Tài liệu Sử dụng tảo lục trong đánh giá chất lượng môi trường nước hồ trị an - Trần Thị Hoàng Yến: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 65 (5/2019) No. 65 (5/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
3
SỬ DỤNG TẢO LỤC TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
MÔI TRƯỜNG NƯỚC HỒ TRỊ AN
Algal Community Used For Assessment Of Water Quality Of
Tri An Reservoir
Trần Thị Hoàng Yến(1), Nguyễn Thị Hoàng Oanh(2),
ThS. Dương Thị Giáng Hương(3), TS. Phạm Thanh Lưu(4)
(1),(4)Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(2)Trường Đại học Tôn Đức Thắng
(3)Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Nghiên cứu này khảo sát sự đa dạng của khu hệ tảo lục làm cơ sở đánh giá hiện trạng chất lượng môi
trường nước ở hồ Trị An với mẫu được thu tại 6 vị trí từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 2 năm 2017. Kết
quả cho thấy: khu hệ tảo lục ở hồ Trị An khá phong phú với 98 loài thuộc 4 lớp, 6 bộ, 16 họ, 31 chi,
trong đó hai chi Staurastrum và Scenedesmus chiếm ưu thế về số loài; mật độ tảo lục...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng tảo lục trong đánh giá chất lượng môi trường nước hồ trị an - Trần Thị Hoàng Yến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 65 (5/2019) No. 65 (5/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
3
SỬ DỤNG TẢO LỤC TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
MÔI TRƯỜNG NƯỚC HỒ TRỊ AN
Algal Community Used For Assessment Of Water Quality Of
Tri An Reservoir
Trần Thị Hoàng Yến(1), Nguyễn Thị Hoàng Oanh(2),
ThS. Dương Thị Giáng Hương(3), TS. Phạm Thanh Lưu(4)
(1),(4)Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
(2)Trường Đại học Tôn Đức Thắng
(3)Trường Đại học Sài Gòn
Tóm tắt
Nghiên cứu này khảo sát sự đa dạng của khu hệ tảo lục làm cơ sở đánh giá hiện trạng chất lượng môi
trường nước ở hồ Trị An với mẫu được thu tại 6 vị trí từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 2 năm 2017. Kết
quả cho thấy: khu hệ tảo lục ở hồ Trị An khá phong phú với 98 loài thuộc 4 lớp, 6 bộ, 16 họ, 31 chi,
trong đó hai chi Staurastrum và Scenedesmus chiếm ưu thế về số loài; mật độ tảo lục tại các điểm khảo
sát ở hồ Trị An dao động từ 3 × 105 – 13 × 106 (tế bào/L); cấu trúc quần xã tảo lục có sự khác biệt rõ rệt
giữa các điểm khảo sát cũng như giữa các đợt khảo sát. Chỉ số H’ và chỉ số Palmer cho thấy chất lượng
nước hồ Trị An đang bị ô nhiễm.
Từ khóa: chất lượng môi trường, chỉ số đa dạng Shannon–Wiener (H’),Chỉ số ô nhiễm Palmer, Hồ Trị
An, tảo lục
Abstract
This study aimed to describe the spatial and temporal variation of green algae community structure in
the Tri An Reservoir. Samples were collected monthly at 6 sites from March, 2016 to February, 2017. A
total of 98 species classified into 31 genera, 16 families, 6 orders, 4 classes were recorded with a clear
dominance of Staurastrum and Scenedesmus. Cell density varied from 3 × 105 to 13 × 106 (cell/L). The
green algae communities structure varied significantly between sites and seasons. Shannon–Wiener
diversity index (H') indicated that water quality were slightly polluted.
Keywords: green algae, Shannon–Wiener (H’) index, Palmer index, Tri An Reservoir, water quality
1. Giới thiệu
Tảo lục (Chlorophyta) là một ngành
lớn trong vi tảo. Ở các thuỷ vực nước ngọt
tảo lục chiếm ưu thế về thành phần loài
cũng như về số lượng cá thể và giữ vai trò
quan trọng trong hệ sinh thái [1]. Tảo lục
còn được xem là “lá phổi xanh” của các
thuỷ vực, chúng có vai trò như thực vật
bậc cao ở các hệ sinh thái trên cạn. Tảo lục
làm giảm đáng kể lượng CO2 trong nước,
phục hồi lượng oxi hoà tan (DO), đồng
thời giúp điều tiết lượng oxi hoá hoá học
Email: thanhluupham@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019)
4
(COD) thông qua quá trình quang hợp.
