Tài liệu Sự phát triển công nghiệp ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu thời Pháp thuộc (1862 - 1954): 30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
SỰ PHÁT TRIỂN CƠNG NGHIỆP Ở KHU VỰC THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH, BÌNH DƯƠNG, ĐỒNG NAI, BÀ RỊA - VŨNG
TÀU THỜI PHÁP THUỘC (1862 - 1954)
Đỗ Minh Tứ *
TĨM TẮT
Trong bài viết này, trên cơ sở khảo cứu về sự phát triển của cơng nghiệp khu vực Đồng
Nai – Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu) dưới
thời Pháp thuộc, chúng tơi rút ra một số đặc điểm của cơng nghiệp khu vực, đồng thời cũng đưa
ra những nhận định của mình về vai trị của cơng nghiệp đối với sự chuyển biến kinh tế - xã hội
của khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu thời Pháp thuộc.
Từ khố: phát triển cơng nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai,
Bà Rịa-Vũng Tàu, Pháp thuộc
INDUSTRIAL AREA HO CHI MINH CITY, BINH DUONG, DONG NAI AND
BA RIA VUNG TAU IN THE PERIOD OF THE FRENCH COLONIAL
RULE IN VIET NAM
ABSTRACT
In this paper, on the basis of studies on the development of industrial area Dong Nai - Gia
...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự phát triển công nghiệp ở khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu thời Pháp thuộc (1862 - 1954), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
SỰ PHÁT TRIỂN CƠNG NGHIỆP Ở KHU VỰC THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH, BÌNH DƯƠNG, ĐỒNG NAI, BÀ RỊA - VŨNG
TÀU THỜI PHÁP THUỘC (1862 - 1954)
Đỗ Minh Tứ *
TĨM TẮT
Trong bài viết này, trên cơ sở khảo cứu về sự phát triển của cơng nghiệp khu vực Đồng
Nai – Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu) dưới
thời Pháp thuộc, chúng tơi rút ra một số đặc điểm của cơng nghiệp khu vực, đồng thời cũng đưa
ra những nhận định của mình về vai trị của cơng nghiệp đối với sự chuyển biến kinh tế - xã hội
của khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu thời Pháp thuộc.
Từ khố: phát triển cơng nghiệp, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai,
Bà Rịa-Vũng Tàu, Pháp thuộc
INDUSTRIAL AREA HO CHI MINH CITY, BINH DUONG, DONG NAI AND
BA RIA VUNG TAU IN THE PERIOD OF THE FRENCH COLONIAL
RULE IN VIET NAM
ABSTRACT
In this paper, on the basis of studies on the development of industrial area Dong Nai - Gia
Dinh (now Ho Chi Minh City, Binh Duong, Dong Nai, Ba Ria Vung Tau) under the French regime,
we have drawn a number of characteristics of regional industry, and also made his remarks about
the role of industry for the socio-economic transformation of the area of Ho Chi Minh City, Binh
Duong, Dong Nai, Ba Ria Vung Tau under the French colonial rule in Viet Nam.
Key Words: industrial development, HCM City, Binh Duong, Dong Nai, Ba Ria - Vung
Tau, French domination
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với quá trình xâm lược và thống trị
ở Nam Bộ, thực dân Pháp cũng bắt đầu cho
xây dựng các cơ sở cơng nghiệp nhằm phục
vụ cho cơng cuộc xâm lược, bình định, khai
thác và vơ vét các nguồn lợi sẵn cĩ, nên cơng
nghiệp khu vực Đồng Nai – Gia Định (nay là
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa Vũng Tàu) cũng cĩ bước chuyển
biến mới. Bên cạnh các xưởng thủ cơng
truyền thống của người Việt, người Hoa, thực
dân Pháp cho lập các nhà máy, cơng xưởng,
khởi đầu cho ngành đại cơng nghiệp ở khu
vực Đồng Nai – Gia Định cũng như Nam Kỳ.
Trên quan điểm nhất quán “Kỹ nghệ chính
quốc phải được bổ sung chứ khơng phải để bị
* Giảng viên Trường Đại học Kinh tế Tp. HCM, NCS Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. HCM.
31
Sự phát triển . . .
phá sản bởi kỹ nghệ thuộc địa. Nĩi cách khác,
kỹ nghệ thuộc địa phải được lập ra để sản xuất
những gì mà kỹ nghệ nước Pháp khơng thể
sản xuất được...”[7; 18]. Nên trong phạm vi
cả nước cũng như khu vực Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, Pháp chỉ chú trọng phát triển cơng nghiệp
khai khống, cơng nghiệp chế biến nơng sản,
cơng nghiệp hàng tiêu dùng Điều đĩ đã tạo
ra sự què quặt trong cơ cấu kinh tế mà cịn tạo
ra sự què quặt trong cơ cấu ngành, sự mất cân
đối trong cơ cấu vùng.
1. Sự phát triển của cơng nghiệp khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa Vũng Tàu thời Pháp thuộc
1.1. Cơng nghiệp
• Nhĩm cơng nghiệp cơ khí. Do nhu cầu
sửa chữa các chiến thuyền của Pháp trong
chiến tranh xâm lược và các thương thuyền
cập cảng Sài Gịn buơn bán lúc bấy giờ nên cơ
khí là ngành đầu tiên được Pháp xây dựng ở
Nam Kỳ. Trên cơ sở quân xưởng Chu Sư của
nhà Nguyễn, năm 1861, Pháp đã cho đắp tạm
một ụ đất, lắp ván gỗ để đưa các chiến thuyền
nhỏ bị thương vào sửa chữa. Ngày 28/4/1863,
Pháp đã chính thức cho xây dựng xưởng hải
quân Ba Son nhằm đáp ứng nhu cầu sửa chữa
tàu thuyền ra vào cảng Sài Gịn ngày càng
đơng và đĩng mới tàu bè. Theo GS. Trần Văn
Giàu, “trong chiến tranh thế giới nhứ nhất,
Ba Son đĩng được tàu 4.200 tấn, chữa được
tàu dài 95m”. Cơng nhân của xưởng luơn cĩ
trên 2.000 người. “Ba Son đã trở thành một
xưởng đĩng tàu lớn, một cơng xưởng quân
sự hiện đại của Pháp tại Viễn Đơng.”[4; 40].
Đến “những năm 20 của thế kỷ XX, tư bản
Pháp cịn đầu tư xây dựng nhiều cơ sở lắp ráp,
sửa chữa cơ khí, đĩng tàu ở Sài Gịn”[8; 23]
như: Hãng SIMM (1928) với số vốn 1,8 triệu
franc vào năm 1942; hãng SIMAC và SACM
(1938), số vốn đạt 4,5 và 0,5 triệu franc vào
năm 1942. Năm 1948, SACM hợp nhất với
COMBEL thành hãng CARIC với số vốn 408
triệu franc. Bên cạnh việc sửa chữa, đĩng
mới tàu với tải trọng lên đến 300 tấn, CARIC
cịn tham gia chế tạo nồi hơi, đúc gang thép.
