Tài liệu Sự hài lòng của người học về hoạt động giảng dạy môn học (Nghiên cứu tại Trường Đại học Sài Gòn): TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
34
Sự hài lòng của người học về hoạt động giảng dạy môn học
(Nghiên cứu tại Trường Đại học Sài Gòn)
Satisfaction of the learner on teaching activities in the classroom
(Researching at Saigon University)
TS. Lê Chi Lan; TS. Đỗ Đình Thái; ThS. Cổ Tồn Minh Đăng
Trường Đại học Sài Gòn
Le Chi Lan, Ph.D.; Do Dinh Thai, Ph.D.; Co Ton Minh Dang, M.A.
Saigon University
Tóm tắt
Giáo dục đại học đóng vai trò cung cấp những kiến thức và kỹ năng cho sinh viên tham gia vào thị
trường lao động. Chất lượng giáo dục đã trở thành một đề tài nóng bỏng đối với nhiều cá nhân và các tổ
chức có liên quan. Trong giáo dục đại học, hoạt động giảng dạy của giảng viên đóng một vai trò quan
trọng. Hiện nay, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo các trường đại học chuyển dần sang việc
đào tạo theo học chế tín chỉ việc đổi mới hoạt động giảng dạy theo yêu cầu của học chế tín chỉ “Lấy
người học là trung tâm” là điều...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hài lòng của người học về hoạt động giảng dạy môn học (Nghiên cứu tại Trường Đại học Sài Gòn), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016
34
Sự hài lòng của người học về hoạt động giảng dạy môn học
(Nghiên cứu tại Trường Đại học Sài Gòn)
Satisfaction of the learner on teaching activities in the classroom
(Researching at Saigon University)
TS. Lê Chi Lan; TS. Đỗ Đình Thái; ThS. Cổ Tồn Minh Đăng
Trường Đại học Sài Gòn
Le Chi Lan, Ph.D.; Do Dinh Thai, Ph.D.; Co Ton Minh Dang, M.A.
Saigon University
Tóm tắt
Giáo dục đại học đóng vai trò cung cấp những kiến thức và kỹ năng cho sinh viên tham gia vào thị
trường lao động. Chất lượng giáo dục đã trở thành một đề tài nóng bỏng đối với nhiều cá nhân và các tổ
chức có liên quan. Trong giáo dục đại học, hoạt động giảng dạy của giảng viên đóng một vai trò quan
trọng. Hiện nay, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo các trường đại học chuyển dần sang việc
đào tạo theo học chế tín chỉ việc đổi mới hoạt động giảng dạy theo yêu cầu của học chế tín chỉ “Lấy
người học là trung tâm” là điều không thể thiếu. Trong nghiên cứu tìm hiểu sự hài lòng của người học
về phương pháp giảng dạy, về quá trình giảng dạy và học tập và chất lượng của quá trình đào tạo. Qua
đó có thể thấy những mong mỏi của người học về quá trình đào tạo.
Từ khóa: sự hài lòng, người học, hoạt động giảng dạy môn học, giảng viên.
Abstract
Higher education plays a role in providing the knowledge and skills to students participating in the labor
market. The quality of education has become a hot issue for many individuals and organizations
involved. In higher education, the teaching activities of the faculty plays an important role. Currently,
according to the regulations of the Ministry of Education and Training, the universities gradually shifted
to the training credit system. So the teaching activity innovation according to requirement of the credit
system, "learner centered approach" is something indispensable. In a study to find out the satisfaction of
learners about the teaching methods, the process of teaching and learning and the quality of the training
process. Thereby can see the desire of people to learn about the training process.
Keywords: satisfaction, learners, teaching courses, faculty.
1. Mở đầu
Trong xu thế hội nhập và phát triển,
ngành giáo dục (GD) luôn được quan tâm
hàng đầu, nhất là chất lượng GD đại học.
