Tài liệu Sự thay đổi của đường cong spee ở bộ răng vĩnh viễn: Nghiên cứu dọc từ 13-18 tuổi: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 7
SỰ THAY ĐỔI CỦA ĐƯỜNG CONG SPEE Ở BỘ RĂNG VĨNH VIỄN:
NGHIÊN CỨU DỌC TỪ 13-18 TUỔI
Nguyễn Bảo Trân*, Nguyễn Thị Kim Anh**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định độ sâu và bán kính của đường cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở
người 13 và 18 tuổi và đánh giá sự thay đổi của những đặc điểm này trong giai đoạn bộ răng vĩnh viễn từ 13-18 tuổi.
Phương pháp: Với mô thức nghiên cứu dọc, mẫu nghiên cứu gồm 35 trẻ (16 nam, 19 nữ) có bộ răng vĩnh
viễn lành mạnh và đầy đủ được theo dõi liên tục từ 13 đến 18 tuổi. Hình ảnh mặt bên mẫu hàm hàm dưới được
ghi lại bằng cách chụp ảnh kỹ thuật số có chuẩn hóa. Độ sâu và bán kính đường cong Spee được đo đạc gián tiếp
qua ảnh chụp mặt bên mẫu hàm hàm dưới bằng phần mềm AutoCAD.
Kết quả nghiên cứu: Các giá trị đặc trưng của đường cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở nam và nữ không
có sự khác biệt có ý nghĩa ở 13 và 18 t...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự thay đổi của đường cong spee ở bộ răng vĩnh viễn: Nghiên cứu dọc từ 13-18 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 7
SỰ THAY ĐỔI CỦA ĐƯỜNG CONG SPEE Ở BỘ RĂNG VĨNH VIỄN:
NGHIÊN CỨU DỌC TỪ 13-18 TUỔI
Nguyễn Bảo Trân*, Nguyễn Thị Kim Anh**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định độ sâu và bán kính của đường cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở
người 13 và 18 tuổi và đánh giá sự thay đổi của những đặc điểm này trong giai đoạn bộ răng vĩnh viễn từ 13-18 tuổi.
Phương pháp: Với mô thức nghiên cứu dọc, mẫu nghiên cứu gồm 35 trẻ (16 nam, 19 nữ) có bộ răng vĩnh
viễn lành mạnh và đầy đủ được theo dõi liên tục từ 13 đến 18 tuổi. Hình ảnh mặt bên mẫu hàm hàm dưới được
ghi lại bằng cách chụp ảnh kỹ thuật số có chuẩn hóa. Độ sâu và bán kính đường cong Spee được đo đạc gián tiếp
qua ảnh chụp mặt bên mẫu hàm hàm dưới bằng phần mềm AutoCAD.
Kết quả nghiên cứu: Các giá trị đặc trưng của đường cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở nam và nữ không
có sự khác biệt có ý nghĩa ở 13 và 18 tuổi. Khi đánh giá sự thay đổi của những đặc điểm này trong giai đoạn từ 13-18 tuổi,
nhận thấy độ sâu đường cong Spee giảm có ý nghĩa và bán kính đường cong Spee tăng có ý nghĩa.
Kết luận: Xu hướng thay đổi của đường cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới từ 13-18 tuổi là ngày càng ít cong
hơn. Mặt phẳng nhai cung răng vĩnh viễn hàm dưới trở nên phẳng ra hơn.
Từ khóa: đường cong Spee, độ sâu đường cong Spee, bán kính đường cong Spee
ABSTRACT
CHANGES OF THE CURVE OF SPEE IN PERMANENT DENTITION: A LONGITUDINAL STUDY
FROM 13 TO 18 YEARS OF AGE
Nguyen Bao Tran, Nguyen Thi Kim Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 7 - 13
Objectives: the aims of this study are to determine the depth and radius of the curve of Spee (COS) in 13
and 18 year-old-people and to evaluate the changes of COS from 13 to 18 years of age.
Method: 35 people (16 males, 19 females) with sound and complete dentition longitudinally participated in
this study. Dental casts of mandibular were collected every year. The depth and radius of COS were measured
based on the standardized photographs of dental casts by AutoCAD software.
Results: Values of the curve of Spee had no significant difference between males and females. During the
time from 13 to 18 years old, the depth of the Spee curve decreased significantly, while the radius of this curve
increased significantly.