Ngoài ra, tảo lục nhạy cảm với các thay
đổi của điều kiện môi trường nên là sinh
vật chỉ thị cho mức dinh dưỡng của thủy
vực [2]. Các nghiên cứu về thực vật phù
du nói chung và tảo lục nói riêng đã được
nhiều nhà khoa học trong nước quan tâm
từ lâu. Trong những năm gần đây, việc
nghiên cứu về cấu trúc, thành phần loài
cũng như việc sử dụng tảo lục để làm sinh
vật chỉ thị đánh giá chất lượng môi trường
trong các hồ nước ngọt ở Việt Nam đã được
được quan tâm rộng rãi. Tổng hợp các đặc
điểm cơ bản về hình thái phân loại cũng như
phân bố các loài tảo lục ở Việt Nam, Dương
Đức Tiến và Võ Hành (1997) trong cuốn
“Tảo nước ngọt Việt Nam, phân loại tảo
Lục (Chlorococcales)” đã mô tả chi tiết đặc
điểm phân loại hơn 800 loài và dưới loài tảo
lục ở Việt Nam [1]. Nguyễn Đinh San
(2001) đã phân tích thành phần vi tảo trong
một số thủy vực ô nhiễm, đã phát hiện ở
Thanh Hóa có 46 loài/dưới loài, 26 chi, 17
họ, 9 bộ thuộc 5 ngành tảo, ở Nghệ An có
173 loài/dưới loài thuộc 57 chi, 30 họ, 11 bộ
thuộc 5 ngành tảo, và ở Hà Tĩnh có 66
loài/dưới loài thuộc 36 chi, 20 họ, 9 bộ
thuộc 5 ngành tảo với ngành tảo lục chiếm
ưu thế về số lượng loài (35 loài) một số loài
có khả năng chống chịu ô nhiễm gặp ở tần
suất tương đối lớn thuộc các chi như
Ankistrodesmus, Scenedesmus, Cholorella.
Với nghiên cứu này tác giả cũng cho rằng
các dạng nước thải, mức độ nhiễm bẩn, loại
hình thủy vực ảnh hưởng rõ rệt đến thành
phần loài số lượng của vi tảo trong đó [3].
Hồ Trị An là một hồ nước nhân tạo
nằm trên sông Đồng Nai, thuộc huyện Vĩnh
Cửu, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam. Hồ Trị An
có chức năng chính là cung cấp nước cho
nhà máy phát điện và tưới nước theo yêu
cầu nông nghiệp, ngoài ra còn tham gia đẩy
mặn ở hạ lưu, cấp nước cho dân sinh và
công nghiệp, kết hợp nuôi trồng thủy sản
trong vùng hồ [4]. Tuy nhiên, việc khai thác
sử dụng hồ Trị An chưa hợp lý cùng với sự
tích tụ các chất ô nhiễm từ hoạt động nông
nghiệp và công nghiệp đã làm phú dưỡng
hoá môi trường nước ở thủy vực này.
Vì vậy, nghiên cứu này nhằm xác
định độ đa dạng sinh học tảo lục, tính chất
môi trường nước hồ Trị An góp phần làm
cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo
vệ môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học
của thủy vực.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu mẫu tảo lục
ngoài hiện trường
Mẫu được thu tại 6 vị trí ký hiệu TA1–
TA6 ở hồ Trị An (Hình 1). Điểm TA1 đại
diện cho khu vực hồ phụ, điểm TA2, TA3
và TA4 đại diện cho khu vực hồ chính.
Điểm TA5 đại diện cho khu vực La Ngà
nơi có sông La Ngà chảy vào hồ và khu
vực có nhiều bè cá, điểm TA6 đại diện cho
khu vực nuôi các bè tập trung ở Mã Đà.
Thời gian thu mẫu từ tháng 3 năm 2016
đến tháng 2 năm 2017.
Mẫu định tính được thu bằng lưới
phiêu sinh hình nón có kích thước mắt lưới
20 μm theo cách kéo lưới trên bề mặt nước,
sau đó cho vào lọ 150 mL và cố định bằng
dung dịch formaldehyde tại hiện trường.
Mẫu định lượng được thu trong can nhựa
2-L theo phương pháp của Chorus và
Bartram (1999) [5].
