Sự hình thành và phát triển của làng ở Đồng Bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình

Tài liệu Sự hình thành và phát triển của làng ở Đồng Bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình: Xã hội học số 3 (83), 2003 21 Sự hình thành và phát triển của làng ở Đồng Bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình Nguyễn Đức Truyến 1. Chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà n−ớc - khuôn khổ pháp lý của quá trình đổi mới kinh tế và xã hội nông thôn Quá trình phi tập thể hóa các quan hệ sản xuất trong nông thôn đ−ợc khởi đầu từ năm 1981 với Chỉ thị 100 và đ−ợc hoàn thiện vào năm 1998 với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Sự thể chế hóa chính sách Đổi mới này đ−ợc hoàn tất vào năm 1993 với sự ra đời của Luật đất đai trong đó có sự xác định đầy đủ quyền sử dụng đất của các hộ nông dân. Quá trình này trao cho hộ nông dân quyền làm chủ trên mảnh đất canh tác của họ, quyền tổ chức mọi hoạt động sản xuất và kinh tế trong khôn khổ kinh tế hộ gia đình và quyền đ−ợc l−u thông và trao đổi các sản phẩm của họ trên thị tr−ờng. Nh− thế nó cho phép kinh tế hộ nông dân tồn tại nh− một đơn vị kinh tế độc lập trong quan hệ với hợp tác xã và Nhà n−ớc. Sự giải phóng này đã...

pdf7 trang | Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 869 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành và phát triển của làng ở Đồng Bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 3 (83), 2003 21 Sự hình thành và phát triển của làng ở Đồng Bằng Sông Hồng nhìn từ kinh tế hộ gia đình Nguyễn Đức Truyến 1. Chính sách kinh tế mới của Đảng và Nhà n−ớc - khuôn khổ pháp lý của quá trình đổi mới kinh tế và xã hội nông thôn Quá trình phi tập thể hóa các quan hệ sản xuất trong nông thôn đ−ợc khởi đầu từ năm 1981 với Chỉ thị 100 và đ−ợc hoàn thiện vào năm 1998 với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Sự thể chế hóa chính sách Đổi mới này đ−ợc hoàn tất vào năm 1993 với sự ra đời của Luật đất đai trong đó có sự xác định đầy đủ quyền sử dụng đất của các hộ nông dân. Quá trình này trao cho hộ nông dân quyền làm chủ trên mảnh đất canh tác của họ, quyền tổ chức mọi hoạt động sản xuất và kinh tế trong khôn khổ kinh tế hộ gia đình và quyền đ−ợc l−u thông và trao đổi các sản phẩm của họ trên thị tr−ờng. Nh− thế nó cho phép kinh tế hộ nông dân tồn tại nh− một đơn vị kinh tế độc lập trong quan hệ với hợp tác xã và Nhà n−ớc. Sự giải phóng này đã làm cho kinh tế hộ gia đình tự chủ hơn, năng động hơn trong các hoạt động kinh tế của nó. Một thay đổi lớn trong quan niệm về kinh tế ở nông thôn đã xảy ra khi ng−ời nông dân không còn phân biệt giữa ruộng công và ruộng t−, giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp trong kinh tế hộ gia đình, giữa lao động cho mình và cho xã hội trong sản xuất. Họ không còn thờ ơ với lao động và ruộng đất nh− trong thời kỳ tr−ớc đó mà dành hết tâm trí, tiền bạc và sức lao động cho các hoạt động kinh tế của mình. Hiệu quả sản xuất tăng lên, đời sống ng−ời dân đ−ợc cải thiện và trách nhiệm công dân của họ với xã hội cũng đ−ợc nâng cao hơn bao giờ hết. Từ sau 1993, tình trạng nợ đọng