Ngồi ra, “ở khu vực Sài Gịn cịn cĩ một số
nhà máy sửa chữa trang bị cơ khí khác của tư
bản Pháp nhằm phục vụ cho các nhà máy xay
lúa, các đồn điền cao su và tàu bè trên sơng,
trên biển”[8; 24] như: Cơng ty FACI (1920);
Cơng ty chế tạo sửa chữa tàu Đơng Dương;
Hãng đúc ASAM; FAMEN; P.DeMontrenil;
Cơng ty Garage Charner; Nhà máy xe lửa Dĩ
An (1902). Bên cạnh những cơng ty của Pháp,
các cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ của người Việt,
người Hoa cũng xuất hiện. “Năm 1927, ở
vùng Chợ Lớn đã cĩ 8 cơ sở tiểu cơng nghiệp
cơ khí nhưng chủ yếu là gia cơng, lắp ráp, sửa
chữa nhỏ.”[5; 17]. Lớn nhất là cơ sở cơ khí
Vĩnh Phát với 10 cơng nhân.
Nhĩm cơng nghiệp chế biến
Cơng nghiệp xay xát lúa gạo vốn là
nghề truyền thống ở vùng Chợ Lớn. Sau
khi chiếm được khu vực này, Pháp đã độc
quyền xuất cảng lúa gạo, tuy nhiên lúc đầu
việc xay xát Pháp vẫn giao cho người Hoa,
người Việt làm theo phương pháp thủ cơng.
Riêng người Hoa nắm trong tay “200 cơng
trường thủ cơng với 725 cối xay lúa gạo ở
Chợ Lớn.”[4; 41]. Đến năm 1869, xuất hiện
nhà máy xay xát lúa gạo bằng hơi nước đầu
tiên do cơng ty Alphonse Cahusac xây dựng
ở khu vực Xĩm Chiếu. Ngồi ra, Pháp cịn
cho phép Cơng ty Speidel của Đức xây dựng
2 nhà máy xay lớn là Riserie de l’Union và
Riserie de l’Orient. Đến năm 1877, xuất
hiện thêm một nhà máy xay xát chạy bằng
hơi nước do người Hoa làm chủ. Các cơng
trường thủ cơng xay xát lúa gạo dần nhường
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
bước cho các nhà máy chạy bằng hơi nước.
Đến năm 1910, vùng Sài Gịn – Chợ Lớn
“cĩ 10 nhà máy xay xát gạo thì riêng người
Hoa đã cĩ 8 nhà máy, cơng suất mỗi nhà máy
khoảng 450 – 750 tấn/ngày với khoảng 800
lao động.”[4; 41]. Đến những năm 20, người
Việt cũng bắt đầu tham gia ngành cơng
nghiệp này bằng sự xuất hiện của nhà máy
xay xát do Lê Văn Tiết làm chủ, với cơng
suất 16 tấn lúa/ngày, nhà máy của Nguyễn
Chiêu Tơng, Nguyễn Thành Liên với cơng
suất 100 tấn lúa/ngày. “Đến năm 1931, ở
Chợ Lớn cĩ 12 nhà máy xay xát lúa gạo, chế
biến từ 300 đến 1.300 tấn gạo mỗi ngày và
gần 60 nhà máy nhỏ”[5; 17]. Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ, nhu cầu lương thực
phục vụ cho chiến tranh tăng lên, hoạt động
xuất cảng lúa gạo ở Nam Kỳ do đĩ cũng trở
nên nhộn nhịp. Để đáp ứng nguồn cung gạo
cho xuất khẩu, các nhà máy xay xát tiếp tục
được xây dựng, riêng vùng “Sài Gịn – Chợ
Lớn đã cĩ khoảng 30 nhà máy xay xát gạo
lớn cĩ cơng suất trên 100 mã lực. Đến năm
1953, số nhà máy xay xát gạo ở Sài Gịn –
Chợ Lớn tăng lên 41 nhà máy, sử dụng trên
1.200 nhân cơng.”[4; 42]. Bên cạnh những
nhà máy của tư bản Pháp, tư bản Hoa kiều và
một số ít của người Việt, “người Đức cũng
đã đầu tư xây dựng 8 nhà máy xay xát lúa
gạo để cạnh tranh với người Hoa.” Điều đĩ
cho thấy rằng, xay xát lúa gạo là một ngành
đem lại khá nhiều lợi nhuận nên khơng chỉ
được tư bản Pháp, Hoa kiều quan tâm mà kể
cả tư bản Đức cũng muốn đầu tư phát triển
ngành cơng nghiệp này.
Sở dĩ cơng nghiệp xay xát lúa gạo phát
triển mạnh ở vùng Sài Gịn – Chợ Lớn bởi vì
đây vốn là vựa lúa của Nam Kỳ lại gần thương
cảng Sài Gịn, tiện cho việc xuất khẩu. Các
vùng phụ cận như Bà Rịa, Biên Hịa, Thủ Dầu
Một vốn khơng phải là vựa lúa, đất đai khơng
thích hợp cho loại cây trồng này nên ngành
cơng nghiệp xay xát khơng mấy phát triển.
Cơng nghiệp chế biến mía đường vốn là
một ngành thủ cơng phát triển khắp khu vực
Sài Gịn và vùng phụ cận với hàng trăm làng
nghề rải rác ở khu vực Biên Hịa, Thủ Dầu
Một và Gia Định, nhưng với kỹ thuật lạc hậu,
sản xuất mang nặng tính mùa vụ nên năng
suất, chất lượng đều khơng cao. Năm 1869,
Pháp thành lập một nhà máy đường ở Biên
Hịa nhưng khơng thu mua được mía nguyên
liệu của dân nên khơng thể hoạt động. Đến
năm 1875 Pháp cho thành lập trở lại nhà máy
đường Biên Hịa nhưng cũng khơng hoạt động
được theo ý muốn. Và, mãi đến năm 1923,
Pháp mới cho thành lập Cơng ty làm đường và
lọc đường Đơng Dương với chức năng trồng
mía, làm đường, lọc đường và chưng cất rượu
ngọt. Cơng ty cĩ một nhà máy tại Sài Gịn,
đĩ là “nhà máy đường Hiệp Hịa với cơng
suất trung bình 1.500 tấn mía/ngày, sản xuất
khoảng 17.000 tấn đường mỗi năm”[8; 21]
với 800 cơng nhân chuyên nghiệp và khoảng
120 nhân viên phục vụ. Đến năm 1953, Pháp
lập thêm nhà máy đường Khánh Hội với cơng
suất đạt từ 50 – 70 tấn/ngày. Ngồi ra, cịn cĩ
một nhà máy đường của người Hoa cĩ tên là
Phước Ly ở Biên Hịa.