Để từng bước phát triển GD đại học theo
chuẩn quốc tế, Bộ GD và Đào tạo (GD
&ĐT) đã ban hành Quyết định số
65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11
35
năm 2007 về việc ban hành Quy định về
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng GD trường
đại học. Chất lượng GD đã trở thành một
đề tài nóng bỏng đối với nhiều cá nhân và
các tổ chức có liên quan. Hiện nay có nhiều
khảo sát, bài báo, sách và các học giả
nghiên cứu phương pháp giảng dạy
(PPGD) nhằm đẩy mạnh GD Việt Nam và
yêu cầu bức thiết thay đổi nhanh chóng
cách đào tạo và đổi mới hoạt động giảng
dạy. Vì vậy, trong GD đại học hoạt động
giảng dạy (HĐGD) của GV cũng đóng một
vai trò quan trọng không kém. [1]. Trước
đây, GD được xem như một hoạt động sự
nghiệp đào tạo con người mang tính phi
thương mại, phi lợi nhuận nhưng qua một
thời gian dài chịu sự ảnh hưởng của các
yếu tố bên ngoài, đặc biệt là tác động của
nền kinh tế thị trường đã khiến cho tính
chất của hoạt động này không còn thuần
túy là một phúc lợi công mà dần thay đổi
trở thành “dịch vụ GD”. Theo đó, GD trở
thành một loại dịch vụ và khách hàng (sinh
viên (SV), phụ huynh) có thể bỏ tiền ra để
đầu tư và sử dụng một dịch vụ mà họ cho
là tốt nhất. Hiện nay, theo quy định của Bộ
GD&ĐT các trường đại học chuyển dần
sang việc đào tạo theo học chế tín chỉ, đây
là hình thức đào tạo còn mới mẻ đối với
một số trường đại học nói chung và trường
Đại học Sài Gòn nói riêng, đặc biệt việc
đổi mới HĐGD theo yêu cầu của học chế
tín chỉ “Lấy người học là trung tâm” là
điều không thể thiếu. Tuy nhiên, có những
câu hỏi liên quan đến tính hiệu quả của
việc đổi mới này có nhận được sự hài lòng
thì phía người học hay không vẫn còn là
câu hỏi chưa có lời giải đáp và nhất là đang
trong giai đoạn áp dụng đào tạo theo học
chế tín chỉ. Xuất phát từ lý do trên, chúng
tôi chọn đề tài nghiên cứu: Đánh giá mức
độ hài lòng của SV về HĐGD của GV
(Nghiên cứu tại Trường Đại học Sài Gòn).
Do khuôn khổ thời gian nên nhóm tác giả
chỉ chọn một số ngành có số lượng SV
đông như: ngành GD Tiểu học, ngành GD
Mầm non, ngành Công nghệ Thông tin,
ngành Kế toán và ngành Quản trị Kinh
doanh để nghiên cứu và phân tích.
2. Tổ chức nghiên cứu
2.1. Mô hình nghiên cứu sự hài lòng
của người học về hoạt động giảng dạy
Hình 1: Khung lý thuyết nghiên cứu về sự
hài lòng của sinh viên
PPGD (PPGD) là một thành tố hết sức
quan trọng của hoạt động giảng dạy. Khi
đã xác định được mục đích, nội dung
chương trình giảng dạy, PPGD của giáo
viên sẽ quyết định chất lượng quá trình dạy
học. Bên cạnh PPGD, trong quá trình giảng
dạy và học tập người học được tiếp thu
kiến thức, kỹ năng và thái độ từ quá trình
giảng dạy và học tập. HĐGD có hiệu quả
sẽ giúp SV chủ động trong quá trình học
tập, ngoài ra những kiến thức, kỹ năng và
thái độ sẽ trang bị cho SV những hành
trang tự tin bước vào công việc của mình.
Chất lượng của quá trình đào tạo sẽ có
những ảnh hưởng to lớn đến giá trị kiến
thức, kỹ năng và giúp người học tự tin về
nghề nghiệp của bản thân mình. Vì vậy, sự
hài lòng trong nghiên cứu được hiểu là sự
so sánh giữa lợi ích thực tế cảm nhận được
và sự kỳ vọng. Nếu lợi ích thực tế không
như kỳ vọng thì SV sẽ không hài lòng. Còn
nếu lợi ích thực tế đáp ứng với kỳ vọng đã
36
đặt ra thì SV sẽ hài lòng.
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra là những
nhân tố có liên quan đến HĐGD môn học
của GV trường Đại học Sài Gòn? Sự hài
lòng của SV về HĐGD môn học ở mức
độ nào? Trong giới hạn nghiên cứu của đề
tài sự hài lòng của SV về HĐGD của GV
được xem xét ở 3 khía cạnh: (1) Phương
pháp giảng dạy; (2) Quá trình đào tạo –
học tập và (3) Chất lượng về quá trình
đào tạo.
2.2. Quy trình và thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu kết hợp cả phương pháp
nghiên cứu định tính và định lượng và được
tiến hành 2 bước chính (hình 2): Nghiên cứu
sơ bộ và nghiên cứu chính thức.
Hình 2: Quy trình nghiên cứu mức độ hài lòng của sinh viên.
37
Trên cơ sở thăm dò ý kiến từ phía
chuyên gia, cán bộ quản lý và giảng viên,
nghiên cứu tiến hành xây dựng phiếu khảo
sát ý kiến có liên quan đến sự hài lòng của
người học trong HĐGD của giảng viên.
Nhóm tác giả tiến hành điều tra thử nghiệm
sau khi đã xây dựng phiếu khảo sát để
kiểm tra độ tin cậy và độ giá trị của phiếu
khảo sát, trên cơ sở đó chỉnh sửa các câu
hỏi chưa đạt yêu cầu. Mẫu điều tra thử
nghiệm là 60 SV. Tiến hành điều tra khảo
sát chính thức. Phương pháp chọn mẫu
khảo sát cho người học, dung lượng mẫu:
747 người. Cách chọn: chọn ngẫu nhiên
phân cụm theo tỷ lệ phần trăm người học
thuộc các ngành Sư phạm và ngoài sư
phạm từ 5 ngành đại diện.
Các biến số và dữ liệu liên quan:
Biến độc lập: phương pháp giảng
dạy; quá trình giảng dạy và học tập;
chất lượng chung về quá trình đào
tạo.
Biến phụ thuộc: sự hài lòng của SV.
Biến kiểm soát: khóa học, ngành
học, xếp loại học tập, giới tính.
Dữ liệu liên quan: Các dữ liệu về ý
kiến phản hồi của người học về HĐGD học
kỳ 1 và học kỳ 2 của các năm học 2014 –
2015 và 2015 – 2016.
2.3. Quy trình chọn mẫu
- Chọn mẫu khảo sát bằng bảng hỏi:
Trường đại học Sài Gòn hiện tại có 33
ngành cấp độ đại học, tuy nhiên nhóm tác
giả chỉ chọn ra 5 ngành đại diện: ngành GD
Mầm non, ngành GD Tiểu học, ngành
Công nghệ Thông tin, ngành Kế toán,
ngành Quản trị Kinh doanh. Các ngành này
có số lượng SV đào tạo khá đông. Mẫu
được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên,
phân tầng và theo cụm. Mỗi ngành trên
chọn ra 30 - 50 SV rải đều từ năm thứ nhất
đến năm thứ tư (tương đương khóa 2013,
2014, 2015 và 2016). Tổng cộng có tất cả
747 SV của 5 ngành trên tham gia ý kiến
khảo sát.
- Chọn mẫu phỏng vấn sâu: Mỗi
khóa học chọn ngẫu nhiên 2 SV của 5
ngành được khảo sát, do đó có tất cả 10 SV
tham gia phỏng vấn sâu. Các SV này có sự
khác nhau về giới tính, hộ khẩu thường trú
và kết quả học tập.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Đánh giá mức độ hài lòng của
người học về hoạt động giảng dạy
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát mẫu ở
5 ngành đại diện: ngành Sư phạm Mầm
non (số lượng: 183 chiếm tỷ lệ: 24.5%),
ngành Sư phạm Tiểu học (số lượng: 179
chiếm tỷ lệ: 24%), ngành Công nghệ
Thông tin (số lượng: 105 chiếm tỷ lệ:
14.1%), ngành Kế toán (số lượng: 154
chiếm tỷ lệ: 20.6%), ngành Quản trị Kinh
doanh (số lượng: 126 chiếm tỷ lệ: 16.9%).
Tổng số phiếu phát ra là 900, thu vào 850
phiếu và sau khi nhập dữ liệu có 747 hợp lệ
chiếm tỷ lệ 87,88%.
Việc thiết kế bảng hỏi với những thang
đo lường có độ tin cậy là rất quan trọng.
Phiếu khảo sát có 30 câu hỏi được thiết kế
để tìm hiểu sự hài lòng của người học về
HĐGD của giảng viên. Sau khi tiến hành
phát và thu phiếu hỏi, chúng tôi tiến hành
mã hóa các dữ liệu trên thang đo 5 mức,
được tính với số điểm như sau: hoàn toàn
không đồng ý = 1 điểm; cơ bản không
đồng ý = 2 điểm; phân vân = 3 điểm và cơ
bản đồng ý = 4 điểm; hoàn toàn đồng ý = 5
điểm. Để đánh giá độ tin cậy của thang đo
của phiếu hỏi, nhóm chúng tôi đã tiến hành
sử dụng công cụ Crobach Alpha, kết quả
Crobach Alpha = 0.900 đến gần 1. Điều
này chứng tỏ thang đo dùng để đo lường
mức độ hài lòng của người học về HĐGD
của GV là tốt.
38
Hình 3: Mức độ hài lòng về chuẩn bị, nội dung và PPGD của giảng viên
Về chuẩn bị, nội dung và phương
pháp giảng dạy: gồm 11 nội dung (hình 3):
GV có phương pháp truyền đạt tốt, dễ hiểu;
GV có kiến thức chuyên môn sâu rộng và
cập nhật kiến thức mới; GV đảm bảo giờ
lên lớp và kế hoạch giảng dạy; GV sử dụng
tốt các thiết bị công nghệ thông tin hỗ trợ
cho việc dạy; GV cung cấp đề cương chi tiết
và cách đánh giá cho mỗi môn học; GV dạy
kết hợp với GD nhân cách, đạo đức cho SV;
mọi thắc mắc về môn học đều có thể trao
đổi với GV đứng lớp (trao đổi trực tiếp, qua
email, điện thoại); việc đánh giá kết quả
học tập được thực hiện thường xuyên và
công bằng; GV đánh giá đúng và chính xác
năng lực của SV; các môn học tích hợp
được các kiến thức và kỹ năng theo chuẩn
đầu ra của ngành đào tạo; tỷ lệ giữa lý
thuyết và thực hành hợp lý có số điểm trung
bình từ 3.3534 điểm đến 4.2329, sai số
chuẩn < 0.04 và độ lệch chuẩn từ 0.78 đến
xấp xỉ 1 điểm. Vì vậy, có thể nói người học
đánh giá việc chuẩn bị, nội dung và PPGD
của GV ở mức độ tốt (hình 3).
