Sử dụng google plus trong dạy học địa lí kinh tế – xã hội tại khoa địa lí trường Đại học Sư phạm TP.HCM - Huỳnh Phẩm Dũng Phát

Tài liệu Sử dụng google plus trong dạy học địa lí kinh tế – xã hội tại khoa địa lí trường Đại học Sư phạm TP.HCM - Huỳnh Phẩm Dũng Phát: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 140 SỬ DỤNG GOOGLE PLUS TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ KINH TẾ – XÃ HỘI TẠI KHOA ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM Using Google Plus in teaching Socio-Economic Geography in Faculty of Geography, Ho Chi Minh City University of Education ThS. Huỳnh Phẩm Dũng Phát(1), Nguyễn Thị Yến Nương(2) (1),(2) Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Sử dụng các ứng dụng dạy học trực tuyến là xu hướng giáo dục ở các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, sinh viên sử dụng mạng xã hội khá phổ biến. Vì vậy, việc ứng dụng Google Plus (G+) vào giảng dạy và học tập sẽ tạo điều kiện định hướng người học sử dụng mạng xã hội một cách tích cực hơn. Bước đầu thử nghiệm quá trình giảng dạy qua G+, tính tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau được nâng ...

pdf12 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 534 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng google plus trong dạy học địa lí kinh tế – xã hội tại khoa địa lí trường Đại học Sư phạm TP.HCM - Huỳnh Phẩm Dũng Phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 63 (3/2019) No. 63 (3/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 140 SỬ DỤNG GOOGLE PLUS TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ KINH TẾ – XÃ HỘI TẠI KHOA ĐỊA LÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM Using Google Plus in teaching Socio-Economic Geography in Faculty of Geography, Ho Chi Minh City University of Education ThS. Huỳnh Phẩm Dũng Phát(1), Nguyễn Thị Yến Nương(2) (1),(2) Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Tóm tắt Sử dụng các ứng dụng dạy học trực tuyến là xu hướng giáo dục ở các quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, sinh viên sử dụng mạng xã hội khá phổ biến. Vì vậy, việc ứng dụng Google Plus (G+) vào giảng dạy và học tập sẽ tạo điều kiện định hướng người học sử dụng mạng xã hội một cách tích cực hơn. Bước đầu thử nghiệm quá trình giảng dạy qua G+, tính tương tác giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau được nâng cao; người học đầu tư nhiều hơn cho sản phẩm của mình trước khi công bố. Bài viết sẽ giới thiệu những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng mạng xã hội G+ trong dạy học Địa lí bậc đại học theo hướng người học công bố sản phẩm và tương tác giữa các thành viên trong một lớp học. Từ đó, tác giả đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo cho việc ứng dụng công cụ này vào dạy học tại khoa Địa lí Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới. Từ khóa: dạy học trực tuyến, địa lí, Google Plus, mạng xã hội, sự tương tác Abstract Nowadays, using online teaching applications is a popular tendency in many countries in the world. In Vietnam, students spend a great deal of time on social networks. Therefore, applying Google Plus into teaching and learning will guide learners to use social networks in a more positive way. Initially experimenting with this process, interaction between instructor and learner as well as learner and learner is enhanced. Moreover, learners’ products will be well prepared before being published. The article will introduce the pros and cons of using this social networking in teaching geography so as to motivate the learners to share their products and interact well with other members in class. Thus, the article proposed