Cơng nghiệp chế biến gỗ, ngày 14/6/1866,
Pháp ra quyết định về điều kiện khai thác gỗ
ở Nam Kỳ, dẫn đến việc xuất hiện các cơ sở
khai thác, chế biến gỗ ở khu vực Thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa
Vũng Tàu. “Ở Sài Gịn, Chợ Lớn, Đồng Nai,
Biên Hịa, một số nhà cơng nghiệp đã phát
triển được các cơ sở chế biến gỗ, chủ yếu là
cưa xẻ gỗ thành khí để phục vụ cho xây dựng
và đĩng bàn ghế.”[6; 484]. Riêng ở Biên Hịa
cĩ nhà máy cưa BIF, nay là là Nhà máy tổng
33
Sự phát triển . . .
hợp chế biến gỗ Tân Mai. Năm 1947, cơng ty
SIFA dời nhà máy Diêm Bến Thủy vào Sài
Gịn, được trang bị thêm máy mĩc, nhân cơng
(200 cơng nhân) nên năng suất đạt 15.000
thùng/năm. Bên cạnh đĩ, nghề mộc, chạm
khắc gỗ thủ cơng truyền thống của người Việt
ở khu vực này vẫn tiếp tục phát triển mạnh,
nhất là khu vực Thủ Dầu Một.
Ngành chế biến mủ cao su. Cây cao su
được trồng thử nghiệm từ năm 1897 nhưng
đến năm 1904 mới thành cơng. Kể từ đĩ,
Pháp tăng cường cướp đất lập đồn điền trồng
cao su. “Ở Nam Kỳ, đến năm 1918, tư bản
Pháp đã chiếm 184.700 hecta, trong đĩ chúng
sử dụng 7.000 hecta để chuyên trồng cây cao
su, cho ra sản lượng mủ thơ 3.000 tấn, tập
trung ở ngoại ơ Sài Gịn, tỉnh Thủ Dầu Một
và Biên Hịa.”[10; 3]. Mặc dù việc trồng và
khai thác mủ cao su diễn ra từ sớm với quy
mơ ngày càng mở rộng nhưng Pháp lại khơng
chủ trương phát triển ngành cơng nghiệp chế
biến mủ cao su ở Việt Nam cũng như Nam
Kỳ mà chủ yếu xuất khẩu mủ thơ nên ngành
này phát triển khá chậm. Trong suốt thời kỳ
Pháp thuộc, chỉ cĩ 3 cơ sở chế biến mủ cao
su thành các sản phẩm tiêu dùng là: Nhà máy
sản xuất săm lốp xe đạp và săm lốp xe hơi
của Cơng ty các đồn điền cao su Michelin
(Dầu Tiếng); Cơng ty UFFO (1929) chuyên
sản xuất các mặt hàng như: ống nước, giày
ống, dây curoa; Hãng ruột xe J.Labbé; Hãng
ruột xe Liandrat (1939 ở Sài Gịn), phần nào
đáp ứng được nhu cầu về vỏ, ruột xe ở Việt
Nam cũng như Đơng Dương.
Nhĩm cơng nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng
Cơng nghiệp sản xuất đồ uống là ngành
mang lại cho Pháp một mĩn lợi kếch sù. Với
nguồn nguyên liệu dồi dào, thêm vào đĩ là
chính sách thuế rượu, cấm các làng nghề, ngăn
cản người dân tự nấu rượu, thực dân Pháp đã
từng bước độc chiếm ngành cơng nghiệp này.
“Những nhà máy nấu rượu của tư bản Pháp ở
Việt Nam phần lớn đều thuộc vào “Cơng ty
rượu Đơng Dươngthành lập năm 1911”[3;
183 - 184] ở Hà Nội. Cơng ty này độc quyền
sản xuất kinh doanh rượu trên tồn cõi Đơng
Dương với số “vốn đầu tiên là hai triệu phờ
-răng và năm 1940 là 100 triệu phờrăng”[3;
184]. Cơng ty này cĩ 10 nhà máy rượu ở Nam
Kỳ, trong đĩ nhà máy cĩ cơng suất lớn nhất là
Nhà máy rượu Bình Tây ở Chợ Lớn với sản
lượng trung bình từ 15 đến 18 triệu lít/năm.
Năm 1909, tư bản Pháp thành lập hãng
BGI, lúc đầu chỉ chuyên sản xuất nước
đá, đến năm 1927, chuyển sang sản xuất
bia bằng việc lập Nhà máy bia Chợ Lớn,
đây là nhà máy bia đầu tiên tại Việt Nam.
Năm 1952, Pháp thành lập nhà máy sản
xuất nước giải khát Usine Belgique. Đây
cũng là nhà máy nước giải khát lớn nhất khu
vực Đơng Dương. Hãng này cĩ tới 14 nhà
máy sản xuất bia rượu, nước giải khát ở
Nam Kỳ, chủ yếu tập trung ở vùng Sài Gịn
- Chợ Lớn. Tính đến năm 1954, vùng này cĩ
tới 17 cơng ty bia, rượu, nước giải khát khác
nhau, trong đĩ phải kể đến: Cơng ty nước cĩ
gas SEGI (1933); Cơng ty Mazet (1943); Nhà
máy rượu Hiệp Hịa.
Cơng nghiệp sản xuất thuốc lá được
đầu tư xây dựng muộn hơn so với ngành sản
xuất đồ uống, xay xát gạo nhưng lại “phát
triển rất nhanh, cĩ doanh số đứng đầu ngành
cơng nghiệp chế biến ở Nam Kỳ thời Pháp
thuộc”[8; 21], hầu hết đều do người Pháp nắm
giữ. Riêng vùng Sài Gịn – Chợ Lớn tập trung
tới 7 cơng ty thuốc lá lớn lúc bấy giờ, đĩ là:
MIC, J.BASTOS, COTAB, COFAT, SATIC,
UNITA, MITAC. Tổng số vốn của các cơng
ty này đạt 32,7 triệu franc vào năm 1943, với
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
khoảng 2.500 cơng nhân. Sản phẩm phần lớn
được tiêu thụ ở Đơng Dương và xuất khẩu
sang các thuộc địa khác của Pháp.