Conclusions: The curve of Spee showed some modifications from 13 to 18 years of age, which was
determined as becoming more flattened.
Keywords: the curve of Spee, the Spee depth, the Spee radius
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hệ thống hàm mặt của con người, đặc biệt là
bộ răng, là một tổng thể thống nhất được sắp xếp
một cách tinh tế, theo những nguyên tắc nhất
định, giúp hoạt động chức năng diễn ra hiệu
quả. Mỗi răng trên cung hàm có đặc điểm giải
phẫu và vị trí thích hợp để không chỉ đảm nhận
* Học viên Nội trú khóa 2011-2014, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược, Thành phố Hồ Chí Minh
** Bộ môn NKCS, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược, Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Bảo Trân ĐT: 0917660426 Email: baotran2611@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 8
được chức năng chuyên biệt của từng răng mà
còn đảm bảo cho sự hài hoà cho toàn bộ cung
răng và khớp cắn.
Khi nhìn từ phía bên cung răng hàm dưới,
các răng được sắp xếp để hình thành nên một
đường cong cắn khớp. Đường cong này được
mô tả lần đầu tiên vào năm 1890 bởi Von Spee,
mà sau này được biết đến qua thuật ngữ “đường
cong Spee”(14,15). Theo Spee, đường cong Spee
đóng vai trò quan trọng trong hoạt động chức
năng của bộ răng vì nếu mặt nhai các răng sắp
xếp theo một mặt phẳng, do sự hiện diện của lồi
khớp, hai cung răng không thể trượt theo chiều
trước sau để thực hiện chức năng nhai nghiền.
Trong thực hành nha khoa, việc điều chỉnh hoặc
tái tạo lại đường cong Spee sao cho hài hòa với
hướng dẫn lồi cầu, hướng dẫn răng cửa, mặt
phẳng khớp cắn và độ cao của múi răng giả là
một yêu cầu bắt buộc trong chỉnh hình răng mặt
cũng như phục hình toàn hàm để đạt được một
khớp cắn chức năng và ổn định.
Trên thế giới, hình ảnh đường cong Spee ở
bộ răng vĩnh viễn với các giá trị cơ bản là độ sâu
và bán kính đã được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu vì tầm quan trọng về mặt lâm sàng
của nó (Ferrario (1997, 1999)(4,5), Orthlieb
(1997)(13), Kobayashi (1998)(7), Xu (2004)(16),
Marshall (2006)(8)). Theo các nghiên cứu trên,
đường cong Spee có sự thay đổi trong giai đoạn
vị thành niên theo xu hướng giảm độ sâu và
tăng bán kính. Ở tuổi trưởng thành, đường cong
Spee gần như không thay đổi.
Tại Việt Nam, Hoàng Tử Hùng và Nguyễn
Thị Kim Anh lần đầu tiên cho số liệu đo đạc
cụ thể về đường cong Spee ở bộ răng vĩnh
viễn của người trưởng thành (1994)(9) và tiếp
theo đó, nghiên cứu về sự thay đổi của đường
cong này trên bộ răng sữa ở trẻ từ 3-5 tuổi
(2007)(10). Song vẫn chưa có nghiên cứu nào về
sự thay đổi của đường cong Spee theo thời
gian ở bộ răng vĩnh viễn.
Nhằm tiếp nối các công trình nghiên cứu
trên, góp phần hoàn thiện những thông số về
đặc điểm hình thái học cung răng vĩnh viễn
người Việt và sự thay đổi của các đặc điểm này
theo thời gian, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
về đường cong Spee ở bộ răng vĩnh viễn từ 13-18
tuổi với những mục tiêu sau:
1- Xác định độ sâu và bán kính của đường
cong Spee của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở
người 13 và 18 tuổi.