further research of this tool to be applied in teaching methods at Faculty of Geography, Ho Chi Minh University of Education in the near future. Keywords: online teaching, geography, Google Plus, social networking, interaction 1. Mở đầu Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra nhiều diễn biến mới và đặt ra nhu cầu đổi mới trong nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Công nghệ tương tác, các lớp học trực tuyến ngày càng được chú trọng hơn và hỗ trợ tích cực cho lớp học truyền thống. Hiện nay, sinh viên không những phải đảm bảo về kiến thức chuyên môn mà cần có những Email: hpdphat@hcmue.edu.vn HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 141 năng lực làm việc hiệu quả trong môi trường công nghệ hiện đại, đây được xem là nhiệm vụ và cũng chính là thách thức cho các trường đại học trong quá trình đào tạo, rèn luyện người học; trước mắt phải tiếp cận được việc học tập trực tuyến, sử dụng công nghệ phục vụ học tập. Tuy nhiên, việc đầu tư cho một hệ thống học tập trực tuyến một cách quy củ lại rất tốn kém và đòi hỏi phải được đào tạo bài bản, điều mà không phải cơ sở giáo dục nào cũng có thể nhanh chóng đáp ứng được. Để phục vụ cho nhu cầu dạy học trực tuyến không quá tốn kém và người học có thể thích nghi nhanh chóng, người dạy có thể lựa chọn sử dụng mạng xã hội để vận hành dễ dàng và tiết kiệm được nhiều chi phí. Một trong những mạng xã hội đang phổ biến tại Việt Nam là G+ có thể đáp ứng được những yêu cầu cơ bản để phục vụ cho lớp học trực tuyến, đặc biệt đối với ngành học đặc thù sử dụng kênh hình (bản đồ, biểu đồ, hình ảnh), video... nhiều như Địa lí. Bài viết giới thiệu về cách thức vận hành một lớp học trên G+, phân tích những thuận lợi và các mặt còn tồn tại trong quá trình thử nghiệm G+ trong dạy học tại khoa Địa lí Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, giới thiệu cách tiếp cận mới đối với công tác dạy học trong thời gian tới. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Lịch sử và phương pháp nghiên cứu Đối với giảng dạy trực tuyến, dựa trên cơ sở Thuyết kiến tạo xã hội (Pat & Nancy, 2012), người học phải là người kiến tạo nên hàm lượng tri thức của mình và là người chủ động trong môi trường học tập. Với mục tiêu lấy người học làm trung tâm, giảng viên xây dựng hệ thống các hoạt động trên lớp, cốt yếu là tăng tính tương tác, khả năng phân tích vấn đề và khả năng tư duy của người học. Khi đó, giảng viên có nhiệm vụ hướng dẫn, quản lí và tổ chức lớp học thay vì giữ vị trí trung tâm cung cấp kiến thức cho người học như trước đây. Sự linh hoạt trong hoạt động giáo dục rất cần thiết, điều đó phù hợp với việc vận hành lớp học trực tuyến phối hợp với lớp học truyền thống. Không những vậy, trong quá trình sinh viên tham gia vào lớp học trực tuyến chính là quá trình sinh viên rèn luyện phát triển năng lực cho bản thân, một trong những mục đích chính yếu trong giáo dục. Sử dụng mạng xã hội vào giảng dạy trực tuyến đã được nhiều tác giả nghiên cứu và ứng dụng trong dạy học. Một nghiên cứu đã cho thấy dấu hiệu tích cực sau thực nghiệm tích hợp các chức năng chính của G+ tại một trường đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả phân tích sau thực nghiệm cho thấy những lợi thế và tiềm năng việc sử dụng G+ trong giáo dục đại học (Erkoller & Oberer, 2013). Một nghiên cứu khác cũng cho thấy sự quan tâm trong việc sử dụng G+ dạy học thông qua kết quả thu thập ý kiến giáo viên bằng phỏng vấn. Kết quả cho thấy mục đích của việc sử dụng G+ chủ yếu là chia sẻ, trò chuyện và liên lạc tạo ra môi trường trao đổi ý kiến và thảo luận tích cực cho người học (Ozcan & Gokcearslan & Kukull, 2015). Bên cạnh đó, G+ có khả năng cải thiện sự hợp tác của