Tài liệu Sử dụng rượu bia đến mức nguy hại và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đang điều trị methadone tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 80
SỬ DỤNG RƯỢU BIA ĐẾN MỨC NGUY HẠI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ METHADONE
TẠI QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thương*, Lê Nữ Thanh Uyên*
TÓM TẮT
Mở đầu: Sử dụng rượu bia đến mức nguy hại trên bệnh nhân đang điều trị Methadone (MMT) có thể
dẫn đến các biến chứng nguy hiểm bao gồm các vấn đề hô hấp, huyết áp thấp, nhịp tim yếu, hôn mê, làm
tăng nguy cơ quá liều Methadone, không tuân thủ điều trị, tái sử dụng ma túy, từ đó ảnh hưởng đến quá
trình điều trị Methadone.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân MMT.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 151 bệnh nhân
MMT tại Khoa tham vấn và hỗ trợ cộng đồng Quận 8. Tất cả các đối tượng đủ điều kiện tham gia nghiên cứu
được chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống và phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏ...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng rượu bia đến mức nguy hại và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đang điều trị methadone tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 80
SỬ DỤNG RƯỢU BIA ĐẾN MỨC NGUY HẠI VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN ĐANG ĐIỀU TRỊ METHADONE
TẠI QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thương*, Lê Nữ Thanh Uyên*
TÓM TẮT
Mở đầu: Sử dụng rượu bia đến mức nguy hại trên bệnh nhân đang điều trị Methadone (MMT) có thể
dẫn đến các biến chứng nguy hiểm bao gồm các vấn đề hô hấp, huyết áp thấp, nhịp tim yếu, hôn mê, làm
tăng nguy cơ quá liều Methadone, không tuân thủ điều trị, tái sử dụng ma túy, từ đó ảnh hưởng đến quá
trình điều trị Methadone.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân MMT.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 151 bệnh nhân
MMT tại Khoa tham vấn và hỗ trợ cộng đồng Quận 8. Tất cả các đối tượng đủ điều kiện tham gia nghiên cứu
được chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống và phỏng vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi có cấu trúc. Sử dụng rượu
bia đến mức nguy hại được đánh giá qua thang đo AUDIT của Tổ Chức Y Tế Thế Giới và điểm ≥ 8 được dùng để
xác định có sử dụng rượu bia đến mức nguy hại.
Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại ở bệnh nhân MMT là
19,9%. Đa số là nam giới (90,1%), tuổi từ 31-39 tuổi (55,6%). Sử dụng rượu bia đến mức nguy hại có liên quan
đến trình độ học vấn thấp (p=0,022), sử dụng ma túy (0,005) đặc biệt chất dạng thuốc phiện (p<0,001), dùng
chung bơm kim tiêm (p=0,007), không sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục (p=0,007).
Kết luận: Tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại ở bệnh nhân MMT là 19,9%. Những bệnh nhân có
trình độ học vấn thấp, sử dụng ma túy, dùng chung bơm kim tiêm, không sử dụng bao cao su khi quan hệ tình
dục cần được tham vấn trước và sau điều trị.
Từ khóa: sử dụng rượu bia đến mức nguy hại, Methadone, AUDIT
ABSTRACT
HAZARDOUS USE OF ALCOHOL AMONG METHADONE MAINTENANCE TREATMENT
PATIENTS IN DISTRICT 8, HO CHI MINH CITY
Nguyen Thi Thuong, Le Nu Thanh Uyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 80-85
Background: Hazardous use of alcohol (HUA) might lead to serious complications including respiratory
problems, low blood pressure, weak heartbeat, coma, increased risk of Methadone overdose, non-adherence, illicit
drug users, and affected the effectiveness of treatment.
Objectives: To identify the proportion of HUA and associated factors in patients on Methadone
maintenance treatment.
Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted in 151 MMT patients at the District 8
community counseling and supportive faculty. The systematic random sampling technique was applied to select
all eligible subjects for the study and data were collected by face to face interviews through structured
questionnaire. HUA was measured by using the Alcohol Use Disorders Identification Test – AUDIT from the
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thương ĐT: 0979964015 Email:thuongnguyenyds@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 81
World Health Organization based on a cut-off of ≥ 8 determining HUA.
