Sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh

Tài liệu Sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 140 SỬ DỤNG THANG ĐIỂM ALDRETE ĐỂ ĐÁNH GIÁ NGƯỜI BỆNH TẠI PHÒNG HỒI TỈNH Lâm Hữu Mỹ Lộc*, Nguyễn Văn Chinh**, Jane Dimmitt Champion*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sau mổ người bệnh có nhiều rồi loạn sinh lý trên các tạng của cơ thể. Vì thế, người bệnh cần được theo dõi sát và cần có những tiêu chí cụ thể để đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh. Cũng cần có sự thống nhất những tiêu chí đó giữa những người chăm sóc bệnh nhân để tạo ra sự an toàn cho người bệnh cũng như là hiệu quả trong công việc. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 177 người bệnh được trải qua thời gian hồi tỉnh tại phòng hồi tỉnh của bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 03/2019 - 05/2019. Điều dưỡng sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người b...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 29/06/2023 | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 140 SỬ DỤNG THANG ĐIỂM ALDRETE ĐỂ ĐÁNH GIÁ NGƯỜI BỆNH TẠI PHÒNG HỒI TỈNH Lâm Hữu Mỹ Lộc*, Nguyễn Văn Chinh**, Jane Dimmitt Champion*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sau mổ người bệnh có nhiều rồi loạn sinh lý trên các tạng của cơ thể. Vì thế, người bệnh cần được theo dõi sát và cần có những tiêu chí cụ thể để đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh. Cũng cần có sự thống nhất những tiêu chí đó giữa những người chăm sóc bệnh nhân để tạo ra sự an toàn cho người bệnh cũng như là hiệu quả trong công việc. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 177 người bệnh được trải qua thời gian hồi tỉnh tại phòng hồi tỉnh của bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 03/2019 - 05/2019. Điều dưỡng sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh. Kết quả: Thời gian trung bình người bệnh đạt được điểm Aldrete ≥ 9 là 2,0 ± 0,7 giờ. Thời gian trung bình người bệnh được chuyển khỏi phòng hồi tỉnh là 3.2 ± 0,6 giờ. Loại phẫu thuật và phương pháp vô cảm là yếu tố liên quan có ý nghĩa đến thời gian trung bình người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥ 9 (p <0,05). Kết luận: Sử dụng thang điểm Aldrete một cách hiệu quả sẽ giúp thúc đẩy sự tập trung để đánh giá trên từng người bệnh, có sự thống nhất giữa những người chăm sóc bệnh nhân. Điều này cũng giúp nâng cao thực hành điều dưỡng, cải thiện sự an toàn cho người bệnh. Từ khóa: thang điểm Aldrete, phòng hồi tỉnh ABSTRACT USING ALDRETE SCORE TO ASSESS PATIENT IN RECOVERY ROOM Lam Huu My Loc, Nguyen Van Chinh, Jane Dimmitt Champion * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 140 – 145 Background: Postoperation is the most important time. Because there are many physiological disorders on the organs of the body. Therefore, patients need to be monitored and have specific criteria to monitor and evaluate the recovery of patients. It is also necessary to agree on those criteria among the caregivers to create safety for patients as well as work efficiency. Objectives: To evaluate the effectiveness of using Aldrete scoring system to assess patients in the recovery room of Nguyen Tri Phuong hospital. Methods: Descriptive cross-sectional study of 177 patients who spent their time in the recovery room of Nguyen Tri Phuong hospital from March 2019 - May 2019. Nurses use Aldrete scoring