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
Hình 1: Bản đồ hồ Trị An và các điểm lấy mẫu
2.2. Phương pháp phân tích mẫu tảo
lục trong phòng thí nghiệm
Các loài tảo lục được định danh bằng
phương pháp so sánh hình thái để phân
loại, xác định thành phần loài sử dụng kính
hiển vi quang học Olympus BX51 ở độ
phóng đại ×100–400 và được định danh
dựa trên các tài liệu phân loại học đã công
bố [1], [6], [7]. Tảo sau phân loại được sắp
xếp theo hệ thống của AlgaeBase [8]. Mẫu
định lượng được để lắng 48 giờ trong
phòng thí nghiệm, sau đó loại bỏ phần
nước trong bên trên và thể tích mẫu được
làm đông đặc còn lại 10–15 ml. Mật độ tế
bào trong mẫu được xác định bằng buồng
đếm Sedgewick Rafter; ít nhất 500 tế bào
tảo lục được đếm cho mỗi mẫu. Sinh khối
tế bào tảo lục được tính dựa theo nghiên
cứu của Sun và Liu (2003) [9] bằng cách
mô phỏng hình học hình dạng tế bào, sau
đó được quy đổi thành trọng lượng tươi
theo tỉ lệ 1mg/mm3.
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Cấu trúc thành phần loài, mật độ, sinh
khối tế bào và chỉ số sinh học của quần xã
tảo lục được nhập liệu bằng phần mềm
Microsoft excel 2010.
Cấu trúc quần xã tảo lục và chất lượng
nước được phân tích đánh giá thông qua
chỉ số đa dạng Shannon–Weiner (H’), chỉ
số ô nhiễm Palmer.
Chỉ số Palmer (1969) còn gọi là chỉ số
ô nhiễm chi hoặc loài tảo, được tính dựa
trên khả năng chịu đựng của tảo trong điều
kiện ô nhiễm hữu cơ theo điểm số. Sử dụng
bảng chỉ số ô nhiễm của các chi tảo; sau
khi xác nhận sự có mặt của các chi nêu trên
ở mẫu thì lấy tổng cộng điểm số [10].
Bảng 1: Mối quan hệ giữa chỉ số Palmer và chất lượng nước
Chỉ số Palmer Mức độ ô nhiễm hữu cơ
≥ 20 Ô nhiễm cao
15–19 Ô nhiễm trung bình
< 15 Ô nhiễm nhẹ
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019)
6
Phương pháp phân tích phương sai
một yếu tố (One-way Anova) và phân tích
hậu kiểm sau Anova Tukey test (Tukey's
honestly significant difference) để tìm sự
khác biệt giữa các đợt khảo sát và các vị trí
thu mẫu nhờ sử dụng phần mềm SPSS.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Cấu trúc thành phần loài tảo lục
ở hồ Trị An
Kết quả phân tích thành phần loài
tảo lục ở hồ Trị An tại 6 vị trí khảo sát
đã phát hiện được 98 loài thuộc 4 lớp, 6 bộ,
16 họ, 32 chi. Trong đó, lớp
Chlorophyceae và lớp Conjugatophyceae
là hai lớp chiếm ưu thế về số loài phát hiện
được. Lớp Chlorophyceae đã phát hiện
được 44 loài chiếm 44,9% và lớp
Conjugatophyceae phát hiện được 33 loài
chiếm 33,67% . Trong số 32 chi phát hiện
được ở hồ Trị An, hai chi Scenedesmus và
Staurastrum chiếm ưu thế về số lượng loài,
chi Scenedesmus phát hiện được 12 loài
chiếm 11,9% và chi Staurastrum có 21 loài
chiếm 21,4% (Hình 2). Số loài giữa hai
mùa không có sự khác biệt lớn. Mùa khô
(tháng 3–4 năm 2016 và tháng 1–2 năm
2017) phát hiện được 93 loài thuộc 3 lớp, 5
bộ, 15 họ, 31 chi. Mùa mưa (từ tháng 5–10
năm 2016) phát hiện được 93 loài thuộc 4
lớp, 6 bộ, 16 họ, 30 chi.
Hình 2: Một số loài thuộc chi Scenedesmus (A,B) và Staurastrum (C, D)
được phát hiện ở hồ Trị An
Thành phần loài tảo lục ở hồ Trị An đa
dạng hơn so với nghiên cứu ở các thủy vực
khác trong nước. Kết quả nghiên cứu thành
phần loài tảo lục ở hồ Nhà Đường (Hà
Tĩnh) chỉ ghi nhận 51 loài/dưới loài tảo lục
thuộc 3 bộ, 8 họ, 20 chi trong đó các loài
ưu thế là: Kirchneriella lunaris,
Cosmarium contractum, Coenocystis
planctonica [11]; nghiên cứu ở hồ Xuân
Dương, tỉnh Nghệ An chỉ ghi nhận 52 loài/
dưới loài thuộc 16 chi, 8 họ, 2 bộ, 2 lớp với
các chi chiếm ưu thế là Pediastrum,
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
Cosmarium, Staurastrum [12].