sản phẩm của nông dân đối với hợp tác xã gần nh− không còn nữa. Sức sống của kinh tế hộ gia đình không chỉ tồn tại trong những lợi thế vốn có của nó nh− quy mô sản xuất nhỏ, tự quản, dựa trên sức lao động gia đình và lối sống cộng đồng cho phép một hình thức phân phối không dựa trên tính toán duy lý theo kiểu xí nghiệp công nghiệp t− bản chủ nghĩa. Trong lối sống cộng đồng này con ng−ời lao động theo khả năng cá nhân nh−ng không phân biệt trong h−ởng thụ. Khi sản xuất tăng tr−ởng hay sa sút mọi thành viên đều đ−ợc h−ởng thụ thành quả hay cùng chia sẻ những khó khăn chung của kinh tế hộ gia đình. Nó còn thể hiện trong khả năng thích ứng với mọi hình thái kinh tế bao trùm lên nó, cho dù đó là kinh tế thị tộc, công xã, phong kiến hay các dạng thức của kinh tế thị tr−ờng nh− lịch sử kinh tế Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Lịch sử hình thành và phát triển của làng ở đồng bằng sông Hồng 22 thế giới đã từng cho thấy. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân hay kinh tế tiểu nông không bao giờ tồn tại độc lập với các hình thái kinh tế bao trùm lên nó. Nó có thể bị hạn chế nh−ng không bị tiêu diệt và luôn tìm cách tham gia vào các hệ thống kinh tế mang tính xã hội này và trong tr−ờng hợp đó nó cũng thay đổi quy mô, tính chất và trình độ phát triển của nó. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế gia đình trong kinh tế tập thể tr−ớc đây và trong kinh tế thị tr−ờng hiện nay đã xác minh điều này. 2. Tự do hóa thị tr−ờng và đa dạng hóa kinh tế nông thôn Trên bình diện kinh tế vĩ mô, sự tự do hóa quan hệ thị tr−ờng đã mở ra khả năng đa dạng hóa các hoạt động sản xuất và kinh tế cũng nh− sự phát triển của mọi thành phần kinh tế trong nông thôn. Các thành phần kinh tế mới trong nông thôn với t− cách là các hộ kinh doanh th−ơng mại hay dịch vụ, các tổ chức môi giới sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm, chính là các tác nhân thúc đẩy sự xâm nhập của kinh tế thị tr−ờng trong nông thôn. Cơ chế thị tr−ờng thông qua hệ thống các chợ và các tác nhân của nó thực hiện chức năng điều tiết các quá trình sản xuất và trao đổi kinh tế trong nông thôn. Sự điều chỉnh cơ cấu cây trồng hay vật nuôi, các hình thức thâm canh hay các quy trình kỹ thuật mới đều có vai trò tác động tích cực của cơ chế thị tr−ờng. Kinh tế hộ gia đình với những khác biệt về khả năng sản xuất, trình độ nhận thức và quan hệ thị tr−ờng th−ờng phải đ−a ra những chiến l−ợc kinh tế khác nhau. Vì thế sự đa dạng hóa kinh tế trong nông thôn chính là sự đa dạng hóa của kinh tế hộ gia đình. Nhiều hộ đã trở thành các hộ hỗn hợp vừa làm nông nghiệp vừa tham gia các hoạt động phi nông nghiệp. Một số ít hộ thoát ly nông nghiệp cho dù trên hình thức vẫn là nông nghiệp để trở thành các hộ phi nông. Các hộ thuần nông hầu nh− chỉ còn rất ít và phần lớn là những hộ nghèo. Tr−ớc những tác động của cơ chế thị tr−ờng, kinh tế hộ gia đình không chỉ gặp những thuận lợi mà còn gặp không ít khó khăn hay thử thách. Kinh tế thị tr−ờng kích thích lợi ích cá nhân nên th−ờng tập trung lợi nhuận vào tay những hộ có tiềm lực và −u thế trong quan hệ thị tr−ờng. Cơ chế thị tr−ờng tạo ra