Hình 4: Mức độ hài lòng về quá trình giảng dạy và học
39
Về quá trình giảng dạy và học tập:
gồm 12 nội dung (hình 4): SV có cơ hội
chủ động tham gia vào quá trình học tập;
SV được cập nhật các kiến thức chuyên
ngành kịp thời; HĐGD của ngành đào tạo
gắn với định hướng nghề nghiệp; SV được
rèn luyện phát triển kĩ năng giải quyết vấn
đề; SV được rèn luyện phát triển tư duy
phê phán; SV được tạo điều kiện để phát
triển kĩ năng làm việc độc lập; SV được
đào tạo các phương pháp liên hệ giữa các
vấn đề trong lý thuyết với thực tiễn; các
đợt thực tập “trang bị” thiết thực kinh
nghiệm nghề nghiệp cho SV; các trang
thiết bị giảng dạy phù hợp được sử dụng
hiệu quả; các phương thức kiểm tra đánh
giá kết quả học tập phù hợp với tính chất
và đặc thù của từng môn học; kết quả kiểm
tra đánh giá phản ánh đúng năng lực của
SV. Tiêu chí này có số điểm trung bình từ
3.3274 điểm đến 4.0254, sai số chuẩn <
0.04 và độ lệch chuẩn từ 0.87 đến xấp xỉ
0.93 điểm. Vì vậy, có thể nói người học
đánh giá quá trình giảng dạy và học tập của
họ ở mức độ hài lòng khá tốt, tuy nhiên
trong phần này SV rất phân vân về tỷ lệ
hợp lý giữa lý thuyết và thực hành trong
quá trình học (hình 4).
Hình 5: Mức độ hài lòng về chất lượng quá trình đào tạo
Về chất lượng chung của quá trình
đào tạo: gồm 7 nội dung (hình 5): sự hài
lòng về HĐGD của hầu hết các giảng viên;
các kỹ năng cần thiết: kỹ năng tự phát triển
(tự học, tự nghiên cứu, suy nghĩ sáng
tạo...); kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ
năng giải quyết vấn đề, xử lý thông tin; kỹ
năng giao tiếp, sử dụng ngoại ngữ và tin
học; kiến thức học từ Trường Đại học Sài
Gòn giúp bạn phát triển nghề nghiệp sau
này; SV ra trường tự tin về nghề nghiệp
của mình. Trong nội dung này điểm trung
bình là 3.6336 điểm, độ lệch chuẩn
0.64088 và sai số nhóm 0.02345. Vì vậy,
có thể nói người học đánh giá chưa cao về
chất lượng chung của quá trình đào tạo.
Ngoài ra, nghiên cứu tiến hành gom
biến theo 3 nhóm để đánh giá mức độ hài
lòng của SV ở từng nhóm. Cụ thể đối với
từng nhóm như sau:
40
+ Nhóm 1: PPGD gồm 11 tiêu chí
đánh giá được mã hóa từ HL1 đến HL11.
+ Nhóm 2: Quá trình giảng dạy và học
tập gồm 12 tiêu chí được mã hóa từ HL12
đến HL23.
+ Nhóm 3: Chất lượng chung về quá
trình đào tạo gồm 7 tiêu chí được mã hóa
từ HL24 đến HL30.
Bảng 1: Đánh giá điểm trung bình và độ lệch chuẩn các nội dung đánh giá sự hài lòng
STT Nội dung Mean Std.
Error
Std.
Deviation
N
1 Tiêu chí 1: Sự chuẩn bị, nội dung và PPGD 3.7548 0.02206 0.60280 747
2 Tiêu chí 2: Quá trình giảng dạy và học tập 3.6188 0.02058 0.56259 747
3 Tiêu chí 3: Chất lượng chung của quá trình
đào tạo
3.6336 0.02345 0.64088 747
Căn cứ kết quả bảng.1, SV ở 5 ngành
đào tạo bản đồng ý về sự chuẩn bị, nội
dung và PPGD của GV (ĐTB là 3.7548
điểm, sai số chuẩn là 0.02206 và độ lệch
chuẩn là 0.60280). Vì vậy, có thể nói
người học đánh giá việc chuẩn bị, nội
dung và PPGD của GV ở mức độ khá tốt.