2- Xác định sự thay đổi về độ sâu và bán
kính của đường cong Spee của cung răng vĩnh
viễn hàm dưới trong giai đoạn từ 13 - 18 tuổi.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Gồm 35 mẫu hàm hàm dưới (16 nam và 19
nữ) được chọn từ 358 cặp mẫu hàm của trẻ em
tham gia chương trình “Theo dõi và chăm sóc răng
miệng đặc biệt trong 15 năm (1996-2010)” do Bộ Y
Tế quản lý, thực hiện tại Khoa RHM – ĐH Y
Dược TP.HCM. Đối tượng nghiên cứu được
chọn theo các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn chung
Có cha mẹ, ông bà nội ngoại là người VN,
dân tộc Kinh
Có tình trạng sức khỏe bình thường, không
có dị tật bẩm sinh hay bất hài hòa mặt, không
mắc bệnh ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ
thể và hệ thống đầu mặt – cung răng
Không chỉnh hình răng mặt
Tiêu chuẩn về răng
Có đủ 28 răng vĩnh viễn trên cung hàm
Không bị bất thường hình dạng và số lượng
răng
Khớp cắn ANGLE hạng I.
Tiêu chuẩn chọn lựa mẫu hàm
Phải đủ 2 mẫu hàm hàm dưới tương ứng với
độ tuổi 13 và 18 của cùng một cá thể
Cung răng cân xứng, không có răng trồi và
răng lún ảnh hưởng đến các đường cong cắn
khớp.
Ghi dấu rõ ràng và đầy đủ các chi tiết của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 9
răng và cung răng.
Phương pháp nghiên cứu
Mô thức nghiên cứu
Nghiên cứu dọc thuần túy trên một nhóm
người nhất định được theo dõi liên tục từ 13 đến
18 tuổi, dữ liệu được thu thập lần thứ nhất lúc 13
tuổi và lần thứ nhì lúc 18 tuổi.
Phương tiện nghiên cứu
- Máy ảnh kỹ thuật số loại DSRL, hiệu
NIKON D5100, độ phân giải 16,2 MP
- Chân máy ảnh
- Thước thủy tĩnh
- Bút lông kim
- Hệ thống định vị mẫu hàm:
Chân đỡ mẫu hàm: gồm một mâm nhỏ để
giữ mẫu hàm và 3 nhánh chân. Mâm có thể
nghiêng và các nhánh chân có thể thay đổi kích
thước để định vị mẫu hàm theo hướng lựa chọn.
Tấm kính dùng để chuẩn hóa mặt nhai mẫu
hàm gắn cố định trên thanh đứng bằng ốc khóa.
Tấm kính dày 3mm, được chỉnh song song với
mặt phẳng ngang bằng thước thủy tĩnh.
Các điểm mốc được chọn trên mẫu hàm
Chọn 3 điểm mốc để xác định độ sâu và bán
kính của đường cong Spee (dựa theo nghiên cứu
của Nguyễn Thị Kim Anh (1994, 2012)(9,11), gồm:
đỉnh múi răng nanh, đỉnh múi gần ngoài răng
cối lớn I và đỉnh múi xa ngoài răng cối lớn II.
Các thông số kích thước của đường cong Spee
Độ sâu đường cong Spee (SSpee): khoảng cách
từ đỉnh múi gần ngoài răng cối lớn I dưới đến
đường thẳng nối đỉnh múi xa ngoài răng cối lớn
II dưới và đỉnh múi răng nanh dưới.
Bán kính đường cong Spee (RSpee): bán kính
đường tròn ngoại tiếp tam giác có 3 đỉnh lần lượt
là đỉnh múi răng nanh dưới, đỉnh múi gần ngoài
răng cối lớn I dưới, đỉnh múi xa ngoài răng cối
lớn II dưới
Mô tả phương pháp đo đạc các thông số kích
thước của đường cong Spee
Bước 1: Chụp ảnh mẫu hàm hàm dưới nhìn từ
phía bên phải mẫu hàm (dựa theo phương pháp
của Farella(2) và Xu(16) có điều chỉnh). Các tác giả
trên đã chọn một bên của mẫu hàm (phải hoặc
trái) để nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu khác về
đường cong Spee trên thế giới và tại Việt Nam
đều nhận thấy hình thái đường cong Spee bên
phải và trái cung răng không có sự khác
biệt(4,5,8,11). Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn
phía bên phải mẫu hàm hàm dưới để chụp ảnh
nghiên cứu.
Chuẩn hóa mẫu hàm sao cho mặt nhai song
song mặt phẳng ngang:
Tấm kính được chỉnh song song mặt phẳng
ngang. Đặt mẫu hàm lên chân đỡ và điều chỉnh
chạm tấm kính ít nhất 3 điểm: một điểm trên
răng trước và hai điểm vùng răng sau hai bên
(theo phương pháp của Hoàng Tử Hùng(12)).
