Tài liệu Sự mất ngủ của lửa: Tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều - Đặng Thị Bích Hồng: JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0095
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 112-117
This paper is available online at
SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA: TÂM THỨC HOÀI HƯƠNG
TRONG THƠ SINH THÁI NGUYỄN QUANG THIỀU
Đặng Thị Bích Hồng
Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn, Trường Đại học Hùng Vương
Tóm tắt. Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa được nhắc
đến như một dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ góc nhìn sinh thái, tập thơ mở
ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Trên con đường lưu lạc tha
hương với những va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa
nương náu. Không gian của dòng sông Đáy thân thuộc và kì vĩ, của đồng đất khôi nguyên
và nồng ấm tạo mạch nguồn cảm hứng tư hương. Nơi đó, thiên nhiên giăng níu với con
người, đặc biệt, với mẹ và với những người phụ nữ thôn quê. Không gian cố hương vì thế
không chỉ gắn liền với kí ức tuổi thơ mà còn là biểu tượng cho những giá ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự mất ngủ của lửa: Tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều - Đặng Thị Bích Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0095
Social Science, 2017, Vol. 62, Iss. 11, pp. 112-117
This paper is available online at
SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA: TÂM THỨC HOÀI HƯƠNG
TRONG THƠ SINH THÁI NGUYỄN QUANG THIỀU
Đặng Thị Bích Hồng
Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn, Trường Đại học Hùng Vương
Tóm tắt. Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa được nhắc
đến như một dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ góc nhìn sinh thái, tập thơ mở
ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Trên con đường lưu lạc tha
hương với những va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa
nương náu. Không gian của dòng sông Đáy thân thuộc và kì vĩ, của đồng đất khôi nguyên
và nồng ấm tạo mạch nguồn cảm hứng tư hương. Nơi đó, thiên nhiên giăng níu với con
người, đặc biệt, với mẹ và với những người phụ nữ thôn quê. Không gian cố hương vì thế
không chỉ gắn liền với kí ức tuổi thơ mà còn là biểu tượng cho những giá trị cao đẹp của
con người và thế giới tự nhiên.
Từ khóa: Nguyễn Quang Thiều, Sự mất ngủ của lửa, sông Đáy, cố hương.
1. Mở đầu
Ra mắt bạn đọc từ những năm 90 của thế kỉ XX, Sự mất ngủ của lửa đánh dấu bước ngoặt
quan trọng trong hành trình thơ Nguyễn Quang Thiều. Thậm chí, tập thơ được nhắc đến như một
dấu mốc đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại. Những thể nghiệm cách tân của Nguyễn Quang Thiều
thực tế đã lan tỏa rộng rãi tới nhiều cây bút trẻ sau đó. Cũng vì thế, Sự mất ngủ của lửa thu hút sự
quan tâm của không ít nhà nghiên cứu phê bình.
Đánh giá về cách tân trong Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng đó là những
cách tân có tính gây hấn, “tạo nên sự khác lạ về cái nhìn nghệ thuật, hệ thống biểu tượng, cách tổ
chức cấu trúc văn bản. . . ” [1;tr.23]. Mai Văn Phấn khẳng định thi pháp Nguyễn Quang Thiều ở tập
thơ này là “những kết cấu mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình
ảnh lạ lẫm, trương nở, chuyển động nhanh” [3;tr.270]. . .
Nhiều nhà phê bình sớm nhận ra rằng, thơ Nguyễn Quang Thiều xuất hiện dày đặc những
từ ngữ gợi nhắc về cố hương [1], [6]. . . Nhận diện niềm hoài hương xứ mẹ trong Sự mất ngủ của
lửa, Nguyễn Mạnh Tiến nhấn mạnh: “Trở về tối, trở về thẳm sâu, nơi khuất kín nhất của đời sống
nội tâm Thiều còn là trở về với thiên đường bụng mẹ” [5;tr.44].