Cơng nghiệp dệt khơng được Pháp quan
tâm phát triển nên ngành này ở Nam Kỳ nĩi
chung, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu
nĩi riêng rất nhỏ bé. Mãi tới năm 1911, tư
bản Pháp mới thành lập Cơng ty L.Dillignon
với nhà máy se sợi dệt được xây dựng ở Phú
Phong và đến năm 1924, Pháp mới thành
lập Cơng ty Vải sợi Sài Gịn với số vốn 12
triệu franc gồm 2 nhà máy lớn và khoảng 40
khung dệt. Cơng ty này hoạt động đến năm
1931 thì phá sản, thay vào đĩ là Cơng ty Kỹ
nghệ Dệt với số vốn khá khiêm tốn là 0.5
triệu franc năm 1943. Cũng chính do tư bản
Pháp khơng mấy mặn mà với ngành dệt nên
tư sản Việt Nam mới cĩ điều kiện tham gia
vào ngành cơng nghiệp này, tiêu biểu là nhà
máy dệt lụa của Lê Vĩnh Phát ở Sài Gịn với
hơn 150 cơng nhân. Bên cạnh đĩ, nghề dệt
thủ cơng cũng cĩ điêu kiện tiếp tục phát triển
mạnh ở khu vực này mà khơng bị cạnh tranh
như các ngành khác.
Cơng nghiệp sản xuất giấy ở khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa Vũng Tàu ra đời chậm hơn so với
khu vực miền Bắc. Mãi đến năm 1948 mới
xuất hiện hãng Đại Nam Kỹ nghệ giấy do
một người Hoa làm chủ với quy mơ khá lớn ở
Chợ Lớn nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc nấu
giấy cũ thành giấy mới. Sau đĩ cĩ “Một số cơ
sở đã cĩ thể sản xuất được giấy viết và giấy
in.”[8; 484]. Tuy nhiên, nhiêu đĩ là chưa đủ
cho sự phát triển của cơng nghiệp in ấn ở khu
vực này, nên phần lớn giấy được đưa từ ngồi
Bắc vào.
Nhĩm cơng nghiệp in ấn là một ngành
mới ở Nam Kỳ cũng như Việt Nam và cũng
được Pháp phát triển từ rất sớm nhằm phục
vụ cho cơng tác văn thư, in ấn tài liệu của
chính quyền thuộc địa. Năm 1862, Pháp mở
một nhà in tại vùng Sài Gịn – Chợ Lớn. Đây
“là lĩnh vực mà cả người Pháp và người Hoa
khơng cịn khả năng độc quyền”[8; 484] nên
các nhà tư sản người Việt cũng đã mở những
nhà in như: Nhà in Xưa Nay (1926 - 1944);
Nhà in Nguyễn Văn Của (1923 - 1942); Nhà
in Nguyễn Văn Tiết Cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, ở Sài Gịn cĩ sự xuất hiện
của hàng loạt các tờ báo như: Gia Định báo
(1865); Phan Yên báo (1868); Nhật trình Nam
Kỳ và Nam Kỳ địa phận (1883); Nơng cổ mín
đàn (1901); Lục tỉnh tân văn (1907) và sự phát
triển của văn học với các thể loại truyện ngắn,
truyện dài, tiểu thuyết; truyện khơi hài nên
nhu cầu in ấn ngày càng tăng, do đĩ cơng
nghiệp in ấn cĩ điều kiện phát triển mạnh.
Riêng địa bàn Sài Gịn – Chợ Lớn, năm 1953
đã cĩ tới 63 nhà in, ở Bà Rịa Vũng Tàu cũng
cĩ một nhà máy in cỡ nhỏ. Các nhà in đã cung
cấp một lượng lớn sách, báo bằng tiếng Việt
và tiếng Pháp. Do đĩ, ngành “Cơng nghiệp in
ấn và xuất bản đã gĩp phần khơng nhỏ vào
việc truyền bá chữ quốc ngữ và gĩp sức hình
thành, mở rộng nền báo chí và văn học Việt
Nam đầu thế kỷ XX, tiếp cận được các trào
lưu văn hĩa mới của thế giới.”[4; 44] đồng
thời gĩp phần vào việc truyền bá Chủ nghĩa
Mác – Lênin, cổ động phong trào đấu tranh,
cổ động tinh thần dân tộc trong những năm
thời kỳ Pháp thuộc.
Nhĩm cơng nghiệp hĩa chất, thuộc
da, dược phẩm
Cơng nghiệp hĩa chất xuất hiện khá sớm
ở Sài Gịn. “Năm 1909, tư bản Pháp thành lập
cơng ty hĩa chất Oxygène và Acétylèn”[8; 22]
với một nhà máy ở Sài Gịn và một nhà máy
ở Hải Phịng. Riêng nhà máy ở Sài Gịn hoạt
35
Sự phát triển . . .
động mạnh và do đĩ đạt sản lượng cao gấp 2
lần nhà máy ở Hải Phịng. Ngồi ra, Pháp cịn
thành lập một nhà máy đất đèn ở Sài Gịn.
Bên cạnh nhà máy hĩa chất, trên địa bàn
Sài Gịn – Chợ Lớn, tư bản Pháp cịn đầu tư
phát triển một số ngành khác trong nhĩm
cơng nghiệp hĩa chất như: Nhà máy sản xuất
đèn Cầy (1926) với số vốn lên tới 2 triệu franc
vào năm 1942; Nhà máy trích và tinh lọc cây
cĩ dầu (1939); Nhà máy sản xuất Kem đánh
răng Kob (1951). Tư sản người Việt, người
Hoa cũng tham gia vào ngành cơng nghiệp
này, tuy nhiên quy mơ sản xuất nhỏ hơn. Năm
1927, khu vực Chợ Lớn cĩ khoảng 30 cơ sở
sản xuất xà bơng, dầu dừa, tiêu biểu là hãng
xà phịng của Trương Văn Bền (1932) với hai
loại sản phẩm chủ yếu là xà phịng giặt và xà
phịng thơm nhãn hiệu “Xà bơng Việt Nam”.
Những năm 40 của thế kỷ XX, cơng xuất của
hãng này đạt 600 tấn mỗi tháng, khơng chỉ
cung cấp cho thị trường trong nước mà cịn
xuất khẩu sang các nước lân cận. Ngồi ra,
Trương Văn Bền cịn xây dựng một nhà máy
ép dầu dừa năm 1918.
Đầu thế kỷ XX, Pháp cho lập một Nhà
máy thuộc da ở Thủ Dầu Một, ở Sài Gịn –
Chợ Lớn ngành thuộc da vẫn chỉ dừng lại ở
dạng các lị thuộc thủ cơng, chủ yếu do người
Hoa làm chủ với 5 xưởng thuộc da ở Chợ Lớn.
Đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX, chỉ
tính riêng vùng Sài Gịn đã cĩ 200 lị thuộc da
với khoảng 1.000 lao động.
Cơng nghiệp dược phẩm phát triển rất
chậm, mãi đến năm 1951 bà Nguyễn Thị Hai
mới thành lập viện bào chế thuốc với số vốn
3,2 triệu đồng Đơng Dương, một năm sau
hai vợ chồng bà bỏ thêm vốn đầu tư trang bị
thành lập viện bào chế Trang Hai.