Chuẩn hóa máy ảnh sao cho:
Mặt ống kính vuông góc mặt phẳng ngang
và song song đường thẳng đi qua đỉnh múi răng
nanh và đỉnh múi xa ngoài răng cối lớn II hàm
dưới (hình 1 và 2).
Hình 1. Chuẩn hóa mặt ống kính vuông góc mặt phẳng
ngang
Hình 2. Chuẩn hóa mặt ống kính song song đường
thẳng đi qua đỉnh múi răng nanh và đỉnh múi xa ngoài
răng cối lớn II hàm dưới
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 10
Tâm ống kính trùng với đỉnh múi ngoài răng
cối nhỏ II hàm dưới.
Chụp ảnh từng mẫu hàm bằng chế độ
Mannual, tiêu cự 105mm, khẩu độ F16.
Bước 2: Chuyển ảnh vào máy vi tính, dùng
phần mềm AutoCAD 2007 đo độ sâu và bán
kính đường cong Spee
Hình 3. Ảnh chụp mặt hàm hàm dưới từ phía bên
phải mẫu hàm
Xử lý số liệu
Dùng phần mềm SPSS 16.0 để xử lý thống kê
số liệu thu thập, trình bày đặc trưng thống kê cơ
bản (số trung bình, độ lệch chuẩn). Sử dụng
kiểm định t cho 2 mẫu độc lập hoặc kiểm định
Mann-Whitney để so sánh các đặc điểm nghiên
cứu giữa giữa nam và nữ. Sử dụng kiểm định t
cặp đôi hoặc kiểm định dấu hạng Wilcoxon để
so sánh dọc các đặc điểm nghiên cứu từ 13 đến
18 tuổi.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Các đặc trưng của đường cong Spee ở cung
răng vĩnh viễn hàm dưới ở người 13 và 18
tuổi
Bảng 1 và 2 trình bày các số liệu thống kê mô
tả về độ sâu và bán kính của đường cong Spee ở
người 13 và 18 tuổi, chung cho hai giới.
Bảng 1. Các thông số về đường cong Spee ở trẻ 13 tuổi, chung cho nam và nữ
Biến số
Trung bình
(mm)
Độ lệch chuẩn
(mm)
Sai số chuẩn
(mm)
Hệ số biến
thiên (%)
Khoảng tin cậy 95%
(mm)
SSpee 2,229 0,478 0,081 21,445 2,065 – 2,394
RSpee 80,781
19,945 3,371 24,690 73,929 – 87,632
So sánh với các nghiên cứu khác về độ sâu
của đường cong Spee ở bộ răng vĩnh viễn,
chúng tôi nhận thấy: ở trẻ vị thành niên (13
tuổi), độ sâu đường cong Spee trong nghiên
cứu này là 2,23mm, xấp xỉ với kết quả nghiên
cứu của Nguyễn Thị Kim Anh cũng ở trẻ em
Việt Nam 13 tuổi (2012)(11) thực hiện bằng
phương pháp đo trực tiếp trên mẫu hàm là
2,03mm. Sự khác biệt về độ sâu giữa hai
nghiên cứu là 0,2mm, phù hợp với nhận định
của Hirogaki (2001)(6): sự khác biệt giữa đo
kích thước cung răng trực tiếp trên mẫu hàm
và đo gián tiếp qua hình ảnh mẫu hàm là dưới
0,3mm. Độ sâu đường cong Spee trong nghiên
cứu của Marshall ở trẻ người Mỹ 12,5 tuổi(8) là
2,17mm, cũng xấp xỉ với trẻ em Việt Nam
trong nghiên cứu này. Độ sâu đường cong
Spee trong nghiên cứu của Carter ở trẻ người
Mỹ 14 tuổi(1) là 1,86mm, thấp hơn đo trên trẻ
Việt Nam.