system to assess patient in the recovery room. Results: The average time that patients achieve Aldrete score ≥9 is 2.0 ± 0.7 hours and the average time patients are allowed to discharge from recovery room is 3.2 ± 0.6 hours. The type of surgery and the method of anesthesia are significantly related factors to the average time patients achieve Aldrete score ≥9. *Bệnh viện Đa khoa khu vực Định Quán. **Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ***Điều dưỡng, Đại học Bắc Colorado, Mỹ Tác giả liên lạc: CN. Lâm Hữu Mỹ Lộc ĐT: 0395036438 Email: lamloc210@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 141 Conclusion: Using effectively Aldrete score will help foster the focus on assessing each individual patient, has consistency among patient caregivers. These things also help improve nursing practice, improving the safety of patients. Keywords: aldrete scale, recovery room ĐẶT VẤN ĐỀ Thời gian hồi tỉnh là giai đoạn đầu của quá trình hồi phục sau mổ, bắt đầu từ khi ngừng các thuốc duy trì mê cho đến khi người bệnh được phục hồi tri giác, các phản xạ bảo vệ đường hô hấp. Để theo dõi và đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh cần có những tiêu chí và tiêu chuẩn đặc biệt. Thang điểm Aldrete là tiêu chí lâm sàng cơ bản để đánh giá mức độ hồi phục trong giai đoạn này(1,7). Một vài yếu tố có ảnh hưởng tới quá trình hồi phục sau mổ được Paul F. White nêu ra như sau: nữ giới, tuổi cao, thời gian phẫu thuật kéo dài, máu mất đáng kể, sử dụng opioid, đau, nôn sau mổ, có gây tê tủy sống(10). Vì vậy, mỗi người bệnh cần được đánh giá theo dõi thích hợp. Vì đặc thù của phòng hồi tỉnh nên người điều dưỡng làm việc tại phòng hồi tỉnh cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp. Bên cạnh những kỹ năng và kinh nghiệm để đánh giá tình trạng người bệnh sau mổ thì trong thực hành điều dưỡng cần có những tiêu chí lâm sàng như là cơ sở khoa học để đánh giá mức độ hồi phục của người bệnh trong giai đoạn này. Thang điểm Aldrete là một thang điểm được chấp nhận phổ biến để đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh sau phẫu thuật. Tuy nhiên, về phía điều dưỡng chưa được thường xuyên sử dụng như là một công cụ đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh. Sự kết hợp đánh giá bệnh giữa bác sĩ và điều dưỡng dựa trên thang điểm Aldrete chưa phổ biến. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thời gian lưu lại phòng hồi tỉnh của bệnh nhân giảm đi và người bệnh được theo dõi chặc chẽ hơn khi người bệnh được đánh giá bằng những tiêu chí cho trước(9). Vì thế, tôi thực hiện đề tài “Sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh” để đánh giá hiệu quả của thang điểm trong việc đánh giá người bệnh trong phòng hồi tỉnh. Mục tiêu Xác định thời gian trung bình người bệnh đạt điểm Aldrete ≥9. Xác định thời gian trung bình người bệnh được xuất khỏi phòng hồi tỉnh. Xác định các yếu tố liên quan đến thời gian đạt được điểm số Aldrete ≥9. ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tất cả người bệnh phẫu thuật có trải qua giai đoạn hồi tỉnh tại phòng hồi tỉnh của bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong khoảng thời gian từ tháng 03 năm 2019 đến tháng 05 năm 2019. Không bao gồm các người bệnh có chỉ định chuyển ICU, người bệnh có phẫu thuật thần kinh cột sống. Tiêu chuẩn chọn vào Phẫu thuật chương trình, được chăm sóc và được theo dõi tại phòng hồi tỉnh, phân loại ASA I, II, III. Tiêu chuẩn loại trừ Người bệnh phẫu thuật cấp cứu, người bệnh chỉ dùng an thần hoặc tê tại chỗ, có chỉ định chuyển ICU sau phẫu thuật, người bệnh phẫu thuật liên quan đến thần kinh. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu. Cỡ mẫu Có 177 người bệnh. Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu thuận tiện. Phương pháp thu thập số liệu Điều dưỡng sẽ đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh bằng thang điểm Aldrete, dựa vào thang điểm Aldrete để ghi nhận thời gian và Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 142 điểm số theo tình trạng của người bệnh. Cho đến khi điểm số Aldrete ≥9, điều dưỡng báo lại với bác sĩ gây mê để kiểm tra lại điểm số cũng như để bác sĩ gây mê ra quyết định trên bệnh nhân có được xuất hồi tỉnh hay không. Nghiên cứu viên sẽ thu thập các số liệu bằng công cụ “Phiếu thu thập số liệu bệnh nhân” được soạn sẵn. Cho đến khi người bệnh được ra khỏi phòng hồi tỉnh thì quy trình được hoàn tất. Nghiên cứu viên sẽ ở tại khoa và cùng với điều dưỡng để theo dõi người bệnh. Quản lý và phân tích số liệu Sử dụng phần mềm Stata IC 13 để phân tích. Sử dụng trung bình và độ lệch chuẩn để mô tả các biến định lượng phân phối bình thường gồm: tuổi, đặc điểm hồi tỉnh của người bệnh (T1, T2). Phép kiểm T-Test được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các biến định lượng T1, T2 với các biến nhị giá (giới, nhóm tuổi, tiền sử bệnh, phương pháp vô cảm, biến cố tại phòng hồi tỉnh). Nghiên cứu sử dụng mức ý nghĩa α= 0,05 và khoảng tin cậy 95%. Y đức Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng Y đức Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh số 35/ĐHYD-HĐĐD. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm về thời gian lưu lại phòng hồi tỉnh của người bệnh Đặc điểm Trung bình ± độ lệch chuẩn Thời gian NB đạt được điểm số Aldrete ≥ 9 (T1) 2,0 ± 0,7 Thời gian NB được phép xuất khỏi phòng hồi tỉnh (T2) 3,2 ± 0,6 T2 - T1 ( T) 1,3 ± 0,6 P <0,001 Thời gian trung bình người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥9 (T1) là 2,0 giờ. Thời gian người bệnh được phép xuất khỏi phòng hồi tỉnh (T2) là 3,2 giờ. Có sự khác biệt đáng kể giữa T2 và T1 với p <0,001. Thời gian người bệnh lưu lại phòng hồi tỉnh sau khi đạt đủ điểm Aldrete (∆T=T2-T1) là 1,3 giờ (Bảng 1). Về điểm số Aldrete người bệnh đạt được lúc nhập phòng hồi tỉnh cao nhất là 9 chiếm 46,3%; thấp nhất là 5 điểm chiếm 32,2% (Hình 1). Hình 1. Sơ đồ cột về điểm số người bệnh vừa đến đến phòng hồi tỉnh Bảng 2. Ý kiến của bác sĩ gây mê về người bệnh chưa được ra khỏi phòng hồi tỉnh sau khi đạt điểm Aldrete ≥9 Ý kiến bác sĩ Tần số Tỉ lệ (%) Theo dõi thêm 62 35,0 Đợi hết tê chân 76 42,9 Khác 34 20,3 Không có ý kiến 5 1,7 Theo ý kiến của bác sĩ gây mê, các vấn đề dẫn đến người bệnh chưa được ra khỏi phòng hồi tỉnh sau khi đạt điểm Aldrete ≥9 chủ yếu là cần phải theo dõi thêm (35%) và đợi hết tê chân trong gây tê là (42,9%) (Bảng 2). Bảng 3. Mối liên quan giữa đặc điểm tiền phẫu với thời gian trung bình người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥9 Đặc điểm T1 (TB ± ĐLC) p Giới Nam 2,0 ± 0,7 0,031 Nữ 1,8 ± 0,7 Nhóm tuổi <60 2,0 ± 0,6 0,355 ≥60 tuổi 1,8 ± 0,7 Tiền sử bệnh Có 2,0 ± 0,6 0,265 Không 1,9 ± 0,7 Phân loại ASA I 2,0 ± 0,6 ref II 2,0 ± 0,8 0,605 III 1,8 ± 0,7 0,418 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 143 Đặc điểm T1 (TB ± ĐLC) p Điểm số Aldrete lúc