Nhĩm cơng nghiệp xây dựng, điện,
nước
Nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng các
trung tâm hành chính, các dinh thự, nhà ở,
cơng xưởng... Pháp cho thành lập các cơng
ty xây dựng ở Sài Gịn như: Cơng ty vét sơng
và cơng chính (1901); Cơng ty Xây dựng Le
Vallois Perret (1867); Cơng ty Xây dựng Đơng
Dương (1901); Cơng ty Xây dựng nhà cửa
Brossard Mopin (thành lập từ khi Pháp mới
đánh chiếm xong Nam bộ); Hãng Lamorte
(1881) chuyên xây dựng và sản xuất đồ gỗ.
Các xưởng sản xuất gạch, ngĩi vẫn chủ
yếu nằm trong tay người Hoa, người Việt, quy
mơ được mở rộng nhưng phương thức sản
xuất chủ yếu vẫn là thủ cơng. Vùng Chợ Lớn
cĩ 12 xưởng gốm lớn, vùng Thủ Dầu Một vào
năm 1930 cĩ 15 cơ sở sản xuất gốm... Ngành
thủy tinh chủ yếu tồn tại dưới dạng thủ cơng,
do người Hoa nắm độc quyền. Năm 1927,
cĩ 12 xưởng thủy tinh tập trung ở Chợ Lớn,
trong đĩ cĩ 6 xưởng cĩ quy mơ từ 10 đến 28
cơng nhân.
Ngành điện. Được sự bảo hộ và hỗ trợ
của chính quyền thuộc địa, ngay từ đầu thế kỷ
XX, các cơng ty tư bản tư nhân của Pháp đã bỏ
vốn đầu tư phát triển ngành cơng nghiệp này.
Năm 1896, Pháp cho xây dựng Nhà máy điện
đầu tiên ở Chợ Quán chạy bằng hơi nước với
cơng suất khoảng 120 Mwh. Đến năm 1900,
Cơng ty Điện nước Đơng Dương (CEE ) được
thành lập, chuyên cung cấp điện, nước cho
Sài Gịn – Chợ Lớn và vùng phụ cận như Gia
Định, Biên Hịa, Bình Dương với tổng cơng
suất cung cấp cho vùng Sài Gịn – Chợ Lớn đã
lên tới 239 triệu kwh, gấp 6,8 lần tổng cơng
suất điện cung cấp cho cả Bắc Kỳ và Trung kỳ
cộng lại. Năm 1917, Pháp cũng cho xây dựng
một nhà máy điện đặt tại trung tâm thành phố
Vũng Tàu với cơng suất gần 1000kw, sau
đĩ chuyển về ngã tư Giếng Nước, cơng suất
được nâng lên 9.600kw. Đầu những năm 20
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
của thế kỷ XX, một số cơng ty sản xuất, cung
cấp điện ở Nam Kỳ tiếp tục ra đời, trong đĩ cĩ
Cơng ty Điện năng (1921) chuyên cung cấp
điện cho Sài Gịn.
Năm 1878, Pháp xây dựng tháp nước ở
Sài Gịn (hồ Con Rùa) và trung tâm các tỉnh
lỵ khác nhằm cung cấp nước cho cư dân
trong vùng. Năm 1882, Pháp xây dựng xong
nhà máy nước ở Sài Gịn. Năm 1918, khánh
thành nhà máy nước ở Bà Rịa với cơng suất
nhỏ hơn. Ở các tỉnh khác, các nhà máy nước
cũng được xây dựng với cơng suất nhỏ hơn
nhà máy nước ở Sài Gịn.
1.2. Thủ cơng nghiệp, tiếp tục phát triển
bởi nĩ cạnh tranh và cũng khĩ cĩ thể cạnh
tranh với cơng nghiệp Pháp nhưng lại đem lại
cho Pháp khá nhiều lợi nhuận.
“Nghề gốm, nghề làm gạch xuất hiện từ
lâu đời ở Nam Bộ, nhất là miền Đơng Nam
Bộ (Biên Hịa, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn, Gia
Định) ngày càng tăng trưởng nhằm đáp ứng
nhu cầu xây dựng, kiến thiết các cơng trình đơ
thị” [12; 232] và xuất khẩu. Riêng Thủ Dầu
Một cĩ tới 42 lị gốm, vùng Chợ Lớn cĩ 30
lị, trong đĩ nổi tiếng là gốm Cây Mai, gốm
Lái Thiêu.
“Nghề mộc, xây cất nhà cửa, làm đồ gỗ,
đĩng ghe xuồng, xe bị, xe ngựacĩ bước
phát triển mới từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Thợ Thủ, tức thợ mộc đĩng chạm đồ gỗ
gia dụng ở Thủ Dầu Một, Lái Thiêu đã nổi
tiếng khắp Nam bộ”[12; 233] với “2 xưởng
lớn ở Lái Thiêu, mỗi xưởng sử dụng khoảng
100 thợ; các xưởng nhỏ hơn ở Phú Cường và
Búng”[12; 244]. Đây được coi là ngành thủ
cơng quan trọng nhất của tỉnh Thủ Dầu Một
lúc bấy giờ.
Nghề nấu đường, mật tiếp tục phát triển
mạnh, tập trung chủ yếu ở Biên Hịa với 330
lị, Thủ Dầu Một với hơn 100 lị và Gia Định.
Riêng các lị đường ở Gia Định cĩ tổng sản
lượng thành phẩm khoảng 3.000 tấn/năm.
Tuy phát triển mạnh về số cơ sở nhưng hầu
hết các cơ sở chỉ sản xuất mật và đường thơ,
thời gian hoạt động chỉ 4 hoặc 5 tháng trong
năm vào vụ thu hoạch mía, dụng cụ sản xuất
vẫn rất lạc hậu nên chất lượng chưa được tốt.
“Đầu năm 1922 cĩ 7 chủ lị đường đã được
cấp giấy phép.”[12; 248].
Nghề dệt, nhuộm tiếp tục phát triển mạnh.
“Vào những năm 20 của thế kỷ XX, tại Gia
Định đã cĩ 119 xưởng nhuộm, chủ yếu cung
cấp hàng cho các hiệu buơn người Hoa ở
Chợ Lớn. Riêng Chợ Lớn cũng cĩ 6 xưởng
nhuộm. Tại Biên Hịa hồi đầu thế kỷ XX, cĩ
một xưởng nhuộm ở làng Tân Lai, do ơng
Pelleau thành lập.”[12; 256]. Bên cạnh đĩ, ở
Biên Hịa cịn cĩ vài xưởng dệt buồm bằng lá
kè ở làng Tân Vạn Ở Gia Định cĩ vài làng
ở Hĩc Mơn (Xuân Thới Thượng, Tân Phú
Trung) chuyên dệt chiếu và túi xách.
