư dân khá giả, họ có khả năng
đầu tư cho vàng lưới dài nhất để tối đa hóa sản lượng đánh bắt. Họ cũng là những người tiên phong
trong việc tìm kiếm khu vực đánh bắt tốt hơn, mặc dù ngư trường là một dạng tài nguyên dùng
chung. Do đánh bắt được nhiều hơn và có thu nhập cao hơn, các hộ ngư dân khá giả tiết kiệm được
nhiều hơn để mua sắm các loại lưới khác cũng như đầu tư vào các sinh kế khác (chẳng hạn như
nuôi vẹm xanh, bẫy tôm hùm giống, cho vay) để đa dạng hóa sinh kế và gia tăng thu nhập của họ.
Trái lại, những hộ ngư dân nghèo thường gặp khó khăn trong mua sắm nhiều lưới vì họ
không có đủ khả năng đầu tư vốn ban đầu. Điều này có nghĩa là họ không thể gia tăng sản lượng
đánh bắt và thu nhập để tiết kiệm tiền cho tái đầu tư. Họ cũng không thể đa dạng hóa được sinh kế
của gia đình, mà phải chấp nhận nghề lưới rê quy mô nhỏ như một sinh kế chính với thu nhập thấp.
Nhiều hộ gia đình đã cố gắng vay mượn từ những người cho vay tư nhân để thoát khỏi tình trạng
này. Tuy nhiên, trong bối cảnh suy giảm nguồn lợi, thu nhập của họ thường không đủ để trang trải
nợ nần với lãi suất rất cao.
Cũng cần lưu ý rằng, thu nhập từ đánh bắt cá không chỉ phụ thuộc vào loại lưới và chiều
dài vàng lưới (số lượng tấm lưới) mà còn phụ thuộc vào việc sử dụng kết hợp các loại lưới cho một
chuyến đi biển trong từng mùa đánh bắt (xem Bảng 2). Do vậy, ngư dân có xu hướng sử dụng kết
hợp các loại lưới khác nhau cho một chuyến đi biển. Có hai cách kết hợp các loại lưới: (i) kết hợp
lưới ghẹ 3 lớp với lưới tôm 3 lớp, hoặc (ii) kết hợp lưới ghẹ 3 lớp với lưới rê 1 lớp hoặc lưới cá 3
lớp. Sự kết hợp này là do lưới ghẹ 3 lớp được thả và kéo một lần trong khi lưới ghẹ 3 lớp và lưới cá
3 lớp được thả và kéo nhiều lần trong một chuyến đi biển. Sự kết hợp này cũng là do tính mùa vụ
của các loài thủy sản trong đầm. Như vậy, để đa dạng hóa và gia tăng thu nhập, ngư dân cần phải
đầu tư vào tất cả các loại lưới để có thể đánh bắt được quanh năm. Đây rõ ràng là một trở ngại khó
có thể vượt qua đối với các hộ ngư dân nghèo và trung bình vì họ không có vốn đầu tư hoặc không
thể cố gắng để đầu tư mua sắm các loại lưới. Ngoài ra, sự hạn chế về ngư trường đánh bắt, đặc biệt
là các ngư trường thuận lợi (do sự mở rộng vùng nuôi vẹm xanh và đăng nò về phía nam và phía
đông nam của đầm), sự suy giảm nguồn lợi là những thách thức lớn đối với sự phát triển và mở
rộng của nghề lưới rê.
Bảng 2. Mùa vụ đánh bắt của các loại lưới rê
(Nguồn: Nghiên cứu thực địa của tác giả từ 2008 - 2012 và 2015)
114
Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa
2.3. Một số hệ quả kinh tế, xã hội và tài nguyên
2.3.1. Thu nhập thấp và bất bình đẳng về thu nhập
Tiếp cận mở (open-access) là một đặc trưng của nguồn lợi thủy sản trong đầm. Vì vậy, tài
nguyên này thường được coi là một nơi an toàn, một nguồn tài nguyên cuối cùng cho lao động
tại các các cộng đồng dân cư thiếu đất nông nghiệp và thất nghiệp. Đây chính nguyên nhân chủ
yếu của việc đánh bắt quá mức và là nguyên nhân gốc rễ của tình trạng nghèo khó trong các cộng
đồng nghề cá quy mô nhỏ [4, 5]. Tại đầm Nha Phu, trong bối cảnh hạn chế về sinh kế, những nỗ
lực chuyển đổi nghề lưới rê nhằm duy trì và gia tăng sản lượng đánh bắt đã dẫn việc khai thác quá
mức. Hệ quả trực tiếp là thu nhập thấp do sản lượng thấp và chi phí sản xuất cao. Quan sát Bảng 1
cho thấy, ngoại trừ lưới cá 3 lớp, tỉ lệ chi phí trên tổng thu của một chuyến đi biển chiếm từ 40%
(lưới rê 1 lớp) đến 63% (lưới ghẹ 3 lớp).