Bảng 2. Các thông số về đường cong Spee ở người 18 tuổi, chung cho nam và nữ
Biến số
Trung bình
(mm)
Độ lệch chuẩn
(mm)
Sai số chuẩn
(mm)
Hệ số biến
thiên (%)
Khoảng tin cậy 95%
(mm)
SSpee 1,750 0,551 0,093 31,486 1,506 – 1,939
RSpee 104,885 30,838 5,213 29,402 94,292 – 115,479
Ở người trưởng thành, độ sâu đường cong
Spee trong nghiên cứu này là 1,75mm, nhỏ hơn
kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Anh
trên người Việt trưởng thành từ 18-25 tuổi(9) là
1,91mm. Độ sâu đường cong Spee trong nghiên
cứu của Xu trên người Nhật 21 tuổi(16) là 1,9mm
và của Marshall trên người Mỹ 27 tuổi(8) là
2,02mm, lớn hơn trẻ em Việt Nam trong nghiên
cứu này. Độ sâu đường cong Spee trong nghiên
cứu của Carter trên người Mỹ 48 tuổi(1) là 1,5mm,
thấp hơn trẻ Việt Nam.
So sánh giữa nam và nữ, bảng 3 và 4 cho
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 11
thấy ở 13 và 18 tuổi, độ sâu đường cong Spee của
nam nhỏ hơn nữ và bán kính đường cong Spee
của nam lớn hơn nữ nhưng khác biệt không có ý
nghĩa thống kê.
Bảng 3. Độ sâu và bán kính đường cong Spee ở trẻ 13 tuổi, so sánh giữa nam và nữ
Biến số
Nam (n=16) Nữ (n=19)
p Mức ý nghĩa
TB ĐLC TB ĐLC
SSpee 2,145 0,508 2,301 0,452 0,345
(1)
NS
RSpee 86,484 20,339 75,978 18,799 0,098
(2)
NS
(1): Kiểm định t cho hai mẫu độc lập, (2): Kiểm định Mann-Whitney
Bảng 4. Độ sâu và bán kính đường cong Spee ở người 18 tuổi, so sánh giữa nam và nữ
Biến số
Nam (n=16) Nữ (n=19)
p Mức ý nghĩa
TB ĐLC TB ĐLC
SSpee 1,697 0,524 1,794 0,583 0,612
(1)
NS
RSpee 109,548 28,665 100,959 32,802 0,420
(1)
NS
(1): Kiểm định t cho hai mẫu độc lập, (2): Kiểm định Mann-Whitney
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với kết quả của nhiều nghiên cứu khác: độ sâu
đường cong Spee không có sự khác nhau giữa
hai giới(3,9,11,16). Tuy nhiên, Kobayashi (1998)(7) khi
nghiên cứu về đường cong Spee ở người Nhật
trưởng thành lại nhận thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa về độ sâu đường cong Spee giữa nam và
nữ: nữ sâu hơn nam.
Những thay đổi của đường cong Spee ở
cung răng vĩnh viễn hàm dưới từ 13 - 18 tuổi
Sự thay đổi của đường cong Spee từ 13-18
tuổi được đánh giá qua hai tham số đặc trưng cơ
bản:
Độ sâu đường cong Spee (SSpee): giảm có ý
nghĩa từ 2,23mm ở 13 tuổi xuống 1,75mm ở 18
tuổi (giảm -0,48mm, p<0,001). Điều này nói lên
mặt phẳng nhai cung răng vĩnh viễn trở nên ít
cong hơn hay phẳng hơn trong giai đoạn từ 13
đến18 tuổi.
Bán kính đường cong Spee (RSpee): tăng có ý
nghĩa từ 80,78mm ở 13 tuổi lên 104,89mm ở 18
tuổi (tăng 24,10mm, p<0,001).
Bảng 5. Sự thay đổi các đặc trưng của đường cong Spee ở cung răng vĩnh viễn hàm dưới từ 13-18 tuổi
Biến số
13 tuổi 18 tuổi Khác biệt
p
Mức ý
nghĩa TB ĐLC TB ĐLC TB ĐLC
SSpee
Nam
Nữ
Chung
2,145
2,301
2,229
0,508
0,452
0,478
1,697
1,794
1,750
0,524
0,583
0,551
-0,448
-0,507
-0,479
0,314
0,353
0,332
0,000
(1)
0,000
(1)
0,000
(1)
***
***
***
RSpee
Nam
Nữ
Chung
86,484
75,978
80,781
20,339
18,799
19,945
109,548
100,959
104,885
28,665
32,802
30,838
23,064
24,981
24,104
15,926
21,708
19,034
0,000
(2)
0,000
(2)
0,000
(2)
***
***
***
(1): Kiểm định t cặp đôi, (2): Kiểm định dấu hạng Wilcoxon
Như vậy, xu hướng thay đổi của đường cong
Spee trong giai đoạn từ 13-18 tuổi là ngày càng ít
cong hơn, mặt phẳng nhai của cung răng vĩnh
viễn hàm dưới có khuynh hướng phẳng hơn. Xu
hướng thay đổi của đường cong Spee ở giai đoạn
vị thành niên trong nghiên cứu này tương tự với
kết quả các nghiên cứu khác trên thế giới:
Carter(1) và Marshall(8) nhận thấy độ sâu đường
cong Spee giảm trong giai đoạn vị thành niên,
Ferrario(5) xác định rằng từ 13-20 tuổi bán kính
đường cong Spee tăng và mặt phẳng nhai cung
răng vĩnh viễn hàm dưới phẳng hơn. Sau giai
đoạn vị thành niên, độ sâu của đường cong Spee
tương đối ổn định(1,8).