Nghề đúc đồng phát triển mạnh ở Sài
Gịn, Biên Hịa. Các lị đúc thuộc làng Nhân
Giang nằm trên đường Sài Gịn – Chợ Lớn
(nay là Chợ Quán) tiếp tục cho ra lị nhiều
loại sản phẩm như: “nồi chảo, hộp đựng trầu,
lư hương, chân đèn v.vỞ Biên Hịa cĩ 21
lị đúc tại các làng Bình Thạnh và Nhị Hịa,
đúc lưỡi cày sắt, chuơng, cồng và nồi đồng. Ở
Long Điền (Bà Rịa) cĩ thợ đúc chuơng, cồng,
cơi trầu, sản phẩm chỉ bán trong nội tỉnh.”[12;
257 - 258].
Nghề làm nước mắm ở Bà Rịa lúc đầu
chỉ “cĩ một xưởng làm nước mắm ở Phước
Tĩnh; năm 1922, sản xuất được 1.200 thùng...
Cho đến năm 1939, nghề muối cá và làm
nước mắm bằng tơm tép ở Bà Rịa tập trung
ở Phước Hải, Phước Tĩnh, Long Hải và Sơn
Long. Lượng cá muối trung bình hàng năm là
10.000 tấn.”[12; 249].
37
Sự phát triển . . .
Nghề sơn mài ra đời vào thế kỷ XVIII ở
Tương Bình Hiệp (Thủ Dầu Một) tiếp tục phát
triển, “hình thành một vùng sơn mài Thủ Dầu
Một – Sài Gịn, thu hút hàng ngàn thợ”[11;
233]. “Theo số liệu thống kê năm 1945, ở
Bình Dương cĩ 10 cơ sở sản xuất sơn mài.
Riêng làng Tương Bình Hiệp cĩ hơn 300 hộ
gia đình làm nghề.”[2]. Lớn hơn cả là xưởng
sơn mài Thành Lễ do hai nghệ nhân Trương
Văn Thành và Nguyễn Văn Lễ thành lập 1943.
Các nghề khác, cĩ nghề tiếp tục phát triển,
cĩ nghề do khơng cạnh tranh nổi với hàng hĩa
ngoại nhập nên đã thu hẹp và mai một. Nhưng
thủ cơng nghiệp vẫn giữ vai trị quan trọng
trong cơ cấu kinh tế và xuất khẩu, là bộ phận
khơng thể tách rời của ngành cơng nghiệp
buổi sơ khai.
2. Đặc điểm của cơng nghiệp khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu trong thời kỳ
Pháp thuộc
Nghiên cứu về cơng nghiệp Thành phố
Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa
Vũng Tàu trong thời kỳ Pháp thuộc, chúng tơi
rút ra một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơng nghiệp cơ khí sửa chữa
là ngành đầu tiên được Pháp xây dựng nhằm
đáp ứng nhu cầu chiến tranh và xuất cảng ở
Nam Kỳ nhưng cũng chỉ tập trung ở vùng
Sài Gịn – Chợ Lớn. Tuy được coi là bước
khởi đầu của nền đại cơng nghiệp ở khu vực,
nhưng trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và kể cả
sau này, cơng nghiệp cơ khí ở đây cũng chỉ
mới dừng lại ở cơng nghiệp sửa chữa mà chưa
phát triển thành cơng nghiệp chế tạo, ngoại
trừ một số nhỏ tàu bè mà Pháp đĩng ở Ba Son,
do đĩ vai trị của ngành này đối với sự phát
triển kinh tế, cơng nghiệp ở đây rất nhỏ bé.
Thứ hai, đĩ là sự mất cân đối trong cơ cấu
ngành nghề và cơ cấu vùng. Do chính sách
chung cũng như vấn đề lợi nhuận mà thực dân
Pháp chỉ chú trọng đầu tư những ngành cơng
nghiệp khơng ảnh hưởng đến cơng nghiệp
Pháp, đem lại cho chúng lợi nhuận cao nhất,
nhanh nhất. Do đĩ, Pháp chỉ tập trung phát
triển các ngành cơng nghiệp như xay xát lúa
gạo, nấu rượu, sản xuất thuốc lá mà khơng
phát triển cơng nghiệp nặng, cơng nghiệp chế
tạo... Các nhà máy cơng nghiệp do Pháp xây
dựng cũng chỉ tập trung chủ yếu ở Sài Gịn,
Chợ Lớn, Gia Định, cịn các tỉnh thành khác
thì rất nhỏ bé. Ví dụ như Bà Rịa Vũng Tàu,
suốt thời Pháp thuộc chỉ cĩ một nhà máy điện
và một nhà máy nước loại nhỏ, một cơ sở sản
xuất nước đá, một nhà máy in quy mơ nhỏ và
một vài cơ sở sản xuất nước mắm thủ cơng.
Thứ ba, mặc dù cĩ bước phát triển nhưng
trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, trong phạm vi
cả nước cũng như khu vực Thành phố Hồ Chí
Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng
Tàu, đĩng gĩp của cơng nghiệp vào nền kinh
tế là hết sức nhỏ bé, chỉ ở mức dưới 10% GDP.
Thứ tư, sự phát triển của cơng nghiệp
khiến cho một số ngành nghề thủ cơng truyền
thống bị mai một, nhưng cũng cĩ những
ngành cĩ điều kiện phát triển hơn trước do
nhu cầu xuất cảng như: Gốm sứ, đồ mỹ nghệ,
dệt, đường...Thực dân Pháp cũng thấy đĩ là
một trong những nguồn lợi nên chúng đã cĩ
chính sách khuyến khích phát triển, cho mở
hàng loạt các trường dạy nghề trong khu vực.
Và trong buổi đầu của cơng nghiệp khu vực
này thủ cơng nghiệp vẫn đĩng vai trị quan
trọng trong nền kinh tế nĩi chung và trong cơ
cấu cơng nghiệp nĩi riêng.
Thứ năm, trong buổi đầu của cơng nghiệp
khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, các cơ
sở cơng nghiệp chủ yếu nằm trong tay người
Pháp, thứ nữa là người Hoa, chỉ một số ít là
do tư bản người Việt làm chủ. Bên cạnh đĩ,
những ngành đem lại lợi nhuận cao chủ yếu
38
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nằm trong tay tư bản Pháp như sản xuất đồ
uống, thuốc lá...Tư bản người Hoa cũng nắm
giữ những ngành khá quan trọng như xay
xát gạo, gốm sứ...Điều này đã tạo ra sự độc
quyền trong phát triển cơng nghiệp ở khu vực
này. Sự độc quyền đĩ đã hạn chế sự phát triển
cơng nghiệp của khu vực từ quy mơ, ngành
nghề, vốn, thiết bị, cơng nghệ đến chính sách
phát triển dẫn đến “thiếu hẳn sức sống của thị
trường, sức sản xuất bị kìm hãm, mơi trường
kinh doanh và đầu tư khơng thơng thống,
khơng khơi dậy được các nguồn lực trong
nước và khơng tạo mơi trường hấp dẫn thu
hút đầu tư nước ngồi.”[4; 55].