Về quá trình giảng dạy và học tập: (ĐTB
là 3.6188 điểm, với độ lệch chuẩn là
0.56259 với sai số chuẩn là 0.02058). Vì
vậy, có thể nói rằng quá trình giảng dạy
và học tập được SV đánh giá chưa cao.
Về chất lượng chung của quá trình đào
tạo (ĐTB là 3.6336 điểm, độ lệch chuẩn
0.64088 và sai số nhóm 0.02345). Vì
vậy, có thể nói người học đánh giá chưa
cao về chất lượng chung của quá trình
đào tạo.
Hình 6: Mô hình CFA đã chuẩn hóa thể hiện sự hài lòng của sinh viên.
41
3.2. Kiểm định thang đo bằng CFA và
kiểm định giả thuyết
Sau khi phân tích nhân tố khám phá
EFA các thành phần còn lại trong nghiên
cứu gồm 30 biến được chia thành 3 nhóm.
Thang đo còn lại thể hiện cho sự hài lòng
gồm 8 biến thể hiện qua chất lượng đào
tạo, nhóm nghiên cứu tiếp tục dùng phân
tích CFA để khẳng định một lần nữa kết
quả EFA là đáng tin cậy hay không?
Kết quả CFA cho thấy mô hình có 402
bậc tự do, chi-square = 2197,007 (p-value =
0.000 < 0.05), chi-square/ df = 5.465, GFI =
0.818, RMSEA = 0.077 tất cả các trọng số
đã chuẩn hóa đều cao > 0.5 và có ý nghĩa
thống kê 0.000. Do đó mô hình đạt đến sự
hội tụ, hệ số tương quan của các biến quan
sát đều nhỏ hơn 1 nên đạt tính nguyên đơn.
Vì vậy có thể kết luận rằng các khái niệm
đạt giá trị phân biệt. Từ đó chứng tỏ mô
hình hoàn toàn phù hợp với dữ liệu thu thập
được.Chúng tôi tiến hành kiểm định trên số
lượng mẫu 746, với độ tin cậy 95%. Giá trị
của kiểm định t về giá trị mức độ hài lòng
của người học về HĐGD môn học của GV
là > 150 ứng với mức ý nghĩa là 0.000. Như
vậy, nếu ta chấp nhận các giả thiết H0 về
giá trị trung bình của phương pháp giảng
dạy, quá trình học tập và sự hài lòng tương
ứng với số điểm trung bình là 3.0 điểm thì
nguy cơ phạm sai lầm thấp và thấp dưới
mức ý nghĩa trong kiểm định này.
Hộp 1: Phỏng vấn SV ngành Công nghệ thông tin và Quản trị Kinh doanh
(Nam, SV năm thứ 4 Ngành Công nghệ thông tin)
Ngành Công nghệ thông tin là ngành có kiến thức khó, nhiều môn học khó dùng trực
quan sinh động để hình dung, đa số lập trình trên máy hoặc học thuật toán làm cho người
học rất khó hiểu. Tuy nhiên thiết bị máy móc của Nhà trường quá tệ đề nghị nhà trường
nên nâng cấp phòng máy. Các tài liệu học tập cần được chia sẻ rộng rãi trên mạng
internet. Nên giảm chương trình học (các môn không cần thiết) và tổ chức cho SV tiếp xúc
thực tế với các công ty để có kiến thức thực tế.
(Nữ, SV năm 3 ngành Quản trị Kinh doanh)
Ngành Quản trị là ngành đòi hỏi tiếp cận nhiều ở thực tế vì vậy Khoa nên tổ chức cho
SV đi thực tế kiến tập ngắn để rèn luyện nghề nghiệp. Ngoài ra, hiện nay ngành này còn
thiếu đội ngũ nguồn nhân lực dẫn đến GV dạy không đúng chuyên ngành. Ngoài ra, trong
quá trình đào tạo, khoa nên mời 1 vài nhà doanh nghiệp đến nói chuyện chuyên đề hoặc
giảng dạy để SV có thể thấy được việc áp dụng các kiến thức thực tế, bài học kinh nghiệm
rút ra ở thực tiễn của các doanh nghiệp gặp phải.
Dựa vào hộp phỏng vấn 1 cho thấy
SV hiện nay rất mong đợi trong quá trình
học tập được tiếp cận nhiều với thực
tiễn, giảm tải chương trình lý thuyết và
bản thân người mong mỏi tiếp xúc công
việc thực tế cũng như gặp gỡ các nhà
doanh nghiệp.