Như vậy, Sự mất ngủ của lửa đã được các nhà nghiên cứu luận giải từ nhiều góc nhìn khác
nhau. Tuy nhiên, tiếp cận văn học là một hoạt động mở cho phép mỗi nhà nghiên cứu có một lựa
chọn riêng và một cách cấu trúc riêng cho sự lựa chọn của mình. Ở bài viết này, chúng tôi đọc Sự
Ngày nhận bài: 15/7/2017. Ngày sửa bài: 28/8/2017. Ngày nhận đăng: 20/10/2017
Liên hệ: Đặng Thị Bích Hồng, e-mail: dangbichhonghvu@gmail.com
112
Sự mất ngủ của lửa: tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều
mất ngủ của lửa trong mối quan hệ giữa tâm thức hoài hương và chủ đề sinh thái. Từ góc độ này,
Sự mất ngủ của lửa mở ra những trang đầu của khát vọng “trốn lo âu về lại cánh đồng”. Đó là khát
vọng trở về quê hương, trở về tuổi thơ, trở về những giá trị cao đẹp của con người và thế giới tự
nhiên.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thân phận tha hương và sự tách rời tự nhiên
Với những người đã sinh ra ở làng, lớn lên từ làng thì ra ngoài chốn quê cũng tức là rơi
vào tha hương. Bao giờ cũng thế, kẻ tha hương luôn thấy con đường của mình như một trường lưu
lạc. Với người nghệ sĩ, cảm thức này càng trở nên mạnh mẽ trong nỗi cô đơn thân phận. Trước
Nguyễn Quang Thiều cả nghìn năm, các thi nhân đời Đường đã nói rất thấm về nỗi niềm xa xứ:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Thôi Hiệu). Tâm thế
thường trực của thân phận li hương là mong nhớ: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố
hương” (Lí Bạch). Gần hơn với thi sĩ làng Chùa cả về không gian lẫn thời gian, thi sĩ thôn Vân
từng chua xót giữa gió mưa thiên hạ: “Giang hồ sót lại mình tôi/ Quê người đắng khói, quê người
cay men”. Đến Nguyễn Quang Thiều, hình ảnh “Con đường” trở thành biểu tượng của sự ra đi, của
sự tách lìa chốn quê.
Xa
Xa ngơ ngác con đường
Người đi, người đi, người đi.
Vừa bước vừa vấp
[. . . ]
Quê hương
Khuất khuất sau mây
Quê hương âm âm trong gió
Ta không thể dâng tay gạt hết mưa chiều
Để nhìn cho tỏ mặt.
(Tha phương)
Thơ Nguyễn Quang Thiều ngay từ Sự mất ngủ của lửa đã xuất hiện không ít những “rời
nhà”, “xa quê”, “lưu lạc”. . . Trên hành trình “bước hụt” ấy, thiên nhiên kì vĩ chẳng những không
xoa dịu mà nhiều khi còn xoáy sâu vào tâm thức con người cảm xúc buồn thương:
Chỉ còn một vòng nữa thôi
Mặt trời sẽ chạm vào biển
Đó là lúc lòng ta đau đớn nhất
Đó là lúc ta không sao chịu nổi
Lúc có một bài ca lưu lạc trở về.
(Xô-nát hoàng hôn trên biển)
Thơ cất lên như một tiếng nói tự thú: tiếng nói của thân phận, của cảnh ngộ lưu lạc, tha
hương. Sức lay động của thơ, suy cho cùng, nằm ở sự chân thành của cảm xúc mà trước hết là sự
chân thành của nhà thơ khi đối diện với cảm xúc của chính mình. Khi làm thơ như một hành vi tự
thú, con người không còn thấy cái tôi là một biểu tượng quyền uy. Cái tôi khi đó trở thành một bản
thể mong manh, trước niềm hạnh phúc, và trước cả nỗi đớn đau.
Viết về không gian bên ngoài cội nguồn văn hóa làng Chùa, Nguyễn Quang Thiều đưa vào
Sự mất ngủ của lửa không ít va đập của đời sống thị thành. Đất nước cựa mình đổi mới với muôn
113
Đặng Thị Bích Hồng
vàn những biến đổi giàu – nghèo, cũ – mới, hèn – sang. . . Nhiều giá trị đang trong chiều dâu bể.
Điểm dễ nhận thấy ở không gian này là sự thiếu vắng thiên nhiên.
Sự xuất hiện của không gian đô thị là một sự kiện đặc biệt trong lịch sử văn hóa nhân loại.