Thứ sáu, trừ “một bộ phận xí nghiệp
thuộc một số ngành và sản phẩm trình độ cơng
nghệ đã đi vào cơ khí hĩa, chuyên mơn hĩa,
chất lượng sản phẩm tốt tạo ra năng xuất mới
trong sản xuất như xí nghiệp Ba Son, thuốc lá,
rượu, bia”[4; 55] cịn lại trình độ sản xuất,
trang thiết bị của các ngành cơng nghiệp thời
kỳ này tương đối thấp, thiếu đồng bộ, nhất là
“cơng nghiệp tiêu dùng và xuất khẩu cịn rất
nhiều ngành nghề vẫn đang ở dạng thủ cơng,
chắp vá, phân tán, manh mún.”[4; 55]. Điều
đĩ đã tạo ra một sự phát triển khơng cân đối
về trình độ cơng nghệ nhưng lại cho phép
thực dân Pháp tận dụng lao động rẻ mạt để vơ
đầy túi tham của chúng.
Thứ bảy, bên cạnh sự đầu tư phát triển
cơng nghiệp của tư bản Pháp, tư bản nước
ngồi cũng bắt đầu bỏ vốn vào đầu tư phát
triển cơng nghiệp trong khu vực. Do nhiều
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
khác nhau nên số lượng cũng như số vốn của
các nhà đầu tư nước ngồi cịn khiêm tốn
nhưng cũng chứng tỏ khu vực này sớm cĩ sức
hút các nhà đầu tư nước ngồi, một tiền đề
quan trọng để phát triển cơng nghiệp trong
khu vực.
3. Vai trị của ngành cơng nghiệp khu
vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu thời kỳ Pháp
thuộc.
Mặc dù phát triển hạn hẹp trong vịng
khống chế của chế độ thuộc địa nhưng cơng
nghiệp khu vực này cũng cĩ những tác động
nhất định đến đời sống kinh tế, xã hội trong
khu vực cũng như miền Nam và cả nước.
3.1. Về mặt kinh tế
Một là, cơng nghiệp đã tạo bước chuyển
trong cơ cấu kinh tế, hình thành quan hệ sản
xuất mới, thúc đẩy thương mại phát triển.
Trước đây, mặc dù thủ cơng nghiệp đã tách
ra khỏi nơng nghiệp nhưng vị trí, vai trị của
nĩ cịn tương đối thấp, chỉ chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong nền kinh tế. Các làng nghề cũng đã
bước vào thời kỳ sản xuất hàng hĩa nhưng chỉ
ở mức giản đơn, cung cấp sản phẩm cho nhu
cầu trong một tỉnh hay một vùng. Nhiều làng
nghề cịn sản xuất mang tính mùa vụ, cơng cụ
thơ sơ, do đĩ năng suất khơng cao, chất lượng
thấp, giá trị thu lại do đĩ khơng lớn. Nhưng
với sự du nhập của máy mĩc và phương thức
quản lý mới, đã khiến cho năng suất, chất
lượng cao lên, các sản phẩm chủ yếu để xuất
khẩu nên khơng chỉ cĩ chỗ đứng trong cơ
cấu kinh tế mà cịn thúc đẩy thương mại phát
triển. Do đĩ vị trí, vai trị của cơng nghiệp
đã từng bước được khẳng định, cơ cấu kinh
tế trong khu vực cũng đã chuyển dịch theo
hướng hình thành một cơ cấu hồn chỉnh, mặc
dù cơng nghiệp, thương nghiệp dịch vụ cịn
khá khiêm tốn. Sự ra đời của các cơng xưởng,
xí nghiệp với trang bị máy mĩc hiện đại, quy
mơ lao động nâng lên, quan hệ lao động trong
các xí nghiệp khơng cịn là quan hệ thợ cả, thợ
học việc trong các làng nghề mà là quan hệ
ơng chủ và người làm thuê, hưởng lương theo
ngày cơng làm việc, các ơng chủ cũng khơng
bĩc lột theo lối cũ mà bĩc lột theo giá trị thặng
dư. Một quan hệ sản xuất mới đã hình thành
39
Sự phát triển . . .
ở khu vực này, đĩ là quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa mang tính thực dân, ép buộc. Cơng
nghiệp phát triển đã gĩp phần thúc đẩy thương
mại, nơng nghiệp trong khu vực và miền Nam
phát triển để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho
cơng nghiệp. Sài Gịn – Chợ Lớn trung tâm
phát triển cơng nghiệp của khu vực dần dần
trở thành trung tâm cơng nghiệp, thương mại,
tài chính, ngân hàng của khu vực cũng như
tồn Nam Bộ, gĩp phần hình thành thị trường
hàng hĩa trong nước và thị trường xuất nhập
khẩu, hàng hĩa cơng nghiệp của khu vực đã
được người Pháp đưa đến bán ở nhiều nước
trên thế giới
Hai là, trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và
cả sau này, khu vực Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu luơn
giữ vai trị trung tâm cơng nghiệp, đầu tàu cơng
nghiệp của miền Nam và cả nước. Mặc dù,
trong thời gian này vai trị đầu tàu cơng nghiệp
của khu vực chưa được thể hiện nhưng cũng là
tiền đề cho sự phát triển ở các giai đoạn sau.
3.2. Về mặt xã hội
Một là, sự phát triển cơng nghiệp ở khu
vực đã thúc đẩy sự phân cơng lao động xã hội
trong khu vực “hình thành và phát triển lực
lượng lao động cơng nghiệp thành đội ngũ
cơng nhân và kỹ thuật hùng hậu, cĩ tay nghề,
cĩ sự gắn bĩ với dân tộc, trở thành một lực
lượng sản xuất mới”[4; 55], khơng chỉ đại
diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ mà cịn
dần bước lên vũ đài chính trị, đi đầu trong
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp,
giải phĩng dân tộc với các cuộc đấu tranh tiêu
biểu như: Bãi cơng của 600 cơng nhân thợ
nhuộm ở Sài Gịn - Chợ Lớn (1922) được coi
là “dấu hiệu của thời đại” mới; bãi cơng của
1.000 cơng nhân Ba Son do Tơn Đức Thắng
lãnh đạo, tháng 8/1925 Đây cũng là lực
lượng đi đầu trong việc tiếp nhận chủ nghĩa
Mác – Lênin, đặt cơ sở cho sự ra đời của
Đảng. Với vũ khí lý luận, với sự lãnh đạo của
Đảng, cơng nhân khu vực này đã cùng cơng
nhân và nhân dân cả nước đứng lên kết liễu
thực dân Pháp.