Results: The result showed that the proportion of HUA was 19.9%. The majority of patients were male
(90.1%), the ages were between 31-39 years (55.6%). The prevalence of HUA was associated with low
educational level (p = 0.022), illicit drug users (p = 0.005), especially in the opiate users (p <0.001), the sharing
needle group (p = 0.007), no-use condom during sexual intercourse (p = 0.007).
Conclusion: The prevalence of HUA in drug users receiving methadone maintenance treatment was
19.9%. Patients with low educational level, illicit drug users, opiate users, the sharing needle group, no-use
condom during sexual intercourse should be counseled before and after treatment.
Keywords: alcohol use, Methadone, AUDIT
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiện ma túy là một vấn đề sức khỏe
cộng đồng nổi cộm, là mối bận tâm của
nhiều nước trên thế giới(6). Tuy nhiên, hiệu
quả của điều trị bị tác động bởi nhiều yếu
tố, một trong yếu tố đó là sử dụng chất kích
thích như rượu bia. Rượu bia đã được
chứng minh có liên quan chặt chẽ với sự gia
tăng nguy cơ quá liều Methadone(12), tái sử
dụng ma túy, tăng nguy cơ bỏ trị(9), tăng các
hành vi nguy cơ và suy giảm tình trạng sức
khỏe(11).
Các nghiên cứu đã báo cáo có khoảng
20 - 50% bệnh nhân đang điều trị Methadone
(MMT) có liên quan đến các vấn đề về
rượu bia. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy
sử dụng rượu bia đến mức nguy hại có
liên quan với các đặc tính của đối tượng
như nam giới, nhỏ tuổi, trình độ học vấn
thấp, thất nghiệp, thời gian điều trị ngắn,
nhiều bạn tình, tái sử dụng ma túy đá,
thuốc an thần(2,9,11). Quận 8 là một trong
những nơi có tình hình ma túy phức tạp,
là một trong năm cơ sở đầu tiên được triển
khai thí điểm dự án điều trị thay thế
nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng
thuốc Methadone. Việc sử dụng rượu bia
ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe cũng
như quá trình điều trị bệnh nhân vì vậy
việc sàng lọc và xác định những bệnh
nhân có nguy cơ sử dụng rượu đến mức
nguy hại là rất quan trọng. Mục đích của
nghiên cứu chúng tôi là xác định tỷ lệ sử
dụng rượu bia đến mức nguy hại và các
yếu tố liên quan. Chúng tôi hy vọng các
phát hiện trong nghiên cứu có thể cung
cấp thông tin cần thiết cho phòng khám và
các nhà quản lý để hiểu hơn về các yếu tố
nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sử dụng
rượu bia đến mức nguy hại ở bệnh nhân
MMT tại Việt Nam, từ đó có các chương
trình sàng lọc và can thiệp kịp thời.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành
trên 151 bênh nhân đang điều trị nghiện các
chất dạng thuốc phiện thay thế bằng
Methadone tại phòng khám Methadone
quận 8 trong khoảng thời gian từ tháng 4
đến tháng 5 năm 2018 bằng phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Tiêu chí
chọn vào là những bệnh nhân đang điều trị
duy trì tại phòng khám và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu
Bệnh nhân sẽ được phỏng vấn trực tiếp
mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi được soạn sẵn
có cấu trúc và tra cứu hồ sơ bệnh án sau khi
được giải thích rõ ràng mục đích của nghiên
cứu, tính bảo mật thông tin cũng như quyền
lợi khi tham gia nghiên cứu.
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi soạn sẵn bao gồm các thông
tin về đặc điểm dân số xã hội như tuổi, giới,
dân tộc, việc làm, học vấn, hôn nhân, tình
trạng sống chung, tình trạng kinh tế, tình
trạng sử dụng ma túy như thời gian sử
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 82
dụng ma túy, tiền sử sử dụng ma túy, sử
dụng ma túy hiện tại. Một số thông tin được
hồi cứu từ hồ sơ bệnh án với sự đồng ý của bệnh
nhân như năm sử dụng ma túy, thời gian
điều trị Methadone, liều Methadone, bỏ liều
Methadone và bệnh kèm theo. Để đánh giá
việc sử dụng rượu bia đến mức nguy hại chúng
tôi sử dụng thang đo AUDIT (Alcohol Use
Disorder Identification Test) của Tổ chức Y
tế thế giới đã được chứng minh độ tin cậy
và sử dụng nhiều nước trên thế giới với
điểm dao động từ từ 0 – 40 với điểm ≥ 8
được xác định là sử dụng rượu bia đến mức
nguy hại(8,10,11).