2.2. Mật độ và sinh khối tảo lục ở hồ
Trị An
Mật độ tảo lục ở hồ Trị An tại các điểm
khảo sát được trình bày ở hình 3. Mật độ tảo
lục dao động từ 3 × 105 – 17 × 105 tế bào/L
vào mùa khô, nhưng trong mùa mưa lại tăng
cao dao động từ 17 × 105 13 × 106 tế
bào/L (Hình 3). Mật độ thấp nhất và cao
nhất lần lượt là TA5 và TA1 ở cả hai mùa.
Điểm TA5 nằm ở đầu hồ, gần dòng chảy
vào của sông, nơi có dòng chạy mạnh, tảo
lục sẽ bị cuốn trôi theo dòng chảy, và điểm
TA1 là nơi cuối hồ, diện tích và độ sâu khu
vực này nhỏ nên lượng tảo lục từ các khu
vực thượng nguồn sẽ tập trung vào đây.
Sinh khối tảo lục ở hồ Trị An vào mùa
khô có giá trị từ 5,06 mg/L (điểm TA2) đến
12,07 mg/L (điểm TA1) và vào mùa mưa
dao động từ 52,61–130,78 mg/L (sinh khối
cao nhất tại điểm TA6 và thấp nhất tại
điểm TA5 (Hình 3).
Vào mùa khô, các loài tảo lục như
Sphaerocystis schroeteri, Cosmarium
contractum chiếm ưu thế góp phần làm gia
tăng mật độ tế bào và sinh khối tảo lục. Trong
khi đó các loài Cosmarium contractum,
Dictyosphaerium pulchellum, Pediastrum
dupex, Staurastrum cf. clevei chiếm ưu thế ở
hầu hết các điểm khảo sát vào mùa mưa.
Hình 3. Mật độ và sinh khối tảo lục ở hồ Trị
2.3. Chỉ số sinh học của quần xã tảo
lục ở hồ Trị An
Chỉ số Shannon–Weiner (H’) ở các
điểm khảo sát hồ Trị An được trình bày ở
hình 4. Chỉ số H’ phản ánh độ đa dạng của
quần xã. Khi giá trị H’cao cho thấy quần
xã có độ đa dạng cao và ngược lại. Trong 6
tháng mùa khô chỉ số H’ dao động từ 2,67–
3,34 và 6 tháng mùa mưa chỉ số này dao
động từ 2,44–3,09. Không có sự khác biệt
thống kê giữa các giá trị H’ giữa hai mùa
(ANOVA, p>0,05).
Ngoài ra, giá trị H’ càng cao còn cho
thấy môi trường càng ít ô nhiễm. Dựa vào
thang tính điểm của Molvaer và cs (1997)
[13] kết quả phân tích mẫu cho thấy tính
chất môi trường của hầu hết các điểm
khảo sát vào mùa khô đều nằm trong hạn
mức chất lượng nước sạch ngoại trừ điểm
TA1 và TA6 bị ô nhiễm nhẹ. Ngược lại
với mùa khô, vào mùa mưa hầu hết các
điểm khảo sát đều bị ô nhiễm nhẹ, chỉ có
2 điểm TA1 và TA4 còn nằm trong hạn
mức chất lượng nước sạch.
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 65 (5/2019)
8
Hình 4. Chỉ số đa dạng loài tảo lục (H’)
Chỉ số Palmer (1969) được xây dựng
dựa trên sự có mặt của chi hoặc loài tảo
có khả năng chịu đựng được sự ô nhiễm
hữu cơ trong các thủy vực. Các chi tảo lục
trong khu vực nghiên cứu được sử dụng để
tính chỉ số Palmer bao gồm
Ankistrodesmus, Closterium, Micractinium,
Pandorina và Scenedesmus. Giá trị chỉ số
Palmer và mức độ ô nhiễm tương ứng ở
các địa điểm thu mẫu được thể hiện ở bảng
2.