Theo kết quả của bảng kiểm định
thống kê 2, chúng tôi có thể kết luận rằng
điểm trung bình mức độ hài lòng của người
học về HĐGD môn học của GV trên 3.0
điểm, chứng tỏ mức độ tương đối hài lòng
của người học về HĐGD môn học của GV
ở mức tương đối (xấp xỉ 3.6 điểm).
42
Bảng 2: Kiểm định giả thuyết dựa trên giá trị trung bình của tổng thể One-Sample Test
Test Value = 0
t df Sig. (2-
tailed)
Mean
Difference
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
Sự hài lòng 156.462 746 .000 3.62835 3.5828 3.6739
Quá trình học tập 162.356 746 .000 3.61714 3.5734 3.6609
Phương pháp giảng dạy 162.762 746 .000 3.70293 3.6583 3.7476
Sau khi tiến hành kiểm định giả thuyết
nghiên cứu tìm hiểu sự tương quan của các
biến số trong mô hình, kết quả thu được
như sau: Sự hài lòng của SV về HĐGD
môn học có mối tương quan thuận với
PPGD của GV và được giải thích do
28.1% là do PPGD của giảng viên. Sự hài
lòng của SV về HĐGD môn học có mối
tương quan thuận với quá trình giảng dạy
và học tập môn học và được giải thích do
37.5% là do quá trình giảng dạy và học tập
môn học. Sự hài lòng của SV về HĐGD
môn học của GV tạo nên mối tương quan
giữa PPGD và quá trình giảng dạy và học
tập môn học được giải thích do 33,9%.
Quá trình giảng dạy và học tập có mối
tương quan thuận với chất lượng chung về
quá trình đào tạo.
Bảng 3: Sự tương quan giữa các biến số trong nghiên cứu đánh giá sự hài lòng
SuHaiLong QTHT PPGD
SuHaiLong Pearson Correlation 1 0.375** 0.281**
Sig. (2-tailed) 0 0
QTHT Pearson Correlation 0.375** 1 0.339**
Sig. (2-tailed) 0 0
phương pháp
giảng dạy
Pearson Correlation 0.281** 0.339** 1
Sig. (2-tailed) 0 0
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
4. Kết luận và kiến nghị
Qua kết quả nghiên cứu mức độ hài
lòng của người học về HĐGD môn học của
GV trong thời gian 2 năm học, có thể rút ra
kết luận về mức độ hài lòng của người học
về HĐGD môn học của GV tại trường Đại
học Sài Gòn như sau:
+ Sự hài lòng về phương pháp giảng
dạy: SV khá hài lòng về chuẩn bị, nội dung
và phương pháp giảng dạy. Tuy nhiên, tỷ lệ
phân vân của người học ở các nội dung
như: việc đánh giá kết quả học tập được
43
thực hiện thường xuyên và công bằng; GV
đánh giá đúng và chính xác năng lực của
SV; các môn học tích hợp được các kiến
thức và kỹ năng theo chuẩn đầu ra của
ngành đào tạo; tỷ lệ giữa lý thuyết và thực
hành hợp lý cao ở 1 số ngành như: Quản trị
Kinh doanh, Công nghệ Thông tin, ngành
GD Mầm non và ngành GD Tiểu học.
+ Quá trình giảng dạy và học tập: SV
tương đối hài lòng về quá trình giảng dạy và
học tập. Tuy nhiên, các trang thiết bị giảng
dạy phù hợp được sử dụng hiệu quả; các
phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học
tập phù hợp với tính chất và đặc thù của
từng môn học; kết quả kiểm tra đánh giá
phản ánh đúng năng lực của SV chưa nhận
được sự hài lòng cao từ phía người học.
+ Chất lượng đào tạo chung của quá
trình đào tạo: SV tương đối hài lòng về
chất lượng chung của quá trình đào tạo.
Tuy nhiên 2 nội dung: kiến thức học từ
trường Đại học Sài Gòn giúp bạn phát triển
nghề nghiệp sau này và SV ra trường tự tin
về nghề nghiệp của mình có số lượng SV
phân vân khá cao.
Ngoài ra, kết quả phỏng vấn sâu về
mức độ hài lòng của người học về HĐGD
môn học của GV tại trường Đại học Sài
Gòn hiện nay vẫn còn có những tồn tại
như: Một số GV đưa bài tập khó với năng
lực người học; Một số Thầy Cô nghỉ nhiều
tiết, không đảm bảo giờ lên lớp; Một số
môn học cần cung cấp tài liệu cho người
học về môn học và một số GV cần tạo môi
trường học tập sôi nổi để SV phát huy khả
năng của mình. GV cần dành nhiều thời
gian để trao đổi với SV, giải đáp các vướng
mắc và giúp SV liên hệ kiến thức với thực
tế bằng ví dụ minh họa. Tạo điều kiện để
SV tham gia bài giảng và nói lên những
khó khăn Trong quá trình giảng dạy GV
cần kết hợp giữa lý thuyết và thực tế để SV
có thể tiếp cận với thực tiễn làm cơ sở nền
tảng cho việc phát triển nghề nghiệp sau
này. Ngoài ra, GV cần nói rõ hình thức thi
hết môn học và báo trước kế hoạch kiểm
tra để SV có thời gian chuẩn bị.