Ở một khía cạnh, thành phố là đơn vị hành chính đánh dấu sự phát triển của xã hội. Ở khía cạnh
khác, sự kiến tạo thành phố thể hiện tham vọng sánh ngang kiến tạo thế giới của Chúa Trời. Trong
Kinh thánh, thành phố là không gian của sự sa đọa, của thói kiêu hãnh thái quá. Hình phạt lẫn lộn
ngôn ngữ trong công cuộc xây tháp Babel đã chia rẽ loài người thành các bộ phận đối địch. Họ
không nói cùng một thứ tiếng, không hiểu nhau, không đồng cảm. Từ phương diện sinh thái, đời
sống đô thị kéo theo hệ quả tệ hại là sự tách rời con người với thế giới tự nhiên. Nhiều cây bút
lãng mạn nổi tiếng như George Byron, Alphonse Daudet. . . đã nối dài quan điểm đoạn tuyệt đô
thị. Thơ rút vào cung đình, lui về đồng quê, tìm đến những vùng đất lạ... Văn học Việt Nam đầu
thế kỉ XX bắt đầu đề cập tới sự bất trắc của không gian thị thành. Đến những năm 90 của thế kỉ
này, khi đất nước tiến nhanh vào guồng đô thị hóa, con người vẫn không hết tâm lí vừa hào hứng
ra phố, vừa sợ phố.
Không gian đô thị đi vào Sự mất ngủ của lửa gắn liền với dục vọng, với vật chất, với những
dự cảm bất trắc. Trong Bầy kiến qua bàn tiệc, thế giới ấy là ngổn ngang “bàn tiệc”, là “cơn gió lốc
quạt trần”, là “chiếc bóng điện 1000 oát – vầng mặt trời giả dối”. . . Tất cả khiến cho những sinh
loài nhỏ bé trong thế giới tự nhiên “đắng cay nhòa mắt/ dìu nhau về thăm thẳm những hang sâu”.
Đó vừa là thân phận bầy kiến, vừa là số phận con người trong cõi sinh tồn khắc nghiệt. Hợp âm
phố xá được nhà thơ thâu tóm trong sự hỗn độn và nhiều khi giả dối:
Thị xã hỡi, đêm mất điện
Có ai đó kêu lên
Có ai đó cười sằng sặc
Có kẻ lấy đêm che nửa phần suồng sã
Nửa phần kia làm đom đóm lập lòe.
(Cánh buồm)
Ở Câu hỏi cuối ngày, một góc đô thị với sự thiếu vắng thiên nhiên, với những nhịp tẻ ngắt
được phác họa trong một cái nhìn gần như vô cảm: tôi “đợi chuyến xe tan tầm”, lá “rụng xuống”,
cơn mưa chiều “dâng lên”. . . Giữa cơn mộng mị và giấc mơ tỉnh của nhân vật trữ tình, đời sống
phố thị hiện lên qua hai mảng hiện thực đối lập, một bên là “Các cô gái đẹp mặc váy cưỡi xe máy
phóng qua”, một bên là “Các cô gái buôn chuyến đang nghoẹo đầu ngủ/ Tóc tai quần áo sặc mùi
cá khô”. Đất nước trên đường đổi mới, cuộc sống đẩy về những thái cực, và ở chiều nào đi chăng
nữa, đọng lại vẫn là dư vị chua xót. Câu hỏi cuối ngày khi “nấc lên”, sặc nghẹn, khi “nhói lên”,
đau thắt. Cả hai đều là câu hỏi về một sự hôn phối: “Nếu tôi lấy họ/ Tôi sẽ ngủ với họ như thế
nào”. Khi thời đại đang thay đổi, văn hóa đang thay đổi, câu hỏi đó như là biểu tượng về một cuộc
đại hôn phối giữa những giá trị sống. Con người bị ném vào cuộc đại hôn phối ấy với một tâm thế
nhập cuộc tận cùng cô đơn.
Giữa va đập ồn ào phố thị, cố hương trở thành nơi chốn tìm về, thành điểm tựa nương náu:
Những chiều xa quê tôi mong dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy
Cho đôi mắt nhớ thương của tôi như hai hốc đất ven bờ, nơi những chú bống đến làm tổ
được giàn giụa nước mưa sông (Sông Đáy).