Như đã đề cập ở trên, thu nhập từ đánh bắt cá bằng lưới rê không chỉ phụ thuộc vào loại
lưới, chiều dài của lưới và sự kết hợp của các loại lưới. Vì vậy, để tăng thu nhập, ngư dân có xu
hướng (i) tăng số lượng tấm lưới và (ii) kết hợp các loại lưới khác nhau trên cùng một chuyến đi
biển. Tuy nhiên, chiến lược này lại phụ thuộc vào khả năng đầu tư của hộ gia đình. Đây chính là
nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng trong phân bố thu nhập giữa các hộ ngư dân. Đối với các
hộ gia đình ngư dân khá giả, họ có thể đầu tư mua sắm đủ các loại lưới với số lượng tấm lưới nhiều
nhất để tối đa hóa sản lượng đánh bắt. Do đánh bắt được nhiều hơn và có thu nhập cao hơn, họ tiết
kiệm được nhiều hơn để mua sắm các loại lưới khác cũng như đầu tư vào các sinh kế khác để đa
dạng hóa sinh kế và gia tăng thu nhập.
2.3.2. Nợ nần vì đầu tư quá mức và chi phí sản xuất cao
Quá trình chuyển đổi nghề lưới rê cũng dẫn đến tình trạng nợ nần của các hộ ngư dân nghèo
do đầu tư quá mức và chi phí sản xuất cao. Đầu tư cho nghề lưới rê tại đầm Nha Phu hiện không
mang lại hiệu quả kinh tế cao so với việc đầu tư vào các sinh kế khác. Thực tế này cũng cho thấy
nguồn lợi thủy sản đang bị khai thác vượt quá giới hạn cho phép. Bảng 1 cung cấp ví dụ về mức
độ đầu tư quá mức của lưới rê tại đầm Nha Phu. Nhiều ngư dân đã phản ánh rằng, lợi ích kinh tế
trong một chu kì sử dụng lưới rê trên thực tế chỉ là số tiền thu được từ việc bán lưới rách trong
khi khoản đầu tư ban đầu của họ đã biến mất. Điều này có nghĩa rằng, họ không thể tiết kiệm tiền
từ việc đánh bắt cá bằng lưới rê mà phải tìm các nguồn vốn khác để mua sắm lưới rê mới. Trong
nhiều trường hợp, họ phải đi vay từ người cho vay tư nhân với lãi suất rất cao.
Tình trạng nợ nần khá phổ biến tại các cộng đồng ngư dân làm nghề lưới rê trên đầm Nha
Phu. Thu nhập thường không đủ trang trải nhu cầu tồn tại của gia đình hoặc có dư thì cũng không
đáng kể. Đối với các gia đình có thặng dư thì cũng sử dụng sử dụng nó một cách nhanh chóng
trong thời gian không thể đi biển hoặc chi tiêu cho việc cải thiện ngư cụ, sửa chữa nhà ở hoặc cho
hiếu hỉ. Khi số tiền thặng dư đã bị chi tiêu, hoặc không đánh bắt được cá tôm, ngư dân thường
phải trông cậy vào nguồn tín dụng với lãi suất cao với hi vọng là họ có thể trang trải được bằng các
chuyến đi biển tiếp theo. Tuy nhiên, nhiều ngư dân cho rằng, họ đang phải đối mặt sự gia tăng số
ngày đi biển không có sản phẩm hoặc có rất ít sản phẩm. Do đó, các hộ gia đình này đã phải vay
từ người cho vay tư nhân với lãi suất cao để đáp ứng nhu cầu cơ bản của gia đình. Bằng cách này,
họ bị mắc kẹt trong một chu kì vô tận và vô vọng của nợ nần vì số tiền vay dần dần vượt quá khả
năng trả nợ của họ. Theo ước tính của những người cung cấp thông tin chính, có tới 60% số hộ gia
đình làm nghề lưới rê ở các làng chài mắc nợ.