thành công ở một số cá nhân có năng lực nh−ng lại tạo ra sự thua thiệt ở đông đảo những ng−ời không có năng lực tiếp cận thị tr−ờng. Vì thế, nó tạo ra sự khác biệt và sự không ổn định về kinh tế và xã hội trong nông thôn. Chỉ có từ 15 đến 20% các hộ nông dân trở nên giàu có trong suốt 10 năm Đổi mới vừa qua. Điều đó cũng có nghĩa là những hộ giàu chính là những hộ đã thành công trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa hay tiếp cận thị tr−ờng. Khoảng từ 80 đến 85% số hộ nông dân có mức sống trung bình và nghèo cho dù cuộc sống đã đ−ợc cải thiện về căn bản song trình độ sản xuất kinh doanh của họ ch−a v−ợt qua đ−ợc ranh giới của tự cung tự cấp vốn gắn liền với nông nghiệp là chủ yếu. Sự thiếu vốn hay thiếu thị tr−ờng tiêu thụ sản phẩm chính là khó khăn cơ bản của đa số các hộ nông dân khá giả hay trung bình trong nông thôn hiện Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Đức Truyến 23 nay. Trong khi sự thiếu đất canh tác, tiền vốn, lao động và kinh nghiệm sản xuất lại là lý do chủ yếu cho các hộ nghèo và đói. 3. Vai trò của Nhà n−ớc và sự tiếp cận kinh tế thị tr−ờng của kinh tế hộ nông dân Để khẳng định vai trò điều tiết của Nhà n−ớc trong nền kinh tế thị tr−ờng có định h−ớng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà n−ớc Việt Nam đã chủ động đ−a ra các chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị tr−ờng trong nông thôn. Đó là các chính sách thúc đẩy tiềm năng sản xuất kinh doanh không chỉ của các hộ có năng lực mà của cả những hộ ch−a có năng lực tham gia kinh tế thị tr−ờng trong nông thôn cùng phát triển. Sự cân đối giá cả của các sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp trong n−ớc đã đem lại sự kích thích cho sản xuất nông nghiệp. Sự −u đãi cho các nghành thủ công, buôn bán và dịch vụ cũng góp phần đa dạng hóa các nguồn thu nhập trong nông thôn. Điều quan trọng hơn cả là chính sách đầu t− cơ sở hạ tầng và tín dụng −u đãi cho các hộ nghèo trong nông thôn đã góp phần hạn chế những bất bình đẳng trong nông thôn và tạo ra cơ hội cho sự phát triển cộng đồng. Các ch−ơng trình khuyến nông, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình cũng nh− chính sách xoá mù và phổ cập tiểu học .., đã góp phần đem lại những kết quả tổng hợp và tích cực trong nông thôn. 4. Kinh tế hộ gia đình và các quan hệ cộng đồng nông thôn Sự khôi phục và củng cố các quan hệ gia đình và họ hàng từ khi đổi mới không thể không có mối liên hệ với sự khôi phục và phát triển kinh tế hộ gia đình. Tổ chức kinh tế hộ đòi hỏi tăng c−ờng sự cố kết giữa các thành viên trong hộ gia đình, tôn trọng vai trò điều hành của ng−ời chủ gia đình, sự phối hợp giữa các thành viên trong phân công lao động và sản xuất và sự nhất quán trong tiêu dùng và sử dụng sản phẩm trong gia đình. Sự đề cao quyền quyết định của cha mẹ trong tổ chức cuộc sống gia đình và chia thừa kế tài sản cho thấy kinh tế hộ gia òinh có vai trò củng cố các quan hệ gia đình và quyền lực của ng−ời chủ gia đình. Tuy nhiên mô hình tổ chức gia đình nông dân hiện nay vẫn là mô hình gia đình dân chủ và bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Bởi vì kinh tế hộ gia đình nông dân không tuyệt đối hóa vai trò quyền lực của ng−ời chủ gia đình. Quan niệm "của chồng công vợ" hay "trẻ cậy cha già cậy con" vẫn còn đ−ợc đề cao trong nông thôn chính là xuất phát từ những đòi hỏi của kinh tế hộ gia đình. Hơn nữa, an sinh xã hội trong nông thôn hiện nay vẫn dựa trên quan hệ giữa các thành viên trong gia đình nên không thể tuyệt đối hóa quyền lực gia tr−ởng nh− trong kiểu gia đình phong kiến hay t− sản tr−ớc đây. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Lịch sử hình thành và phát triển của làng ở đồng bằng sông Hồng 24 Quan hệ họ hàng cũng đ−ợc khôi phục và củng cố dựa trên sự liên kết giữa các hộ gia đình cũng xuất phát từ những đòi hỏi của kinh tế hộ gia đình. Chính vì thế mà những định chế họ hàng truyền thống vẫn còn sức chi phối mạnh mẽ tâm thức ng−ời nông dân hiện nay. Quan hệ họ hàng trở lại vai trò làm chỗ dựa −u tiên cho sự liên kết giữa các hộ gia đình trong sản xuất, kinh tế và đời sống. Tổ chức họ hàng không có chức năng kinh tế bởi kinh tế hộ gia đình là những đơn vị kinh tế độc lập và tự chủ từ rất xa x−a. Nh−ng những chức năng xã hội của nó, nhất là chức năng kiểm soát hôn nhân, gắn với tái sản xuất sức lao động gia đình d−ờng nh− vẫn đ−ợc duy trì và đề cao tuyệt đối. Sự khác biệt giữa tập quán hôn nhân trong nông thôn và Luật hôn nhân hiện nay cho thấy định chế họ hàng vẫn còn hiệu lực chi phối mạnh mẽ. Pháp luật cho phép những ng−ời cùng họ sau ba đời có thể kết hôn nh−ng quy định họ hàng không cho phép kết hôn giữa những ng−ời còn nhận nhau là cùng nội tộc, cho dù đã quá ba đời. Nhu cầu kết hôn trong cùng làng nh−ng phải ở bên ngoài dòng họ đã làm cho hôn nhân trong nông thôn trở nên phức tạp và quyền lực chi phối của họ hàng từ lâu luôn đ−ợc khẳng định. Tuy nhiên các quan hệ họ hàng hiện nay có xu h−ớng dân chủ hóa đồng thời với quá trình cộng đồng hóa ngày càng tăng. Nếu quan hệ họ hàng x−a, do ảnh h−ởng của Nho giáo, đề cao trật tự gia tr−ởng hay vai vế trong dòng họ thì quan hệ họ hàng ngày nay chú ý hơn tới quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng vốn gắn liền với nhu cầu trao đổi bình đẳng của kinh tế hộ gia đình. 5 . Kinh tế hộ và các quan hệ cộng đồng thôn xóm Tổ chức thôn xóm hiện nay dựa trên những tiền đề kinh tế-xã hội vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Sự phát triển của kinh tế hộ gia đình nh− đã nói ở trên có xu h−ớng tạo ra những khác biệt cộng đồng. Nh−ng nó cũng đòi hỏi các quan hệ cộng đồng địa vực ngày càng gắn bó hơn để phát triển các quan hệ kinh tế mà quan hệ gia đình và họ hàng không thể đáp ứng. Tính nhị nguyên của cấu trúc làng xã truyền thống và hiện tại đã khẳng định vai trò của các quan hệ cộng đồng thôn xóm. Chế độ ngoại hôn dòng họ và −u tiên nội hôn trong cộng đồng làng xóm minh chứng cho vai trò quan trọng của thôn xóm trong xã hội nông thôn Việt nam. Bởi vì để sản xuất ra của cải vật chất, con ng−ời có thể dựa vào họ hàng hay cộng đồng thị tộc, nh−ng để sản xuất ra con ng−ời hay sức sản xuất, con ng−ời phải dựa vào các quan hệ xã hội ngoài họ hàng nh−ng gần gũi với họ là cộng đồng thôn xóm. Kinh tế tự cung tự cấp càng cao, tính tự trị