Phân tích số liệu
Nhập liệu và làm sạch số liệu bằng phần
mềm Epidata 3.1, xử lý số liệu bằng phần
mềm Stata 13. Thống kê mô tả: sử dụng tần
số và tỷ lệ phần trăm để mô tả cho các biến
số định tính; trung bình, độ lệch chuẩn để
mô tả cho các biến số định lượng có phân
phối chuẩn và trung vị, khoảng tứ phân vị
để mô tả các biến định lượng có phân phối
lệch. Thống kê phân tích: kiểm định Chi
bình phương hoặc Fisher (khi có ≥ 20% giá
trị vọng trị nhỏ hơn 5 hoặc có ít nhất 1 giá trị
vọng trị nhỏ hơn 1) với ngưỡng ý nghĩa khi
p<0,05. Mức độ liên quan được đo bằng tỉ số
tỷ lệ hiện mắc (PR) và khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả khảo sát 151 bệnh nhân đang điều
trị duy trì Methadone tại phòng khám quận 8
như sau:
Bảng 1: Đặc điểm dân số xã hội của bệnh nhân MMT, phân theo tình trạng sử dụng rượu bia đến mức
nguy hại (n=151).
Đặc điểm Chung (N=151)
n (%)
WHO-AUDIT ≥ 8 PR
(KTC 95%) Có (N=30, 19,9%) n (%) Không (N=121, 80,1%) n (%)
Giới
Nam 136 (90,1) 30 (22,1) 121 (77,9) Không xác định
Nữ 15 (9,9) 0 (0) 15 (100)
Tuổi
18-30 33 (21,9) 9 (27,3) 24 (73,7) 1
31-39 84 (55,6) 12 (14,3) 72 (85,7) 0,52 (0,22 - 1,24)
≥40 34 (22,5) 9 (26,5) 25 (73,5) 0,97 (0,39 - 2,45)
Trình độ học vấn
≤ Trung học cơ sở 111 (73,5) 27 (24,3) 84 (75,5) 3,24* (1,04 – 10,1)
> Trung học phổ thông 69 (17,3) 3 (7,5) 37 (92,5) 1
Tình trạng hôn nhân
Độc thân 59 (39,0) 11 (18,6) 48 (81,4) 1
Kết hôn/Sống chung 15 (20,8) 57 (79,2) 190 (86,8) 1,12 (0,51 - 2,43)
Ly dị/Ly thân/Góa 20 (13,3) 4 (20,0) 16 (80,0) 1,07 (0,3 4 - 3,37)
Tình trạng sống chung
Sống một mình 6 (4,0) 2 (33,3) 4 (66,7) 1,72 (0,53 - 5,61)
Không sống một mình 145 (96,0) 28 (19,3) 117 (80,7) 1
Tình trạng việc làm
Không 14 (9,3) 2 (14,3) 12 (85,7) 0,7 (0,1 - 2,63)
Có 137 (90,7) 28 (20,4) 109 (79,6) 1
Tình trạng kinh tế
Đủ sống/Khá giả 122 (80,8) 27 (22,1) 95 (77,9) 2,14 (0,7 - 6,57)
Khó khăn/Rất khó khăn 29 (19,2) 3 (10,3) 26 (89,7) 1
p=*<0,05
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy: đa số các đối
tượng là nam giới (90,1%), nhóm tuổi từ 31-
39 tuổi (55,6%), học vấn từ Trung học Cơ sở
(THCS) trở xuống (73,5%), độc thân (39%),
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 83
không sống một mình (96%), có việc làm
(90,7%), tình trạng kinh tế ở mức đủ
sống/khá giả (80,8%). Tỷ lệ sử dụng rượu
bia đến mức nguy hại theo thang đo AUDIT
là 19,9%. Những đối tượng có học vấn từ
THCS trở xuống có tỷ lệ sử rượu bia đến
mức nguy hại gấp 3,24 lần những đối tượng
có học vấn cao. Các yếu tố như giới tính,
nhóm tuổi, tình trạng việc làm, tình trạng
hôn nhân, tình trạng sống chung, tình trạng
kinh tế không liên quan đến sử dụng rượu
bia đến mức nguy hại.