115
Nguyễn Tường Huy
2.3.3. Suy giảm nguồn lợi và một số tác động xã hội khác
Những thay đổi về kích thước mắt lưới và vật liệu (với những thuộc tính như độ trong suốt,
mềm và mảnh của sợi lưới) chế tạo lưới rê có ý nghĩa quan trọng đối với nghề cá tại đầm Nha Phu.
Trong khi lưới rê 1 lớp có mức độ chọn lọc cao do có một lớp lưới với kích thước mắt lưới đồng
nhất, lưới rê 3 lớp lại có mức độ chọn lọc rất thấp vì sử dụng ba lớp lưới với kích thước mắt lưới
khác nhau. Về phương diện quản lí nguồn lợi, mức độ chọn lọc cao là một ưu việt nổi trội của lưới
rê 1 lớp đối với nguồn lợi so với lưới rê 3 lớp và các ngư cụ khác. Chính vì vậy, các cơ quan chức
năng đã có quy định về kích thước mắt lưới, cấm các loại lưới có kích thước mắt lưới quá nhỏ để
bảo vệ nguồn tôm cá chưa trưởng thành. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng dân số, sức ép về sinh
kế và sự suy giảm nguồn lợi thủy sản, ngư dân có xu hướng giảm kích thước mắt lưới để đảm bảo
sản lượng đánh bắt của họ. Đây chính là những tác nhân làm cho nguồn lợi trong đầm suy giảm
và mất cân bằng nghiêm trọng. Tiếp cận mở đối với các nguồn tài nguyên thủy sản trong bối cảnh
quản lí tài nguyên thiếu hiệu quả cũng được coi là những tác nhân quan trọng [1].
Bên cạnh việc giảm kích thước mắt lưới, ngư dân đã thay thế các loại sợi tự nhiên có độ
trong suốt thấp, cứng và thô bằng lưới rê làm bằng sợi tổng hợp trong suốt, mềm mại và mảnh hơn
để gia tăng sản lượng đánh bắt. Tuy nhiên, xu hướng này cũng đã gia tăng áp lực lên nguồn lợi
thủy sản trong đầm. Thêm vào đó, ngư dân cũng phải phụ thuộc vào lưới nhập khẩu vì họ không
có khả năng để sản xuất lưới với các thuộc tính tương tự (Hình 2). Trong bối cảnh thu nhập thấp,
nhiều ngư dân không có đủ tiền để mua lưới rê, và họ phải phụ thuộc vào các nguồn vốn vay tư
nhân.
Lưới rê dệt bằng sợi rất mảnh và mềm, rất dễ bị rách và rất khó vá thủ công. Điều này không
chỉ làm giảm lợi nhuận kinh tế từ đánh bắt mà còn làm suy giảm lợi thế nguồn vốn con người của
gia đình. Những người lớn tuổi, phụ nữ và trẻ em hiện ít có cơ hội đan mới hoặc sửa chữa lưới rê
cho gia đình hoặc làm thuê cho người khác. Trong bối cảnh hạn chế sinh kế phụ và sinh kế thay
thế tại các cộng đồng nghề cá, sự suy giảm lợi thế về nguồn nhân lực là điều đáng lưu tâm, mặc
dù lợi nhuận kinh tế hữu hình do nguồn lực này đem lại là không đáng kể. Như vậy, những lợi thế
ban đầu của lưới rê đã giảm đi khi chúng được sử dụng phổ biến trong đánh bắt tại đầm Nha Phu.
Otto Gabriel và cộng sự [7] đã khẳng định rằng, nghề cá sử dụng số lượng lớn lưới rê hiện nay đã
trở nên không có hiệu quả kinh tế.