Như vậy, bên cạnh việc hài lòng của
người học về HĐGD môn học của GV tại
trường Đại học Sài Gòn cũng còn những
hạn chế, qua những hạn chế này GV sẽ tìm
cách khắc phục nâng cao hiệu quả của việc
giảng dạy.
Một số kiến nghị đáp ứng sự hài lòng
của người học
(1) Phát huy tối ưu của việc sử dụng
ứng dụng công nghệ thông tin
Đổi mới phương pháp dạy học nâng
cao chất lượng GD là một trong những
mục tiêu quan trọng hiện nay của ngành
GD nói chung và của Trường Đại học Sài
Gòn nói riêng. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin nhằm đổi mới nội dung, phương
pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó
khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở
vật chất, tài chính, năng lực của đội ngũ
giáo viên. Với khả năng sư phạm vốn có
cộng thêm một ít bồi dưỡng về kiến thức
tin học, các GV hoàn toàn có thể thiết kế
được bài giảng điện tử để thể hiện tốt hơn
phương pháp sư phạm, góp phần đổi mới
phương pháp giảng dạy. Việc sử dụng ứng
dụng công nghệ thông tin giúp GV tương
tác tốt với công nghệ thông tin và truyền
thông khi giảng bài trên lớp, GV có thể
chia sẻ và sử dụng những tài liệu đã dạy...
giúp giảm thiểu đáng kể khối lượng công
việc và tạo hứng thú cho GV thay đổi
phương pháp sư phạm và sử dụng công
nghệ thông tin nhiều hơn, khuyến khích
nâng cao chuyên môn Đối với người học
sẽ nâng cao hứng thú và động lực học tập,
tạo cơ hội tốt hơn để SV tham gia và hợp
tác cùng nhau, phát triển kỹ năng giao tiếp
44
và tự học, tự nghiên cứu, SV cũng có thể
xử lý và nắm bắt được nhiều thông tin
thông qua bài giảng rõ ràng, hiệu quả và
linh hoạt. Giúp SV trở nên sáng tạo và tự
tin hơn khi thuyết trình trước lớp.
(2) Đổi mới đánh giá kết quả học tập
thông qua việc thi, kiểm tra học phần
Kết quả học tập của một SV được hình
thành từ kết quả học tập của từng môn học
(học phần). Theo qui chế hiện hành, việc
đánh giá kết quả học tập của từng môn học
được thực hiện thông qua các hình thức: thi
viết (trắc nghiệm hoặc tự luận), vấn đáp,
làm thực tập hoặc kết hợp giữa các hình
thức trên. Việc áp dụng hình thức nào phụ
thuộc vào điều kiện giảng viên, vào tính
chất của từng môn học và vào mục tiêu
được đặt ra đối với môn học. Để nâng cao
tính chính xác và khách quan của việc đánh
giá kết quả học tập và đảm bảo yêu cầu đào
tạo của nhà trường, Trường Đại học Sài
Gòn đã có những đổi mới, hoàn thiện các
biện pháp đánh giá kết quả học tập trong
SV như:
+ Sử dụng ngân hàng đề thi. Đảm bảo
người dạy không cắt xén chương trình và
người học không học tủ, học trọng tâm và
đảm bảo tính khách quan, vô tư trong thi cử.
+ Thường xuyên thay đổi bộ đề thi,
đổi mới cách ra đề thi để đảm bảo tính
chính xác, tính thời sự của đề thi và hạn
chế việc SV tự thu thập đề thi và giải trước.
Nên thay đổi cách thức ra đề thi đó là
các đề thi viết không chỉ giới hạn ở các đề
tự luận như trước mà được thiết kế bằng sự
kết hợp giữa tự luận, trắc nghiệm tự luận
và giải quyết tình huống. Đối với hầu hết
các môn học đề thi nên được cấu tạo bởi
hai phần: Lý thuyết và bài tập. Ở phần lý
thuyết các câu hỏi đưa ra là câu hỏi tự luận
hoặc/và câu hỏi trắc nghiệm tự luận (câu
hỏi đúng sai có giải thích vì sao). Phần bài
tập là một hoặc nhiều tình huống yêu cầu
giải quyết. Cách ra đề thi như trên đã giải
quyết được những hạn chế của bài thi viết
thuần túy tự luận đòi hỏi SV có sự ứng
dụng các kiến thức lí luận trong việc giải
quyết các tình huống cụ thể tránh tình trạng
học vẹt.