của các cộng đồng thôn xóm càng mạnh, cộng đồng thôn xóm càng đ−ợc đề cao nh− một thực thể xã hội v−ợt lên trên các cộng đồng gia đình - họ hàng với t− cách là các bộ phận hay tiểu hệ thống của nó. Trong một nền kinh tế tự cung tự cấp, chế độ ruộng công và thái độ phân biệt đối xử với ng−ời ngụ c− hay ng−ời ngoài cộng đồng cho thấy sự đoàn kết cộng đồng thôn xóm còn là ph−ơng tiện để bảo vệ các nguồn lực cộng đồng ít ỏi của họ. Sự yếu kém của kinh tế hộ gia đình trong lịch sử chính là tiền đề cho sự đề cao kinh tế công Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Đức Truyến 25 xã và quan hệ cộng đồng làng xã. Trong nền kinh tế công xã ruộng đất công và truyền thống t−ơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các hộ nông dân trong sản xuất và đời sống chính là sự bù đắp cho kinh tế hộ gia đình. Chừng nào kinh tế hộ nông dân còn gặp nhiều khó khăn, các quan hệ cộng đồng vẫn còn đ−ợc đề cao trong đạo lý của họ. Tuy nhiên tình cảm cộng đồng và tinh thần t−ơng trợ giúp đỡ lẫn nhau trong nông thôn truyền thống luôn phù hợp với loại kinh tế hộ gia đình còn gắn với nông nghiệp và ở trong tình trạng tự cung tự cấp. Các quan hệ mua bán, hợp tác hay thuê m−ớn nhân công dựa trên hạch toán kinh doanh chỉ xuất hiện khi kinh tế hộ tham gia vào kinh tế thị tr−ờng thông qua sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ngay cả hiện nay khi các hợp tác xã đã chuyển sang vai trò cung cấp các dịch vụ sản xuất, kiểu mua bán dịch vụ này vẫn không hấp dẫn bằng các hình thức t−ơng trợ giúp đỡ lẫn nhau hay đổi công giữa các hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp, ngoại trừ các dịch vụ thủy nông và khoa học kỹ thuật phải cần đến cơ sở hạ tầng và sự hỗ trợ kỹ thuật của Nhà n−ớc. Trong các hoạt động sản xuất phi nông nh− kinh doanh, làm dịch vụ và sản xuất hàng thủ công, các hình thức hợp tác kinh doanh trong nông thôn có chiều h−ớng phát triển nh−ng luôn ở bên ngoài kinh tế hộ gia đình. Lý do của thực trạng này có lẽ ch−a đ−ợc các nhà nghiên cứu chú ý tới. Vì thế ở những nơi kinh tế thị tr−ờng ch−a phát triển, các quan hệ cộng đồng vẫn đ−ợc đề cao hơn là các quan hệ xã hội và pháp lý. Không chỉ các quan hệ gia đình, gia tộc mà cả các quan hệ thôn xóm cũng th−ờng mang tính cộng đồng. Các quan hệ cộng đồng th−ờng đ−ợc sử lý theo tập quán và thông qua các nhân vật có quyền lực hay uy tín trong cộng đồng. Những bất bình đẳng th−ờng đ−ợc giải quyết trên tinh thần "đóng cửa bảo nhau" và "dĩ hoà vi quý" để cho tình cảm và danh dự cộng đồng không bị tổn th−ơng. Các nhà văn hóa học coi đó là biểu hiện của "chủ nghĩa duy tình" của ng−ời Việt nam vốn đối lập với chủ nghĩa duy lý ph−ơng Tây. Nh−ng cái tình ở đây bao giờ cũng là tình cảm cộng đồng (tình làng nghĩa xóm) chứ không phải tình cảm thuần túy cá nhân nên không hề đối lập với chủ nghĩa duy lý ph−ơng Tây. Cái tinh thần cộng đồng làng xóm này đôi khi hay bị những kẻ có thế lực trong cộng đồng lợi dụng để củng cố quyền lực cá nhân hay nhóm của họ hoặc để ngăn cản sự can thiệp của các nhân tố xã hội bên ngoài. ở những nơi kinh tế thị tr−ờng đã bắt đầu phát triển, trật tự cộng đồng trong các quan hệ gia đình, họ hàng và thôn xóm mất dần vị trí độc tôn mà dành chỗ cho những bình đẳng lợi ích cá nhân hay giới. Xu thế thảo luận bình đẳng nảy sinh trong mọi lĩnh vực của đời sống cộng đồng, từ kinh tế sang xã hội, từ sinh hoạt vật chất đến đời sống tinh thần hay tôn giáo. Bình đẳng nam nữ không chỉ nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa vợ và chồng, trong chuyện học hành giữa nam và nữ mà cả trong chuyện góp giỗ họ, chuyện nhận quà mừng trong đám c−ới hiện nay. Trong các sinh hoạt ở đình làng, các cụ bà đã bình đẳng với các cụ ông trong sinh hoạt tôn giáo. Các ban khánh tiết trong họ hàng và thôn xóm đang đóng vai trò đại diện cho quyền Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn Lịch sử hình thành và phát triển của làng ở đồng bằng sông Hồng 26 dân chủ của mọi thành viên trong cộng đồng. Các tổ hoà giải cũng thể hiện tính công khai và bình đẳng trong việc giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ cộng đồng. Dân chủ trong kinh tế đã tạo ra những tiền đề và cơ chế cho những tiến bộ xã hội ở nông thôn hiện nay. 6. Kinh tế hộ và chế độ tự quản trong nông thôn Chế độ tự quản trong nông thôn tr−ớc hết là chế độ tự quản của các cộng đồng thôn xóm trên phạm vi lãnh thổ của mỗi cộng đồng. Trong thời kỳ phong kiến, sự bất lực của các Nhà n−ớc quân chủ đã tạo cơ hội cho các cộng đồng địa ph−ơng duy trì chủ nghĩa cộng đồng địa ph−ơng vốn tồn tại từ khi Nhà n−ớc ch−a xuất hiện. Tuy nhiên chế độ tự quản này cho dù không có sự can thiệp của Nhà n−ớc trung −ơng, nó vẫn không hề là chế độ tự quản thuần tuý của mọi thành viên trong cộng đồng, mà luôn bị các tầng lớp thống trị địa ph−ơng thao túng. Các nhóm thống trị này không bao giờ để cho các thành viên trong cộng đồng tự do thể hiện ý chí của họ nh− nội dung của khái niệm dân chủ nêu ra. Vì thế vấn đề dân chủ trong nông thôn không đồng nhất với chế độ tự quản địa ph−ơng mà vấn đề là sự tham gia dân chủ của ng−ời dân đã đ−ợc bảo đảm ra sao, có phù hợp với trình độ và nguyện vọng của họ hay không? Chế độ tự quản làng xã là đòi hỏi của tổ chức xã hội làng xã vốn chỉ dựa trên sự hiểu biết và kiểm soát lẫn nhau giữa các thành viên trong một cộng đồng t−ơng đối nhỏ bé. Sự kiểm soát này dựa trên đòi hỏi về một dạng nhân cách toàn diện thay vì dạng nhân cách phiến diện của con ng−ời cá nhân kiểu đô thị. Con ng−ời nông thôn không thể che dấu hay từ chối thể hiện bất cứ vai trò hay trách nhiệm nào trong tổng thể nhân cách của nó. Trong khi con ng−ời cá nhân đô thị hoàn toàn có thể che dấu suy nghĩ, hành vi và đời t− của họ tr−ớc công chúng. Sự giám sát các vai trò xã hội do đó phải đ−ợc thông qua cơ chế hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Sự giám sát các công việc chung của cộng đồng cũng chủ yếu dựa trên quan hệ tham gia trực tiếp của các chủ thể xã hội. Các vai trò đại diện chỉ có thể là đại diện gia đình hay cao hơn là dòng họ. Tính −u điểm và tính hạn chế của dân chủ tự quản làng xã cũng là ở đó. Để hạn chế tính cục bộ địa ph−ơng của chế độ tự quản làng xã, các chính quyền phong kiến tr−ớc đây th−ờng sát nhập tổ chức xã hội địa ph−ơng vào hệ thống cai trị của toàn xã hội thông qua việc đặt ra các chức quan xã thay vì để cho các cộng đồng địa ph−ơng cử ra ng−ời quản lý cộng đồng của họ. Nh−ng tính rời rạc của các quan hệ giữa Nhà n−ớc trung −ơng và các cộng đồng địa ph−ơng và tính tự trị của các cộng đồng đã làm cho những cố gắng này không đạt hiệu qủa mong muốn. Các nhóm thống trị địa ph−ơng luôn thao túng các phần tử đại diện cho sự có mặt của Nhà n−ớc ở địa ph−ơng nhân danh cho quyền tự quản của cộng đồng. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn Nguyễn Đức Truyến 27 Trong thời kỳ Đổi Mới, kinh tế hộ nông dân đòi hỏi quyền tham gia và trách nhiệm xã hội của mỗi hộ thành viên trong cộng đồng trên mọi mặt của đời sống cộng đồng của ng−ời dân. Chế độ dân chủ trực tiếp này phù hợp với trình độ và tập quán tham gia tự quản cộng đồng của họ. Những truyền thống cộng đồng địa ph−ơng cho dù không thể giải quyết mọi vấn đề của đời sống cộng đồng hôm nay song chúng vẫn là những biện pháp phù hợp với cách suy nghĩ của ng−ời dân và đặc điểm của lối sống cộng đồng nông thôn. Thực vậy, những nghiên cứu gần đây cho thấy ng−ời nông dân quan tâm tới các sinh hoạt cộng đồng chủ yếu thông qua những mục tiêu kinh tế gắn với kinh tế hộ gia đình nh− phân chia lại ruộng khoán, định mức nộp khoán sản, vay vốn, h−ớng dẫn kỹ thuật sản xuất và bảo vệ cây trồng vật nuôi. Trên bình diện xã hội, những hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng nh− điện đ−ờng, tr−ờng, trạm đã thực sự lôi cuốn ng−ời dân tham gia với t− cách là sự thể hiện tinh thần cộng đồng của mỗi thành viên. Những sinh hoạt xã hội không gắn với các mục tiêu kinh tế hay cộng đồng nói trên đều ít có sức lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia. Các hội ng−ời già hay phụ nữ là hai ví dụ điển hình cho sức sống của các phong trào xã hội trong nông thôn hiện nay. Nếu phong trào ng−ời già gắn với đời sống cộng đồng thì phong trào phụ nữ lại tập trung vào các vấn đề của kinh tế hộ gia đình nh− vay vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và kế hoạch hóa gia đình, trong khi các phong trào thanh thiếu niên tr−ớc đây rất mạnh lại ch−a tìm đ−ợc động lực để phát triển nh− tr−ớc đó. Gần đây, phong trào xây dựng lại các quy −ớc cộng đồng hay h−ơng −ớc đang đ−ợc các cộng đồng và Nhà n−ớc quan tâm. Trong xây dựng và thực hiện h−ơng −ớc, ng−ời dân d−ờng nh− đ−ợc trực tiếp tham gia vào việc xây dựng và quản lý cộng đồng hơn là giữ thái độ thụ động tr−ớc những quy định từ trên đ−a xuống. Việc đón r−ớc trọng thể Bằng xác nhận làng văn hóa mới cũng đã trở thành các sự kiện cộng đồng nên đ−ợc mọi thành viên làng xã hết sức quan tâm. Tuy nhiên tinh thần cộng đồng này cần đ−ợc nhìn nhận trên tinh thần xã hội để cho nó không chỉ phản ánh lợi ích và mối quan tâm của các cộng đồng nhỏ bé mà cả lợi ích và nguyện vọng của toàn xã hội. Sự phối hợp giữa các địa ph−ơng với các cấp chính quyền cấp trên và cơ quan quản lý văn hóa là điều cần thiết để cho tinh thần cộng đồng trong nông thôn hiện nay có cơ hội đóng góp vào các phong trào xã hội chung của đất n−ớc. Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfso3_2003_nguyenductruyen_5196.pdf
Tài liệu liên quan