Hình 2. Các loại lưới rê nhập khẩu từ Khon Kean, Thái Lan
(Nguồn: Nghiên cứu thực địa của tác giả từ 2008 - 2012)
116
Sự thay đổi của nghề lưới rê và những hệ quả của nó tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa
2.3.4. Chiến lược đối phó không vền vững và hệ lụy
Để đối phó với sự cạn kiệt tài nguyên và tình trạng thu nhập thấp, ngư dân đã áp dụng một
số chiến lược để nâng cao sinh kế của họ. Trong số này, sử dụng lưới rê có kích thước mắt lưới nhỏ
hơn để đánh bắt tất cả các loài thủy sản với kích cỡ khác nhau là một phương kế phổ biến. Phương
kế này có thể đáp ứng nhu cầu của ngư dân trong ngắn hạn nhưng lại làm phương hại đến những
lợi ích lâu dài trong duy trì sự bền vững của nguồn lợi. Bên cạnh đó, nhiều ngư dân cũng sử dụng
những ngư cụ bất hợp pháp như te điện, lưới điện nhằm duy trì sự tồn tại của gia đình trong những
thời điểm khó khăn. Những ngư cụ này cũng là các tác nhân trực tiếp của sự suy kiệt tài nguyên
dùng chung trong đầm Nha Phu.
Ngoài ra, đánh bài, đánh bạc, vay nóng, chơi hụi họ. . . là một số biện pháp khá phổ biến
đối với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trung niên (đối tượng thất nghiệp và thiếu việc làm chủ yếu tại
các cộng đồng nghề cá), để đối phó với tình trạng suy giảm nguồn lợi và thu nhập thấp. Trong số
này, vay nóng với lãi suất rất cao để trang trải cho nhu cầu sinh sống tối thiểu hàng ngày của gia
đình là đáng báo động. Tình trạng người vay nợ không thể trả được nợ khá phổ biến đã làm cho
nhiều hộ ngư dân, đặc biệt là các hộ ngư dân nghèo lún sâu vào nợ nần chống chất và hệ lụy là sự
bất ổn trong quan hệ gia đình và cộng đồng.
3. Kết luận
Lưới rê là nghề cá truyền thống và hiện vẫn là một sinh kế quan trọng của cộng đồng ngư
dân ven đầm Nha Phu. Nghề lưới rê ở đây đã trải qua những thay đổi đáng kể trong hơn ba thập kỉ
qua. Bài báo đã phác họa những thay đổi cơ bản của nghề lưới rê, nhận diện và thảo luận một số
hệ quả kinh tế, xã hội và tài nguyên của những thay đổi này.
Để gia tăng sản lượng đánh bắt trong bối cảnh suy giảm nguồn lợi, ngư dân có xu hướng
sử dụng lưới rê có kích thước mắt lưới nhỏ hơn và độ chọn lọc thấp hơn. Bên cạnh đó, các loại sợi
tự nhiên có độ trong suốt thấp, cứng và thô hơn đã bị thay thế bằng sợi tổng hợp có độ trong suốt
cao, mềm và mảnh hơn. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng dân số và sự suy giảm nguồn lợi thủy
sản, xu hướng này đã gia tăng áp lực đối với các nguồn tài nguyên trong đầm. Thu nhập từ đánh
bắt cá không chỉ phụ thuộc vào loại lưới mà còn phụ thuộc vào việc sử dụng kết hợp các loại lưới
và chiều dài vàng lưới. Vì vậy, ngư dân phải đầu tư vào tất cả các loại lưới với chiều dài vàng lưới
lớn nhất để đa dạng hóa và gia tăng và thu nhập của họ. Tuy nhiên, những chiến lược này lại phụ
thuộc vào khả năng đầu tư của các hộ ngư dân. Chính điều này đã gây ra các hệ lụy về bất bình
đẳng trong tiếp cận nguồn lợi, sản lượng đánh bắt và cuối cùng là thu nhập giữa các nhóm ngư
dân. Thêm vào đó, đầu tư quá mức và chi phí sản xuất cao đã làm cho thu nhập từ nghề lưới rê có
xu hướng giảm. Ngư dân đang bị cuốn vào cái bẫy thu nhập thấp – gia tăng cường lực khai thác
– suy giảm nguồn lợi – thu nhập thấp – nợ nần và suy giảm nguồn vốn con người. Nghề cá nói
chung, nghề lưới rê nói riêng đang đứng trước nguy cơ ‘bi kịch của cái chung’ mà Harrett Gardin
đã cảnh báo [8].
Vì thế, các cơ quan chức năng cần phải xây dựng một chiến lược để giảm bớt áp lực lên
nghề cá. Trong đó, đa dạng hóa sinh kế bên trong và bên ngoài nghề cá, phát triển các sinh kế thay
thế và sinh kế phụ cho ngư dân, đặc biệt là ngư dân nghèo và lao động nữ là những giải pháp ưu
tiên. Một cơ chế sử dụng và quản lí tài nguyên dùng chung hợp lí, khả thi cần phải được xác lập để
tái tạo và phát triển các nguồn lợi trong đầm.