(3) Xây dựng chương trình đào tạo và
nội dung môn học tiếp cận thực tiễn
Hiện nay, chương trình đào tạo còn hạn
chế chưa đáp ứng nhu cầu xã hội. Trên cơ
sở đó nhóm nghiên cứu đề xuất cần: “Thiết
kế các chương trình đào tạo chú trọng định
hướng kết quả đầu ra và định hướng năng
lực“ có thể xem là một giải pháp để giải
quyết khắc phục nhược điểm trên.
Việc thực hiện xây dựng chương trình
và nội dung môn học có thể theo 2 cách
như sau:
Từ trên xuống: với giả định đã có
chuẩn đầu ra, trên cơ sở ta xác định khối
lượng kiến thức, kỹ năng và thái độ cần
thiết cho SV. Từ đó, phân chia các khối
kiến thức trong một dây chuyển tích hợp
vào các môn học những năng lực cần thiết
của ngành nghề đào tạo. Do đó, chúng ta từ
chuẩn đầu ra chung của cả chương trình
học xác định thành cấu trúc chương trình
đào tạo, từ đó xác định chuẩn đầu ra cho
từng môn học và từ đó xạy dựng đề cương
chi tiết cho từng môn học.
Từ dưới lên: với hiện thực chúng ta đã
có chương trình đào tạo cụ, với đề cương
chi tiết của các môn học cũ nhưng sự liên
kết giữa các môn chưa được xác định rõ,
chuẩn đầu ra của từng môn chưa được xác
định. Với tình huống này, chúng ta xác
định lại chuẩn đầu ra của từng môn trong
sự so sánh với chuẩn đầu ra của ngành đào
tạo. Thông qua đó xác định chuỗi liên kết
của các môn và trên cơ sở đó hiệu chỉnh lại
đề cương chi tiết cũ hình thành đề cương
45
chi tiết mới.
Hình thức 2 này đang được áp dụng tại
Trường Đại học Sài Gòn, tuy nhiên về lâu
dài nhà trường sẽ có kế hoạch xây dụng
chương trình theo GD định hướng. Chương
trình dạy học định hướng kết quả đầu ra
không quy định những nội dung dạy học
chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra
mong muốn của quá trình đào tạo, trên cở
sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về
việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ
chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm
đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học
tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn.
Trong chương trình dựa trên kết quả đầu
ra, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập
mong muốn thường được mô tả thông qua
các thuộc tính nhân cách chung
(Attributes) và các kết quả yêu cầu cụ thể
(Outcomes) hay thông qua hệ thống các
năng lực (Competency). Kết quả học tập
mong muốn được mô tả chi tiết và có thể
quan sát, đánh giá được. HS cần đạt được
những kết quả yêu cầu đã quy định trong
chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào
tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lý chất
lượng GD theo định hướng kết quả đầu ra.
Tóm lại: Với những kiến nghị trên
xuất phát từ sự đánh giá hài lòng của người
học về HĐGD môn học, những kiến nghị
này sẽ được các nhà quản lý và GV Trường
Đại học Sài Gòn nghiên cứu và xem xét
chọn lọc ứng dụng để nâng cao chất lượng
giảng dạy và đào tạo tại Trường Đại học
Sài Gòn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Phương Anh (2005), Thực hiện thu
thập và sử dụng ý kiến SV trong đánh giá chất
lượng giảng dạy: Kinh nghiệm từ Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, GD đại học chất
lượng và đánh giá, tr.48-63, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Kim Dung (1999), Khảo sát khả năng
có thể sử dụng ý kiến phản hồi của SV trong
Trường ĐHSP TP.HCM.
3. Nguyễn Kim Dung (2010), “Khảo sát mức độ
hài lòng của SV về chất lượng giảng dạy và
quản lý của một số trường ĐH Việt Nam”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học đánh giá xếp hạng các
trường đại học và cao đẳng Việt Nam, trang
203-209.
4. Trần Xuân Kiên (2009), Đánh giá sự hài lòng
của SV về chất lượng đào tạo tại Trường đại
học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học
Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Quản lý GD,
Viện đảm bảo Chất lượng GD, ĐHQG Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Trang (2010), Xây dựng mô hình
đánh giá mức độ hài lòng của SV với chất
lượng đào tạo tại Trường Đại học Kinh tế,
ĐH Đà Nẵng.
6. Marsh (1984), Students' Evaluation of Educ
ational Qualit y (SEEQ).
7. March (1987), Students' evaluations of
university teaching: Research findings,
methodological issues, and directions for
future research.
8. Michele Marincovic (1999), “Using Student
Feedback to Improve Teaching”, Changing
Practices in Evaluating Teaching, p.45-tr69.
9. Murray (1985), Classroom teaching
behaviors and student ratings of college
teaching effectiveness.
Ngày nhận bài: 18/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 172_3659_2215223.pdf