Kết quả từ Bảng 2 tìm thấy có mối liên
quan giữa sử dụng rượu bia đến mức nguy
hại và hiện còn sử dụng ma túy, chất dạng
thuốc phiện, cụ thể những người hiện còn
sử dụng ma túy có tỷ lệ sử dụng rượu bia
đến mức nguy hại gấp 3,23 lần những
người không sử dụng. Đặc biệt những bệnh
nhân có sử dụng các CDTP tháng qua có tỷ
lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại gấp
4,29 lần những người không sử dụng.
Ngoài ra, sử dụng rượu bia đến mức nguy
hại không có liên quan nhóm tuổi bắt đầu
sử dụng ma túy, thời gian nghiện ma túy và
hiện còn sử dụng các loại ma túy khác như
ma túy tổng hợp, cần sa, thuốc an thần.
Bảng 2: Đặc điểm sử dụng ma túy, phân theo tình trạng sử dụng rượu bia đến mức nguy hại (n=151)
Đặc điểm Chung (N=151)
n (%)
WHO-AUDIT ≥ 8 P
(KTC 95%) Có (N=30, 19,9%) n (%) Không (N=121, 80,1%)
n (%)
Nhóm tuổi bắt đầu sử dụng ma túy
< 25 tuổi 128 (84,8) 4 (17,4) 19 (82,6) 0,86 (0,33 - 2,22)
≥ 25 tuổi 23 (15,2) 26 (20,3) 102 (79,7) 1
Thời gian nghiện 13 (9 – 15) 12,5 (8 - 16) 13 (9 - 15) 0,99 (0,93 - 1,05)
Hiện còn sử dụng ma túy
Có 13 (8,6) 7 (53,9) 6 (46,1) 3,23*** (1,73 – 6,04)
Không 138 (91,4) 23 (16,7) 115 (83,3) 1
Chất dạng thuốc phiện trong tháng qua (CDTP)
Có 10 (6,6) 7 (70,0) 3 (30,0) 4,29*** (2,47 - 7,45)
Không 141 (93,4) 23 (16,3) 118 (83,7) 1
Ma túy tổng hợp trong tháng qua
Có 4 (2,7) 52 (13,1) 344 (86,9) 1,27 (0,23 - 7,14)
Không 147 (97,3) 1 (25,0) 3 (75,0) 1
p= ***<0,005
Bảng 3: Đặc điểm về quá trình điều trị Methadone, phân theo tình trạng sử dụng rượu bia đến mức nguy hại
(n=151)
Đặc điểm Chung (N=151)
n (%)
WHO-AUDIT ≥ 8 PR
(KTC 95%) Có (N=30, 19,9%) n (%) Không (N=121, 80,1%) n (%)
Nhóm thời gian điều trị
≤ 5 năm 114 (75,5) 25 (21,9) 89 (78,1) 1
> 5 năm 37 (24,5) 5 (13,5) 32 (86,5) 0,62 (0,25 - 1,49)
Nhóm liều Methadone điều trị hiện tại (mg/ngày)
< 60 36 (23,8) 6 (16,7) 30 (83,3) 1
60 – 120 65 (43,1) 14 (21,5) 51 (78,5) 1,29 (0,5 - 3,36)
> 120 50 (33,1) 10 (20,0) 40 (80,0) 1,2 (0,44 - 3,00)
Bỏ liều trong tháng
Có 45 (29,8) 13 (28,9) 32 ( (71,1) 1,8 (0,96 - 3,39)
Không 106 (70,2) 17 (16,0) 89 (84,0) 1
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 84
Đặc điểm Chung (N=151)
n (%)
WHO-AUDIT ≥ 8 PR
(KTC 95%) Có (N=30, 19,9%) n (%) Không (N=121, 80,1%) n (%)
Hành vi nguy cơ
Có 71 (47,0) 5 (12,8) 34 (87,2) 5,63*** (2,28-13,93)
Không 80 (53,0) 48 (13,3) 313 (86,7) 1
Dùng chung bơm kim tiêm
Có 3 (2) 3 (100) 0(0) 5,48** (3,9-7,71)
Không 148 (80) 27 (18,2) 121 (81,7) 1
Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục
Có 85 (56,3) 6 (7,1) 79 (92,9) 1
Không 66 (43,7) 24 (36,4) 42 (63,6) 5,15*** (2,24 - 11,87)
Bệnh kèm theo
Có 82 (54,3) 15 (18,3) 67 (81,7) 0,84 (0,44 - 1,59)
Không 69 (45,7) 15 (21,7) 54 (78,3) 1
p=**<0,01, ***<0,005
Bảng 3 tìm thấy có mối liên quan giữa sử
dụng rượu bia đến mức nguy hại với các
hành vi nguy cơ như dùng chung bơm kim
tiêm, không sử dụng bao cao su khi quan hệ
tình dục, cụ thể là những bệnh nhân dùng
chung bơm kim tiêm thì có tỷ lệ sử dụng
rượu bia đến mức nguy hại gấp 5,48 lần;