Không gian của dòng sông Đáy thân thuộc và kì vĩ, của đồng đất khôi nguyên và nồng ấm,
của người phụ nữ thôn quê tảo tần. . . tạo mạch nguồn cảm hứng tư hương.
114
Sự mất ngủ của lửa: tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều
2.2. Tự nhiên và tính nữ: trầm tích cố hương
Lịch sử mỗi cá nhân dù có những thăng trầm, biến cố khác nhau nhưng đều kết nối với một
môi trường vật lí, đều có một “sự gắn-bó-nơi-chốn” nhất định. Nguyễn Quang Thiều từng khẳng
định trong một lần trả lời phỏng vấn: “Mỗi người đều có một mối liên hệ vừa mơ hồ, vừa bí ẩn,
vừa thiêng liêng và vừa quyền uy với nơi chôn nhau cắt rốn của mình [. . . ] Tất cả những thứ đó đã
dựng nên một không gian sống động và huyền ảo mà chúng ta không thể lớn lên nếu như không
có một không gian như thế” [2]. Mang theo xác tín ấy, nhà thơ viết về cố hương như một không
gian sinh thái, ở đó, kí ức về mẹ, về những người phụ nữ thôn quê luôn được tái hiện trong sự gắn
kết với môi trường tự nhiên.
Kẻ tha hương “vừa bước vừa vấp” mang theo hành trang là những kí ức về nơi chốn. Không
gian làng Chùa, không gian của dòng sông Đáy, của bến kín, cánh đồng, triền bãi. . . cứ trở đi trở
lại. Mùi của quê hương len vào giấc ngủ: “Chỉ mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa/ Ngăn
ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương”. Cơn mơ của người con xa quê cũng khắc khoải âm thanh
sông nước tự nhiên: “Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt/ Cơn mơ vang tiếng cá quẫy
tuột câu như một tiếng nấc”. . . Nếu như trong Thơ mới, thiên nhiên đồng quê với những vẻ đẹp
thanh tân là đối tượng để thi nhân soi ngắm, mê say thì ở Sự mất ngủ của lửa, không gian làng
quê còn được tái hiện với cả sự thô tháp, dữ dội: “Làng quê ơi, bao năm xa cách/ Đêm nay tôi trở
lại làng/ Trời sắp bão oi nồng cơn sốt/ Bên ngọn đèn hạt đỗ/ Tôi ngồi nghe/ Tiếng chó khuya sủa
chớp cuối chân trời [. . . ] Chó ơi, đừng sủa nữa/ Gió đêm thành gió dại rồi/ Ai ném lại vầng trăng
ra khỏi sự bình yên/ Lao rồ dại trong mây trời xứ mẹ”.
Nhưng trên hết, chốn quê trong thơ Nguyễn Quang Thiều là không gian lưu giữ những tháng
năm tuổi thơ kì diệu, là nơi tìm về bình yên sau bao mệt mỏi tha hương, là chốn linh thanh tẩy, tái
sinh những giá trị tốt đẹp của đời sống. Đặc biệt, cảm hứng về làng Chùa trong thơ Nguyễn Quang
Thiều bao giờ cũng có sự gắn kết, đan bện giữa thiên nhiên và con người. Nhà thơ đồng nhất dòng
sông Đáy với cuộc đời tảo tần sớm hôm của mẹ:
Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh
sông đêm
(Sông Đáy)
Mẹ và dòng sông quê hương song hành cùng nhau, chuyển hóa vào nhau, trở thành biểu
tượng của những giá trị tinh thần cao đẹp. Những giá trị ấy gắn với một thiên đường tuổi thơ không
thể nào trở lại bởi dòng thời gian vô thủy vô chung:
Sông Đáy ơi, sông Đáy ơi. . . chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát bên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi
Tôi quỳ xuống vốc cát ấp vào mặt
Tôi khóc.
Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng
(Sông Đáy)
Mẹ như dòng sông Đáy với rất nhiều những biến thể của nó. Nhìn rộng ra, mẹ là thiên nhiên,
mẹ là quê hương. Từ phương diện sinh thái nữ quyền, Sự mất ngủ của lửa góp một tiếng nói về
thiên tính nữ trong mối quan hệ mang tính nhị nguyên mà khuynh hướng phê bình này tuyên chiến:
quan hệ nam – nữ. Trong kí ức của con, cha gắn liền với nguyên tắc, với kỉ luật cứng rắn: “Chiếc
115
Đặng Thị Bích Hồng
roi cha ta quất nát sợi khói mềm”. Với mẹ, cha là căn nguyên của nỗi buồn đau: “Cha đã mang tuổi
hai mươi lên đò không ngoảnh lại/ Mẹ con đứng vùi chân trong cát/ Nước mắt buồn bay ướt một
triền sông”. Và mẹ, như thiên tính nữ ngàn đời nay vẫn thế, đợi chờ, hy sinh, bao bọc, chở che. . .
Trước mẹ, với mẹ, người con lúc nào cũng như đứa trẻ. Lạc mẹ là bơ vơ, òa khóc. “Ta đi qua tháng
Mười, ta đi qua tiếng gọi buổi chiều của mẹ/ Mây trời vun lên những đống rơm khô/ Dấu chân ta
xóa dấu chân chú bê vàng lạc mẹ và dấu chân chú bê vàng xóa dấu chân ta/ Khi bóng đêm vụt ra
đứng chặn trước mặt ta, ta vội quay lại tìm dấu chân mình/ Òa khóc./ Ta tin có một mụ phù thủy
đã biến ta thành một chú bê”. Câu thơ như một tiên cảm tháng Mười của Mẹ.
Thiên nhiên và phụ nữ được các nhà sinh thái nữ quyền đánh giá là bản nguyên tồn tại, phát
triển của thế giới. Trong Sự mất ngủ của lửa, hai hình tượng này đi vào vị trí trung tâm giăng níu
lẫn nhau. Cô gái đắm trong men say tình yêu được mô tả bằng những nét khoáng đạt của trời đất:
“Đêm đã trải tấm khăn của tình yêu xuống rồi/ Hơi thở em cỏ đã ướp đầy hương/ Bầu vú em gió
núi thổi mát rượi”. Nguyễn Quang Thiều không viết nhiều thơ về tình yêu. Và tình yêu trong thơ
Nguyễn Quang Thiều thường khắc khoải hoài tiếc. Nhưng kí ức tình yêu bao giờ cũng được hình
dung trong sự đan bện với tự nhiên. Có thể kể ra ở Sự mất ngủ của lửa nhiều câu thơ như thế:
Sông Đáy ơi! chiều nay tôi trở lại
Những cánh buồm cổ tích đã bay xa về một niềm tức tưởi
Em đã mang đôi môi màu dâu chín sang đò một ngày sông
vắng nước
(Sông Đáy)
Em quẫy trong tay ta như một con cá
Rồi bỏ ta chạy vào lối ngõ không trăng
Như cá thoát câu chạy rúc xuống bùn”
(Mười một khúc cảm, VII)
Em nằm nghiêng trong đêm
Như con thuyền cô đơn nép mình bên bến cát”
(Con thuyền)
Vẻ đẹp, tính cách, số phận. . . tất cả không được miêu tả trực tiếp, nhưng tất cả được lộ hiện
qua góc nhìn biểu trưng: người phụ nữ gắn với cỏ cây, sông nước chốn quê. Thiên nhiên trở thành
một thứ ngôn từ kiến tạo thơ.
Trở về với trí tuệ sinh thái phương Đông, nhà thơ thiết lập thế bình quyền trong tương quan
giữa “tôi” và “cái khác”, giữa “người” và “vật”. Không gian cố hương trong thơ Nguyễn Quang
Thiều là ấm áp tuổi thơ, là đắng đót ra đi, là đau đáu tìm về. Ở đó, tất cả không ngừng dịch chuyển
theo vòng luân hồi sự sống, tất cả đều mang chứa linh hồn: linh hồn những chiếc tiểu sành, linh
hồn lò gốm, linh hồn con chó nhỏ - linh hồn người, linh hồn vật, linh hồn cố hương. Cố hương trở
thành huyền thoại, vừa cá thể, vừa phổ quát trong ánh sáng của tình yêu và của đức tin:
Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.”