Lời cảm ơn: Tác giả bài báo xin chân thành cảm ơn Dự án Thách thức của sự chuyển đổi
nông nghiệp – nông thôn tại Đông Nam Á (ChATSEA) và Trung tâm Địa lí Ứng dụng - Trường Đại
117
Nguyễn Tường Huy
học Sư phạm Hà Nội đã hỗ trợ kinh phí cho việc thực hiện các nghiên cứu thực địa trong khoảng
thời gian từ 2008 - 2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Văn Quỳnh Bôi, Trần Văn Phước và Vũ Thị Thuỳ Minh, 2010. Quyền tài sản đối với
nguồn lợi thuỷ sản tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hoà. In trong Trương Văn Tuyển và Lê Thị
Hoa Sen (Chủ biên), Phát triển đồng quản lí tài nguyên dùng chung ven biển miền Trung Việt
Nam, tr. 204-225. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
[2] Nguyễn Tường Huy, 2015. Sự phát triển của nghề nuôi vẹm xanh và một số vấn đề liên quan
tại đầm Nha Phu, tỉnh Khánh Hòa. Tạp chí Khoa học – ĐHSP Hà Nội, tập 60, số 5, tr. 138-146.
[3] Nguyễn Phi Toàn, Lại Huy Toàn, 2007. Kĩ thuật khai thác thủy sản bằng lưới rê. In trong Hội
Nghề cá Việt Nam: Bách khoa Thủy sản. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 251-53.
[4] Conner Bailey, 1994. Employment, labour productivity and income in small-scale fisheries of
South and Southeast Asia. In Indo-Pacific fishery commission, Proceedings of the symposium
on socio-economic issues in Coastal Fisheries Management. RAPA Publication 1994/8, 23–26
Nov 1993, Bangkok, Thailand, pp. 24–45.
[5] Christophe Béne, 2003. When fishery rhymes with poverty: a first step beyond the old
paradigm on poverty in small-scale fisheries. World Development, 31(6), pp. 949–975.
[6] FAO, 2001-2016. Fishing Gear types. Gillnets and entangling nets. Technology Fact Sheets.
In: FAO Fisheries and Aquaculture Department [online]. Rome. Updated 13 September 2001.
[Cited 15 September 2016]
[7] Otto Gabriel, Klaus Lange, Erdmann Dahm, Thomas Wendt, 2005. Fish catching methods of
the world. Von Brat’s: Wiley-Blackwell.
[8] Harrett Gardin, 1968. The Tragedy of the Commons. Science, 162 (3859), pp. 1243-1248.
[9] Nguyen Tuong Huy, 2014. Transformation of Fish Corrals in Nha Phu Lagoon, Vietnam:
Livelihood Changes and Implications. Australian Geographer, 45(3), Special Issue: Flexible
Livelihoods in a Complex World: Asian lives and economies in transition, pp. 393-406.
[10] Nguyen Tuong Huy, 2013. Transformation of Coastal Fisheries in Nha Phu Lagoon of
Vietnam; Livelihood changes and Implications. PhD Thesis, University of Sydney, Australia.
ABSTRACT
The changes of gill-net fisheries and associated consequences
in Nha Phu lagoon, Khanh Hoa province
Nguyen Tuong Huy
Faculty of Geography, Hanoi National University of Education
Small-scale fisheries in Nha Phu lagoon have undergone rapid transformation over the last
three decades. This article analyses the changes in gill-net fisheries and the economic, social and
resource consequences of these changes. Fishermen tend to use gill-nets that have smaller mesh
sizes and lower degrees of selectivity to maximize their catch. These changes have important
implications for the exploitation and the management of resources in the lagoon. Fishermen
also tend to use a combination of different gill-nets and to increase the length of gill-nets
in order to maintain their catch and income. These strategies, however, depend largely on the
households’ investment ability. In this context, low income and income disparity, unsustainable
coping strategies, and resource depletion are notable consequences of the changes.
Keywords: Livelihood, inequality, sustainability, fishery, poverty.
118
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4534_nthuy_544_2131895.pdf