những bệnh nhân không sử dụng bao cao
su khi quan hệ tình dục có tỷ lệ sử dụng
rượu bia đến mức nguy hại gấp 5,15 lần
những bệnh nhân sử dụng bao cao su khi
quan hệ tình dục. Các đặc điểm về quá trình
điều trình điều trị như thời gian điều trị, và
nhóm liều Methadone hiện tại, bỏ liều trong
tháng, bệnh kèm theo không có liên quan
đến sử dụng rượu bia đến mức nguy hại.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy
hại (AUDIT ≥ 8) ở những bệnh nhân MMT
là 19,9%. Kết quả này cũng gần tương
đồng với nghiên cứu tại miền Bắc là
18,3%(11). Nhưng kết quả này thấp hơn tỷ
lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy hại ở
nam giới trưởng thành Việt Nam là 40%(1)
và bệnh nhân nam MMT là 29,6%(7). Sự
khác biệt này là có thể là do khác nhau về
đối tượng nghiên cứu, những nghiên cứu
này tiến hành trên đối tượng nam giới còn
nghiên cứu chúng tôi thực hiện trên cộng
đồng cả nam và nữ. Nhiều nghiên cứu cho
thấy nam giới uống rượu và uống rượu
nguy hại cao hơn nữ giới(3,5). Ngoài ra,
bệnh nhân khi tham gia điều trị
Methadone cũng được nhân viên y tế
khuyến cáo là hạn chế sử dụng rượu bia vì
tương tác giữa rượu bia và Methadone.
Nghiên cứu cũng đã phát hiện một số yếu
tố liên quan đến sử dụng rượu bia đến
mức nguy hại như trình độ học vấn thấp
thì sử dụng rượu nguy hại hơn. Kết quả
này tương đồng với nghiên cứu của Song
Duan tại Trung Quốc(3). Điều này có thể là
do những bệnh nhân có trình độ học vấn
càng cao, họ có hiểu biết, nhận thức được
tác hại của rượu khi tham gia điều trị
Methadone. Đồng thời, họ cũng có khả
năng kiểm soát được hành vi uống rượu
của bản thân nên tỷ lệ sử dụng rượu nguy
hại có thể thấp hơn(4). Bệnh nhân MMT tái
sử dụng ma túy trong quá trình điều trị thì
có khả năng sử dụng rượu bia đến mức
nguy hại cao hơn. Điều này cũng tương
đồng với một số nghiên cứu khác(2). Tuy
nhiên, có sự khác nhau giữa loại ma túy
mà họ sử dụng. Điều này có thể là do quy
định của nước ta nếu bệnh nhân sử dụng
bất kì một loại ma túy nào khác ngoài
CDTP trong quá trình điều trị sẽ phải
chấm dứt điều trị Methadone vì vậy một
số bệnh nhân sẽ che giấu, không dám khai
thật. Hơn nữa, tại phòng khám chỉ làm xét
nghiệm nước tiểu CDTP mà không làm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 85
các ma tuý khác nên tỷ lệ ghi nhận sử
dụng ma túy khác rất thấp vì vậy chúng
tôi chưa tìm thấy sự khác biệt giữa các loại
ma túy khác. Ngoài ra, bệnh nhân có hành
vi nguy cơ như dùng chung bơm kim
tiêm, không sử dụng bao cao su khi quan
hệ tình dục có khả năng sử dụng rượu bia
đến mức nguy hại cao hơn. Điều này có
thể là do ảnh hưởng của rượu bia lên não
bộ, làm giảm sự phán đoán suy xét dẫn
đến các hành vi không kiểm soát nên có
thể dẫn đến hành vi nguy cơ như dùng
chung bơm kim tiêm, quan hệ tình dục
không bảo vệ.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ sử dụng rượu bia đến mức nguy
hại ở bệnh nhân MMT tại phòng khám
Methadone quận 8, TP.HCM là 19,9%. Vì
vậy, cần có chương trình sàng lọc tư vấn,
nhắc nhở bệnh nhân trước và trong quá