Hai là, sự phát triển của cơng nghiệp khu
vực này cũng thúc đẩy sự ra đời của giai cấp
tư sản dân tộc với các tên tuổi như Trương
Văn Bền, Nguyễn Sơn Hàđã tham gia tích
cực vào phong trào đấu tranh chống lại chủ
nghĩa thực dân với các phong trào như: Phong
trào “Tẩy chay khách chú” ở Sài Gịn (1919);
Phong trào “chống độc quyền thương cảng
Sài Gịn” (1923)
Ba là, cơng nghiệp phát triển đã làm thay
đổi diện mạo của khu vực Sài Gịn – Chợ Lớn
từ một cảng thị nhỏ bé, giao thương hạn chế,
trở thành một đơ thị mà người Pháp vẫn tự hào
là “hịn ngọc Viễn Đơng”, phố xá khang trang,
nhộn nhịp, nhiều tịa nhà lớn theo lối kiến trúc
thuộc địa mọc lên ở đây cũng như trung tâm
tỉnh lị các tỉnh khác trong khu vực. Tuy sự
phồn thịnh đĩ chỉ dành cho giới quan chức
thuộc địa và tay sai của chúng, cịn đại đa số
dân chúng, người lao động vẫn sống kiếp khổ
cực nhưng những quy hoạch của Pháp rất chi
tiết và chính xác, nhiều cơng trình được xây
dựng thời kỳ này cho đến này nay vẫn cịn giá
trị. Cơng nghiệp phát triển, thương nghiệp do
đĩ cũng phát triển theo, các đơ thị dần được
hình thành và kéo theo nĩ là sự tập trung dân
cư về các vùng đơ thị, hình thành một tầng
lớp thị dân gồm cơng nhân, thợ thủ cơng, giới
chủ, quan chức, nhà buơn, tiểu thương, viên
chức, ngoại kiềuvới thị hiếu và lối sống đơ
thị, tác phong cơng nghiệp.
Bốn là, sự xuất hiện của ngành cơng
nghiệp in ấn, lúc đầu là do nhu cầu in ấn cơng
văn giấy tờ của chính quyền thuộc địa nhưng
dần dần nĩ trở thành một cơng cụ quan trọng
trong việc truyền bá, thúc đẩy giao lưu văn
hĩa, đồng thời trở thành một cơng cụ quan
40
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
trọng trong cơng tác tuyên truyền cách mạng.
Nhờ đĩ, các loại hình văn hĩa đơ thị cũng ra
đời và ngày càng phát triển như báo chí, văn
học nghệ thuật. Hàng loạt các tờ báo tiếng
Việt, tiếng Pháp ra đời đầu tiên tại Sài Gịn,
các thể loại văn học mới cũng hình thành như
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Trần Huy
Liệu, Huỳnh Tịnh Củakhơng chỉ đem đến
một nét văn hĩa đọc, cung cấp những thơng
tin cần thiết mà một số tờ báo đã trở thành
cơng cụ tuyên truyền cách mạng. Ngồi ra, sự
phát triển của cơng nghiệp cịn thúc đẩy giao
lưu, truyền bá những giá trị văn hĩa mới.
4. KẾT LUẬN
Sau khi 3 tỉnh miền Đơng Nam kỳ được
cắt cho Pháp theo Hiệp ước Nhâm Tuất
(1862), Pháp đã bắt tay vào việc khai thác
thuộc địa ở 3 tỉnh này nhằm phục vụ cho việc
mở rộng chiến tranh xâm lược. Cơng nghiệp
vùng Đồng Nai – Gia Định xưa với tiền đề
là các làng nghề thủ cơng truyền thống dần
được Pháp phát triển, “hình thành một ngành
cơng nghiệp (tuy rằng chưa đồng bộ và hồn
chỉnh) theo hướng cơ khí hĩa và bước đầu đã
cĩ phân ngành sản xuất theo hướng chuyên
mơn hĩa”[4; 54] với những cơ sở quy mơ lớn,
máy mĩc hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất
hiện nhưng cũng mới ở mức sơ khai.
Nhưng dù cĩ bước phát triển cả về trình
độ và quy mơ, song cơng nghiệp khu vực
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa Vũng Tàu cũng như miền Nam
dưới thời Pháp thuộc cịn hết sức nhỏ bé, què
quặt cả về cơ cấu ngành, cơ cấu vùng. Vì
vậy, thủ cơng nghiệp vẫn là một ngành đem
lại giá trị cao cho nền kinh tế khu vực trong
thời gian này.
Mặc dù thực dân Pháp ý thức được việc
phát triển cơng nghiệp ở thuộc địa khơng chỉ
ảnh hưởng đến cơng nghiệp chính quốc mà
cịn cĩ vai trị thúc đẩy văn hĩa, xã hội phát
triển theo hướng khơng cĩ lợi cho cơng cuộc
cai trị của chúng. Nhưng sự phát triển dù là
hạn chế nhất cũng tạo ra những chuyển biến
kinh tế - xã hội nhất định./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Cơng Bình (1959), Tìm hiểu giai cấp Tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
[2]. www.binhduong.gov.vn, “Nghề sơn mài truyền thống tại Bình Dương”, Văn hĩa - Lịch sử.
[3]. Nguyễn Khắc Đạm (1957), Những thủ đoạn bĩc lột của thực dân Pháp ở Việt Nam, Văn - Sử - Địa,
Hà Nội.
[4]. Nguyễn Thái An - Nguyễn Văn Kích (2005), 100 năm phát triển cơng nghiệp Sài Gịn – Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Lê Xuân Nam (1998), Đảng lãnh đạo hoạt động cơng thương nghiệp ở các quận 5 - 6 - 10 - 11 Thành
phố Hồ Chí Minh (1975 - 1995), Luận án Tiến sĩ, Học viện CTQG, Hà Nội.
[6]. Đặng Phong (2002), Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2005, Tập I, KHXH, Hà Nội.
[7]. Ngơ Văn Hịa - Dương Kinh Quốc (1978), Giai cấp cơng nhân Việt Nam những năm trước thành
lập Đảng, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[8]. Võ Văn Sen (2005), Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở miền Nam Việt Nam (1954 - 1975), Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[9]. Phạm Đình Tân (1964), Chủ nghĩa đế quốc Pháp và tình hình cơng nghiệp ở Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, Sự thật, Hà Nội.
[10]. Nguyễn Thị Mộng Tuyền, “Qúa trình đầu tư và khai thác thuộc địa về cao su của tư bản Pháp ở Việt
Nam (1858-1945)”, tr.2, www.sugia.vn
[11]. Huỳnh Thị Ngọc Tuyết (1992), Tiểu thủ cơng nghiệp vùng Sài Gịn - Chợ Lớn - Gia Định và phụ
cận, Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[12]. Phan Thị Yến Tuyết (2002), Xĩm nghề và nghề thủ cơng truyền thống Nam Bộ, Trẻ, Tp. HCM.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42_1406_2121818.pdf