nhập phòng hồi tỉnh 5 2,1 ± 0,5 ref 7 2,4 ± 0,5 0,306 8 2,1 ± 0,7 0,685 9 1,8 ± 0,8 0,002 Không có mối liên quan giữa nhóm tuổi, tiền sử bệnh, phân loại ASA với thời gian đạt điểm Andrete >9 (Bảng 3). Có mối liên quan giữa điểm Aldrete lúc nhập phòng hồi tỉnh, giới tính với thời gian T1. Thời gian T1 trung bình ở nam là 2 giờ cao hơn so với nữ (p=0,031). Nhóm có điểm Aldrete bằng 5 lúc nhập phòng hồi tỉnh có thời gian T1 dài hơn so với nhóm có điểm Aldrete bằng 9. Bảng 4. Mối liên quan giữa đặc điểm phẫu thuật và can thiệp vô cảm với thời gian trung bình người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥9 Đặc điểm T1 (TB ± ĐLC) p Phương pháp vô cảm Gây mê 2,1 ± 0,5 0,014 Gây tê 1,9 ± 0,8 Loại phẫu thuật Sản phụ khoa 2,4 ± 0,7 Ref Tai - mũi - họng 1,9 ± 0,4 0,013 Chỉnh hình 1,7 ± 0,8 <0,001 Tiết niệu 1,9 ± 0,7 0,002 Phẫu thuật tổng quát 1,9 ± 0,5 0,001 Khác 1,9 ± 0,4 0,014 Yếu tố bất lợi xảy ra tại phòng hồi tỉnh Có 2,1 ± 0,7 0,116 Không 1,9 ± 0,7 Yếu tố bất lợi xảy ra tại phòng hồi tỉnh cụ thể Nôn/ buồn nôn 0,133 Có 2,1 ± 0,7 Không 1,9 ± 0,7 Đau 0,441 Có 2,1 ± 0,8 Không 1,9 ± 0,6 Chảy máu 0,094 Có 2,0 ± 0,9 Không 2,0 ± 0,7 Lạnh run 0,110 Có 2,1 ± 0,6 Không 1,9 ± 0,7 Số yếu tố bất lợi tại phòng hồi tỉnh (n=74) 1 yếu tố 2,0 ± 0,6 0,439 ≥2 yếu tố 2,1 ± 0,7 Không có mối liên quan giữa các yếu tố bất lợi tại phòng hồi tỉnh với thời gian T1. Phương pháp vô cảm, loại phẫu thuật có liên quan đến thời gian T1. Thời gian T1 ở nhóm bệnh nhân được gây mê bằng 2,1 giờ; cao hơn so với nhóm bệnh nhân được gây tê (p=0,014). Phẫu thuật chỉnh hình có thời gian T1 ngắn nhất bằng 1,7 giờ. Phẫu thuật sản phụ khoa có thời gian T1 dài nhất với bằng 2,4 giờ và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất cả các loại phẫu thuật (p <0,05) (Bảng 4). BÀN LUẬN Thang điểm Aldrete dùng để đánh giá sự hồi tỉnh của người bệnh tại phòng hồi tỉnh, thang điểm này được khuyến cáo sử dụng và đây như là một cơ sở khoa học để đánh giá người bệnh tại phòng hồi tỉnh(7). Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian đạt điểm số Aldrete ở nhóm gây mê 2,1 ± 0,5 giờ lâu hơn so với một số nghiên cứu khác. Ở nghiên cứu của Vaghadia thời gian người bệnh đạt được điểm số Aldrete 8,3 ± 7,6 phút(9). Một nghiên cứu khác của Shraya Banerjee vào năm 2018 về việc sử dụng hai hệ thống điểm số Aldrete và Fast-track để đánh giá sự hồi tỉnh của bệnh nhân phẫu thuật nội soi thì thời gian đạt điểm số Aldrete ≥9 là 14,8 ± 3,8 phút(3). Sự khác nhau giữa nghiên cứu này với những nghiên cứu khác có thể là vì chúng tôi chưa xét đến các loại thuốc gây mê đã sử dụng, các loại thuốc gây mê, gây tê khác nhau sẽ có thời gian hồi tỉnh khác nhau(8) và liều lượng thuốc gây mê cũng như khác nhau về điểm số Aldrete lúc người bệnh nhập vào phòng hồi tỉnh. Cũng có thể là mẫu nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn và đặc điểm nhân khẩu học cũng khác nhau. Bên cạnh đó, tại khoa chúng tôi nghiên cứu, sau khi người bệnh được rút nội khí quản, người bệnh cần được thở oxy mask ít nhất 2 giờ chính vì vậy thông số về độ bão hòa oxy của người bệnh vẫn là 1, và người bệnh mặc dù đã tỉnh táo những chưa định hướng được thì điểm số về mặc ý thức vẫn là 1. Đối với nhóm gây tê thì người bệnh mặc dù đã đạt được điểm Aldrete = 9 rất sớm ngay khi mới vừa đến phòng hồi tỉnh nhưng để đạt được Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 144 điểm số Aldrete >9 thì cần một