Theo dõi sự hình thành và phát triển của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 12
đường cong Spee từ giai đoạn bộ răng sữa đến
tuổi trưởng thành, nghiên cứu dọc của Marshall
trên 33 người Mỹ(8) cho thấy: ở bộ răng sữa, độ
sâu đường cong Spee có giá trị nhỏ nhất, ở độ
tuổi từ 4 đến 5 tuổi, độ sâu trung bình là 0,24 -
0,25mm; khi bắt đầu mọc các răng cửa và răng
cối lớn vĩnh viễn I hàm dưới (6-7 tuổi), độ sâu
trung bình đường cong Spee tăng lên có ý nghĩa,
đạt 1,32mm; độ sâu này gần như không thay đổi
cho đến khi mọc răng cối lớn vĩnh viễn II hàm
dưới (12,5 tuổi) độ sâu đường cong Spee đạt đến
giá trị tối đa là 2,17mm. Ở giai đoạn tuổi vị thành
niên, độ sâu đường cong Spee giảm có ý nghĩa
với giá trị trung bình ở 16 tuổi là 1,98mm. Ở bộ
răng vĩnh viễn người trưởng thành, độ sâu
đường cong Spee gần như không thay đổi với
giá trị trung bình là 2,02mm ở 27 tuổi.
Tại Việt Nam, qua hai nghiên cứu dọc thuần
túy khảo sát sự thay đổi các giá trị đặc trưng của
đường cong Spee, một ở giai đoạn bộ răng sữa(10)
và một ở giai đoạn sớm của bộ răng vĩnh viễn
(nghiên cứu này), chúng tôi nhận thấy: độ sâu
đường cong Spee giảm trong giai đoạn bộ răng
sữa, sau đó độ sâu tăng lên ở bộ răng vĩnh viễn
khi răng cối lớn II mọc và ăn khớp hoàn chỉnh
(13 tuổi) và có xu hướng giảm trong giai đoạn từ
13 đến 18 tuổi (biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Độ sâu đường cong Spee trên bộ răng sữa và bộ răng vĩnh viễn người Việt
Lý giải cho sự thay đổi của đường cong Spee
theo thời gian, Marshall(8) cho là do sự tăng
trưởng của cấu trúc sọ mặt, sự phát triển của hệ
thống cơ-thần kinh và sự thay đổi của các răng
(sự mọc răng và những dịch chuyển sinh lý tự
nhiên của bộ răng), tuy nhiên cơ chế sinh học
của quá trình thay đổi này vẫn chưa được biết
đến một cách rõ ràng và đầy đủ. Theo Ferrario,
sự xoay của các răng sau hàm dưới theo hướng
ngày càng nghiêng ngoài (do thành phần lực
hướng về phía ngoài) và nghiêng gần (do thành
phần lực hướng ra trước), làm thay đổi dần độ
cong của các đường cong cắn khớp(5).
Như vậy, đường cong Spee luôn thay đổi
theo thời gian dưới tác động của rất nhiều yếu
tố. Muốn xác định đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng
đến sự thay đổi của đường cong Spee, cần có
những nghiên cứu sâu hơn tìm hiểu mối tương
quan hỗ tương giữa đường cong Spee và các
thành phần khác của hệ thống nhai trong quá
trình hoạt động chức năng của bộ răng như độ
dốc của sườn sau lồi khớp xương thái dương, độ
cắn phủ, cắn chìa của răng trước và lực nhai
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi rút ra được
những kết luận chính như sau:
Các giá trị đặc trưng của đường cong Spee
của cung răng vĩnh viễn hàm dưới ở nam và nữ
không có sự khác biệt có ý nghĩa ở 13 và 18 tuổi.