Bảng 2: Giá trị chỉ số Palmer và trạng thái ô nhiễm tương ứng
Địa điểm
thu mẫu
6 tháng mùa
mưa
6 tháng
mùa khô
Mức độ ô nhiễm hữu cơ
6 tháng mùa mưa 6 tháng mùa khô
TA1 7,0 3,4 Ít ô nhiễm hữu cơ Ít ô nhiễm hữu cơ
TA2 6,8 3,3 Ít ô nhiễm hữu cơ Ít ô nhiễm hữu cơ
TA3 5,3 3,8 Ít ô nhiễm hữu cơ Ít ô nhiễm hữu cơ
TA4 12,4 3,2 Ít ô nhiễm hữu cơ Ít ô nhiễm hữu cơ
TA5 19,2 18,7
Ô nhiễm hữu cơ mức
trung bình
Ô nhiễm hữu cơ mức
trung bình
TA6 18,9 15,5
Ô nhiễm hữu cơ mức
trung bình
Ô nhiễm hữu cơ mức
trung bình
Hai chỉ số trên cho thấy, chất lượng môi
trường nước hồ Trị An đang có xu hướng bị
ô nhiễm, nhất là vào mùa mưa. Đặc biệt,
điểm TA5 và TA6 ở cả hai mùa đang có dấu
hiệu bị ô nhiễm hữu cơ. Đây là đại diện cho
khu vực nuôi các bè tập trung nên có thể bị ô
nhiễm bởi các chất thải hữu cơ.
3. Kết luận
Kết quả phân tích thành phần loài tảo
lục ở hồ Trị An tại 6 vị trí khảo sát cho thấy
thành phần loài khá đa dạng, trong đó chi
Scenedesmus và Staurastrum chiếm ưu thế
về số lượng loài. Về mật độ tảo lục giữa
mùa mưa và mùa khô có sự chênh lệch nhau
khá lớn. Mật độ tảo lục ở hồ Trị An tại các
điểm khảo sát 6 tháng mùa mưa cao hơn 6
tháng mùa khô. Chỉ số đa dạng H’ và chỉ số
ô nhiễm Palmer cho thấy thủy vực hồ Trị
An đang có xu hướng ô nhiễm, nhất là tại
các điểm có khu vực nuôi các bè tập trung.
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN và Cộng sự TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
9
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài
trợ bởi Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam (VAST) trong đề tài mã số
“KHCBSS.02/19-21”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dương Đức Tiến và Võ Hành, Tảo nước ngọt Việt Nam, phân loại bộ tảo lục
(chlorococcales), Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội, 1997.
[2] C.S. Reynold, Phytoplankton. Ecology of Phytoplankton, Cambridge University Pres,
Cambridge, UK, 3–36, 2006.
[3] Nguyễn Đinh San, “Vi tảo một số thủy vực bị ô nhiễm ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh và vai trò của chúng trong việc làm sạch nước thải”, Tiến sĩ Sinh học,
chuyên ngành Thực vật học, Trường Đại học Sư phạm Vinh, 2001.
[4] Nguyễn Văn Hoàng và cs, “Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của hồ Trị An đến động
thái mực nước dưới đất khu vực hạ lưu”, Tạp chí khoa học về Trái Đất, 34, 465–476,
2012.
[5] Chorus and J. Bartram, “Toxic cyanobacteria in water: A guide to their public health
consequences, monitoring and management, Published on behalf of WHO”, Spon
Press, London, 416 pp, 1999.
[6] Nguyễn Văn Tuyên, Đa dạng sinh học tảo trong thủy vực nội địa Việt Nam triển
vọng và thách thức, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2003.
[7] Shirota, The plankton of South Vietnam. Fresh water and marine plankton, Overseas
Technical Cooperation Agency Japan, 1968.
[8] M. D. Guiry and G. M .Guiry, AlgaeBase, World-wide electronic publication,
National University of Ireland, Galway, 2014,
[9] J. Sun and D. Liu, “Geometric models for calculating cell biovolume and surface
area for phytoplankton”, Journal of plankton research, 25(11), 1331–1346, 2003.
[10] G. Palmer, “A composite rating of algae tolerating organic pollution”, Journal of
Phycology, 5, 78–82, 1969.
[11] Nguyễn Thị Kì, “Điều tra thành phần loài tảo lục (chlorophyta) và chất lượng nước ở
hồ Nhà Đường xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tỉnh”, Thạc sĩ Sinh học,
chuyên ngành Thực vật học, Trường Đại học Vinh, 2014.
[12] Nguyễn Thị Xuân, “Chất lượng nước và đa dạng thành phần tảo lục (Chlorophyta) ở
hồ Xuân Dương, xã Diễn Phú, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An”, Thạc sĩ Sinh học,
chuyên ngành Thực vật học, Trường Đại học Vinh, 2013.
[13] J.Molvaer, J. Knutzen, J. Magnusson, B. Rygg, J. Skei, and P. Sorensen,
“Classification of Environmental Quality in Fjords and Coastal Waters”, SFT
guidelines, Oslo, 36, 03–97, 1997.
Ngày nhận bài: 29/4/2019 Biên tập xong: 15/5/2019 Duyệt đăng: 20/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25_7579_2214930.pdf