khoảng thời gian dài hơn vì vận động của người bệnh chưa trở lại được nên điểm số của vận động vẫn là 1. Theo ý kiến của bác sĩ gây mê thì cần phải theo dõi thêm các người bệnh có nguy cơ như người già hoặc người bệnh có các bệnh sẵn có chiếm 35%. Đối với người bệnh có gây tê tủy sống thì người bệnh cần lấy lại được hoàn toàn vận động và cảm giác trước khi người bệnh được chuyển ra khỏi phòng hồi tỉnh, tỉ lệ này chiếm 42,9%. Những điều này nhắm đến vấn đề an toàn người bệnh, đảm bảo người bệnh không bị các biến chứng khác sau mổ và nếu có thì người bệnh được theo dõi và xử trí kịp thời tại phòng hồi tỉnh. Chúng tôi tìm được mối liên quan giữa thời gian người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥ 9 với đặc điểm về giới tính, điểm số Aldrete lúc nhập phòng hồi tỉnh. Về giới tính, thời gian hồi tỉnh trung bình ở nam là 2 giờ cao hơn so với nữ giới. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Apfelbaum rằng thời gian hồi tỉnh của nam giới dài hơn nữ giới(2,4). Riêng đối với điểm số Aldrete lúc đến phòng hồi tỉnh có ảnh hưởng đáng kể lên thời gian T1. Nhóm có điểm số Aldrete bằng 5 lúc nhập phòng hồi tỉnh có thời gian T1 dài hơn so với nhóm có điểm số bằng 9. Vì những NB có điểm số càng thấp thì các thông số cần thiết để đánh giá cho sự hồi tỉnh càng thấp nên NB cần nhiều thời gian hơn để đạt được các thông số cần thiết cho sự hồi tỉnh. Đa phần những NB có điểm số càng thấp là những NB được gây mê và những NB có điểm số cao là NB được gây tê nên NB. Điều này cũng phù hợp để phương pháp vô cảm cũng ảnh hưởng đáng kể lên thời gian T1, thời gian T1 ở nhóm NB gây mê 2,1 giờ cao hơn so với nhóm được gây tê. Loại phẫu thuật cũng ảnh hưởng đáng kể lên thời gian T1. Trong các phẫu thuật thì chỉnh hình có thời gian ngắn nhất bằng 1,7 giờ thuật sản phụ khoa có thời gian T1 dài nhất với bằng 2,4 giờ và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với tất cả các loại phẫu thuật (p <0,05). Đối với sản phụ khoa loại phẫu thuật chủ yếu là mổ bắt con. Sản phụ khi đến phòng hồi tỉnh hầu hết đạt được Aldrete=9, một số còn lại Aldrete <9 do NB cần được cung cấp oxy sau phẫu thuật. Để người bệnh đạt được đủ điểm số Aldrete ≥9 thì bệnh nhân cần phải có một khoảng thời gian dài để lấy lại được vận động. Đối với phẫu thuật chỉnh hình, đa số bệnh nhân được phẫu thuật khớp gối và khớp háng nên bệnh nhân chủ yếu được gây tê tủy sống. Nên để đạt được điểm số Aldrete ≥9 thì NB cũng cần khoảng thời gian để lấy lại vận động. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa hai loại phẫu thuật này có thể do chúng tôi chưa đề cập đến thời gian phẫu thuật của từng loại phẫu thuật nên có sự khác biệt đáng kể như vậy. Mặc dù, cũng có các người bệnh có nôn ói, đau và lạnh run chiếm tỉ lệ cao nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi thì những yếu tố bất lợi này không ảnh hưởng đến thời gian đạt được Aldrete. Điều này có thể được giải thích do những biến chứng này không quá trầm trọng để ảnh hưởng lên các thông số của thang điểm. Và một hạn chế phải được thừa nhận rằng điểm số Aldrete không có các thông số về buồn nôn, nôn và đau như những hệ thống điểm số khác như PADSS hay White fast track nên những yếu tố này không ảnh hưởng đến sự hồi tỉnh của người bệnh theo thang điểm Aldrete(5). Và tình trạng lạnh run cũng không ảnh hưởng đến thời gian bệnh nhân đạt được điểm số Aldrete. Tuy nhiên, không phải vì thế mà xem nhẹ những