(Bài hát về cố hương)
116
Sự mất ngủ của lửa: tâm thức hoài hương trong thơ sinh thái Nguyễn Quang Thiều
3. Kết luận
Trong Lời mở sách Sự mất ngủ của lửa dịp tái bản lần thứ nhất, Nguyễn Quang Thiều chia
sẻ: “Khi Ngôi nhà 17 tuổi ra đời, tôi càng nhìn thấy rõ hơn gương mặt mình và nghe rõ hơn giọng
nói mình ở bên ngoài tập thơ này. Và tôi đã viết tập Sự mất ngủ của lửa trong vòng một năm sau
đó [. . . ] tôi tin vào con đường của tôi và không bao giờ chối từ gương mặt của chính tôi, từ chối
giọng nói của chính tôi” [4;tr.6]. Tín niệm ấy giúp nhà thơ kiên định một lựa chọn nghệ thuật. Sự
mất ngủ của lửa trở thành cột mốc quan trọng trên lộ trình cách tân thơ Việt. Những cấu trúc văn
bản mới, những biểu tượng mới, những thi ảnh mới. . . đã làm cho thơ Nguyễn Quang Thiều bước
ra ngoài dàn đồng ca đơn độc đi về chiều hiện đại. Nhưng bóc tách lớp vỏ hiện đại, Sự mất ngủ
của lửa lại bám rễ rất sâu vào truyền thống. Nếu mĩ cảm hiện đại khiến thơ Nguyễn Quang Thiều
ít có được tiếng nói đồng vọng trong không gian thơ đương đại thì ngược lại, tâm thức hoài hương
trong Sự mất ngủ của lửa lại làm cho “giọng nói đặc thổ âm” Nguyễn Quang Thiều có khả năng
chạm vào căn tính mỗi kiếp người trong cõi nhân sinh. Một phần tư thế kỉ đã trôi đi sau ngày Sự
mất ngủ của lửa được ấn hành lần đầu tiên năm 1992. Thời gian trả lời những gì “có khả năng đi
cùng nó”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đăng Điệp, 2012. “Đổi mới thơ Việt Nam đương đại nhìn từ trường hợp Nguyễn Quang
Thiều”, trong Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều. Nxb Hội Nhà văn, tr.9-34.
[2] Phan Hoàng, Nguyễn Quang Thiều mãi là ẩn số, nguồn
[3] Mai Văn Phấn, 2012. “Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều và lộ trình cách tân”, trong Thơ
Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều. Nxb Hội Nhà văn, tr.269-285.
[4] Nguyễn Quang Thiều, 2015. “Lời mở sách”, trong Sự mất ngủ của lửa. Nxb Hội Nhà văn,
tr.5-8.
[5] Nguyễn Mạnh Tiến, 2012. “Nguyễn Quang Thiều, lửa thức (Những mơ mộng nghệ thuật giữa
lòng Sự mất ngủ của lửa)”, trong Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều. Nxb Hội Nhà
văn, tr.37-50.
[6] Đỗ Minh Tuấn, 1996. “Trốn lo âu về lại cánh đồng”, trong Ngày văn học lên ngôi. Nxb Văn
học, tr.325-332.
ABSTRACT
The Insomnia of Fire: Nostalgic Sense in Ecological Poems by Nguyen Quang Thieu
Dang Thi Bich Hong
Faculty of Social Sciences and Humanities, Hung Vuong University
Published in the 1990s, the collection of poems, entitled The Inssomnia of Fire is considered
a milestone in renovation of modern Vietnamese poetry. From perspectives of ecocriticism, the
collection points to desires of “escaping from the anxiety, returning to the green field”. On the
exiles with impacts of urban lives, native land becomes place for returning and resting. Spaces of
intimate and magnificent Day River as well as of pure and warm rice field inspire poetic thoughts.
In these spaces, nature is associated with human beings, particularly, with mothers and countryside
women. Therefore, space of native land is associated with not only childhood memory but also
good connections between human and non-human worlds.
Keywords: Nguyen Quang Thieu, The Insomnia of Fire, Day River, native land.
117
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4989_dtbhong_5386_2127510.pdf