trình điều trị, đặc biệt ở các đối tượng có
khả năng sử dụng rượu bia đến mức nguy
hại hơn như trình độ học vấn thấp, hiện tại
vẫn còn sử dụng ma túy, sử dụng chất dạng
thuốc phiện và có các hành vi nguy cơ như
dùng chung bơm kim tiêm hay không sử
dụng bao cao su khi quan hệ tình dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bui Van Tan, Leigh BC, Luong Ngoc Khue, Le Ngoc Van
Truong, Tran Bao Quoc, Petr O (2015). "Alcohol consumption
in Vietnam, and the use of ‘Standard Drinks’ to measure
alcohol intake". Alcohol and alcoholism, 51 (2), pp.186-195.
2. Dobler-Mikola A, Hattenschwiler J, Meili D, Beck T, Boni E,
Modestin J (2005). "Patterns of heroin, cocaine, and alcohol
abuse during long-term methadone maintenance treatment".
Journal of Substance Abuse Treatment, 29 (4), pp.259-265.
3. Duan S, Jin Z, Liu X, Yang Y, Ye R, Tang R (2017). "Tobacco
and alcohol use among drug users receiving methadone
maintenance treatment: a cross-sectional study in a rural
prefecture of Yunnan Province, Southwest China". BMJ open, 7
(3), pp.14643.
4. Elliott M, Lowman J (2015). "Education, income and alcohol
misuse: A stress process model". Social psychiatry and psychiatric
epidemiology, 50 (1), pp.19-26.
5. Erol A, Karpyak VM (2015). "Sex and gender-related
differences in alcohol use and its consequences: contemporary
knowledge and future research considerations". Drug & Alcohol
Dependence, 156, pp.1-13.
6. FHI 360 (2014). Đánh giá hiệu quả của chương trình thí điểm
điều trị nghiện các chất thuốc phiện bằng methadone. FHI 360,
tr. 14-15.
7. Nguyen Hoang Long, Do Huyen Phuc, Nguyen Thi Phuong
Nhung, Ngo Chau, Nguyen Thi Lan Huong, Tong Le Giang
(2017). "Factors associated with nicotine dependence during
methadone maintenance treatment: findings from a multisite
survey in Vietnam". BMJ open, 7 (7), pp.015889.
8. Ryder N, Cullen W, Barry J, Bury G, Keenan E, Smyth BP
(2009). "Prevalence of problem alcohol use among patients
attending primary care for methadone treatment". BMC family
practice, 10 (1), pp.42.
9. Stenbacka M, Beck O, Leifman A, Romelsjo A, Helander A
(2007). "Problem drinking in relation to treatment outcome
among opiate addicts in methadone maintenance treatment".
Drug and alcohol review, 26 (1), pp.55-63.
10. Thomas F, Babor JC, Higgins-Biddle JB, Saunders M, Monteiro
G (2001). AUDIT: The alcohol use disorders identification test:
Guidelines for use in primary health care.
11. Tran Xuan Bach, Nguyen Thi Lan Huong, Le Ngoc Hoang
Quynh, Mai Thi Hue, Ngo Chau, Hoang Canh Dinh (2018).
"Alcohol and tobacco use among methadone maintenance
patients in Vietnamese rural mountainside areas". Addictive
Behaviors Reports, 7, pp.19-25.
12. Webster LR, Cochella S, Dasgupta N, Fakata KL, Fine PG,
Fishman SM et al (2011). "An analysis of the root causes for
opioid-related overdose deaths in the United States". Pain
Medicine, 12 (suppl_2), S26-S35.
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_ruou_bia_den_muc_nguy_hai_va_cac_yeu_to_lien_quan_o.pdf