biến chứng này và người chăm sóc cần phải có ý thức để người bệnh được theo sát để phát hiện và xử trí kịp thời. Điều này cũng được đề cập đến một nghiên cứu của Karen 2017 về kiến thức của điều dưỡng về những biến chứng sau mổ thì cần có sự nâng cao nhận thức và về tầm quan trọng của việc ngăn ngừa biến chứng hạ thân nhiệt sau phẫu thuật(6). KẾT LUẬN Chúng tôi nhận thấy rằng thời gian trung bình người bệnh đạt điểm số Aldrete ≥9 trong khoảng thời gian nghiên cứu là 2,0 giờ và thời gian trung bình người bệnh được xuất khỏi phòng hồi tỉnh là 3,2 giờ. Thời gian trung bình Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 145 người bệnh được phép xuất khỏi phòng hồi tỉnh dài hơn có ý nghĩa thống kê so với thời gian người bệnh đạt được điểm số Aldrete ≥9 với p <0,001. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian trung bình người bệnh đạt được Aldrete ≥9 là giới tính, điểm số Aldrete lúc nhập phòng hồi tỉnh, loại phẫu thuật và hình thức vô cảm với p <0,05 Việc điều dưỡng sử dụng thang điểm Aldrete để đánh giá và theo dõi người bệnh sẽ giúp thúc đẩy sự tập trung theo dõi trên từng người bệnh. để người bệnh được theo dõi sát hơn và sớm phát hiện các biến chứng có thể xảy ra trên người bệnh để kịp thời xử trí. Và việc điều dưỡng sử dụng một công cụ đánh giá người bệnh dựa trên những tiêu chí có sẵn sẽ giúp điều dưỡng dễ dàng sử dụng và cũng như có tiêu chí thống nhất giữa những người chăm sóc người bệnh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aldrete JA (2007). "Post-anesthetic recovery score". Journal of the American College of Surgeons, 205(5):e3-e4. 2. Apfelbaum JL, Grasela TH, Hug CC, et al (1993). "The initial clinical experience of 1819 physicians in maintaining anesthesia with propofol: characteristics associated with prolonged time to awakening". Anesth Analg, 77(S4):S10-4. 3. Banerjee S, Kohli P, Pandey M (2018). "A study of modified Aldrete score and fast-track criteria for assessing recovery from general anaesthesia after laparoscopic surgery in Indian adults". Perioperative Care and Operating Room Management, 12:39-44. 4. Buchanan FF, Myles PS, Leslie K, et al (2006). "Gender and recovery after general anesthesia combined with neuromuscular blocking drugs". Anesthesia & Analgesia, 102(1):291-297. 5. Ead H (2006). "From Aldrete to PADSS: Reviewing discharge criteria after ambulatory surgery". Journal of Perianesthesia Nursing, 21(4):259-267. 6. Giuliano KK, Hendricks J (2017). "Inadvertent perioperative hypothermia: Current nursing knowledge". AORN Journal, 105(5):453-463. 7. Nguyễn Văn Chinh (2015). "Theo dõi và chăm sóc trong phòng hồi tỉnh", Gây mê hồi sức lý thuyết và lâm sang. Nhà xuất bản y học. 8. Singh Y, Singh AP, Jain G, et al (2015). "Comparative evaluation of cost effectiveness and recovery profile between propofol and sevoflurane in laparoscopic cholecystectomy". Anesthesia, Essays and Researches, 9(2):155. 9. Vaghadia H, Cheung K, Henderson C, et al (2003). "A quantification of discharge readiness after outpatient anaesthesia: patients’ vs nurses’ assesment". Southern African Journal of Anaesthesia and Analgesia, 9(4):5-9. 10. White PF, Alejandro RF (2005). "Ambulatory (outpatient) anesthesia". Churchill Livingstone Elsevier. Ngày nhận bài báo: 30/07/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfsu_dung_thang_diem_aldrete_de_danh_gia_nguoi_benh_tai_phong.pdf
Tài liệu liên quan