Khi đánh giá sự thay đổi của đường cong
Spee trong giai đoạn từ 13-18 tuổi, nhận thấy độ
sâu đường cong Spee giảm có ý nghĩa và bán
kính đường cong Spee tăng có ý nghĩa. Như vậy,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 13
mặt phẳng nhai cung răng vĩnh viễn trở nên ít
cong hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carter GA, McNamara JA (1998), “Longitudinal dental arch
changes in adults”, Am J Orthod Dentofac Orthop, 114, pp.88-99.
2. Farella M, Michelotti A, van Eijden TMGJ, Martina R (2002),
“The curve of Spee and craniofacial morphology: a multiple
regression analysis”, Eur J Oral Sci, 110, pp.277-281.
3. Ferrario VF, Sforza C, Miani Jr A, Colombo A, Tartaglia G
(1992), “Mathematical definition of the curve of Spee in
permanent healthy dentition in man”, Archs oral Biol, 37(9),
pp.691-694.
4. Ferrario VF, Sfoza C, Miani A (1997), “Statistical evaluation of
Monson’s Sphere in healthy permanent dentitions in Man”,
Archs oral Biol, 42(5), pp.365-369.
5. Ferrario VF, Sfoza C, Poggio CE, Serrao G, Colombo A (1999),
“Three-dimensional dental arch curvature in human
adolescents and adults”, Am J Orthod Dentofac Orthop, 115(4),
pp.401-405.
6. Hirogaki Y, Sohmura T, Satoh H, Takahashi J, Takada K
(2001), “Complete 3D reconstruction of dental cast shape
using perceptual grouping”, IEEE Trans Med Imaging, 20,
pp.1993-1101.
7. Kobayashi M, Arai K, Ishikawa H (1998), “A three-
dimensional analysis of the curve of Spee in Japanese normal
occlusions”, Orthod Waves, 57(4ӧ), pp.258-267.
8. Marshall SD, Caspersen M, Hardinger RR, Franciscus RG,
Aquilino SA, Southard TE (2006), “Development of the curve
of Spee”, Am J Orthod Dentofac Orthop, 134(3), pp.344-352.
9. Nguyễn Thị Kim Anh, Hoàng Tử Hùng (1994), “Đặc điểm
hình thái đường rìa cắn đỉnh múi ngoài cung răng dưới theo 3
chiều trong không gian”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP.HCM, tr.24-30.
10. Nguyễn Thị Kim Anh (2007), “Sự thay đổi của đường cong
Spee trong giai đoạn bộ răng sữa ở trẻ em từ 3 đến 5 tuổi”, Tạp
Chí Y Học TP.HCM, tập 11(2), tr.01-09.
11. Nguyễn Thị Kim Anh (2012), “Kích thước cung răng vĩnh
viễn hàm dưới ở trẻ 13 tuổi”, Tạp Chí Y Học TP.HCM, tập
16(2), tr.34-39.
12. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2011), Hình thể cung răng hàm trên ở trẻ
12 tuổi, Tiểu luận tốt nghiệp Bác Sĩ Răng Hàm Mặt, Khoa
Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP.HCM.
13. Orthlieb J (1997), “The Curve of Spee: understanding the
sagittal organization of mandibular teeth”, The Journal of
Craniomandibular Pratice, 15(4), pp.333-340.
14. Spee FG, Beidenbach MA, Hotz M, Hitchcock HP (1980), “The
gliding path of the mandible along the skull”, J Am Dent Assoc,
100, pp.670-675.
15. The Academy of Prosthodontics (2005), “The Glossary of
Prosthodontic Terms”, J Prosthet Dent, 94(1), pp.10-92.
16. Xu H, Suzuki T, Muronoi M, Ooya K (2004), “An evalution of
the curve of Spee in the maxilla and mandible of human
permanent healthy dentitions”, J Prosthet Dent, 92, pp.536-539.
Ngày nhận bài báo: 10/01/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2016
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_thay_doi_cua_duong_cong_spee_o_bo_rang_vinh_vien_nghien_c.pdf