sinh viên qua các vòng kết nối, cung cấp cơ hội học tập từ xa và hỗ trợ cho lớp học truyền thống (Oberer & Erkoller, 2012). Tại Việt Nam, cũng đã có những công trình nghiên cứu cho thấy sự hỗ trợ tích cực từ mạng xã hội trong hoạt động dạy học bậc đại học. Mạng xã hội được sử dụng như một công cụ hỗ trợ trong quá trình giảng dạy, khuyến khích người học tham gia vào quá trình học tập, gia tăng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 142 hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, năng lực hợp tác và kiến thức chuyên môn cho người học (Hương & Dư, 2015). Hà, Anh và Trí (2017) khảo sát 1533 sinh viên cho thấy mối quan hệ tích cực của mạng xã hội đối với kết quả học tập của họ. Việc sử dụng thử nghiệm Edmodo cho thấy mạng xã hội làm tăng hiệu quả tương tác trong lớp học, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy (Ân & Tuấn, 2017). Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp bao gồm phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết, phương pháp quan sát, phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm với đối tượng nghiên cứu chủ yếu là sinh viên khoa Địa lí Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2. Ưu điểm của Google Plus trong việc tạo lớp học trực tuyến ở bậc đại học Ở Việt Nam hiện nay, các mạng xã hội phổ biến với số lượng người dùng lớn phải kể đến Facebook, Instagram, Google Plus, LinkedIn Mỗi loại hình có chức năng tương tác, sao lưu và tái sử dụng dữ liệu khác nhau (Hạnh, 2017). Do đó, khi sử dụng mạng xã hội trong dạy học, tùy vào định hướng, giảng viên có thể tận dụng được những thế mạnh của từng loại hình để hỗ trợ cho lớp học. So với hệ thống lớn nhất hiện nay là Facebook, nhóm tác giả ghi nhận những ưu điểm vượt trội của G+ trong quá trình dạy học thử nghiệm. Về điều kiện kích hoạt tài khoản, G+ là một sản phẩm của Google, trang thông tin lớn với thời gian hoạt động nhiều năm tại Việt Nam với các sản phẩm được tích hợp trong cùng một tài khoản mà bất cứ ai cũng có thể tiếp cận và sử dụng hoàn toàn miễn phí (Lam, 2014). Hiện nay, trong đời sống cũng như học tập, hầu hết sinh viên thường sử dụng các sản phẩm của Google như Gmail, Drive, YouTube. Gần như mọi sinh viên đều có tài khoản email của Google để phục vụ học tập nhưng có thể không sử dụng mạng xã hội nào. Do đó, lợi thế khi lựa chọn sử dụng G+ trong dạy học thì người học có thể kích hoạt tài khoản đã có sẵn một cách nhanh chóng, đáp ứng các yêu cầu về khai báo thông tin như họ tên tài khoản người dùng, hình ảnh cá nhân. Điều này tạo “tính thật” cho tài khoản, đồng thời giảng viên cũng sẽ dễ quản lí lớp học của mình, khả năng nhận diện và theo sát người học tốt hơn. Trong khi đó, Facebook có sự cá nhân hóa từ lâu của người dùng, vì vậy từ cách đặt tên, thông tin cá nhân, ảnh đại diện thường theo ý thích người dùng như đặt tên tài khoản theo “nickname”. Do đó, việc yêu cầu người học thay đổi theo thống nhất chung sẽ khó khăn hơn so với việc lựa chọn một mạng xã hội mới nhưng dễ kích hoạt. Về tính năng hoạt động, Facebook thường được sử dụng với mục đích giải trí (Piltch, 2012). Trong khi đó, phần lớn người dùng sử dụng tài khoản Gmail với mục đích phục vụ cho làm việc và học tập, vì thế tài khoản G+ được tạo lập dựa trên cơ sở tài khoản Gmail sẽ tạo được môi trường làm việc và học tập chuyên nghiệp hơn. G+ cũng có ít người sử dụng nên sinh viên cũng không bị chi phối quá nhiều vào cộng đồng mạng mà tập trung hơn vào các bài tập trên tài khoản của mình. Về tính tích hợp, cả Facebook và G+ có thể kết nối với các trang mạng xã hội, trang thông tin, báo chí và các trang học thuật khác phục vụ cho nhu cầu học tập thông qua đường dẫn (Lake, 2019). Tuy nhiên, G+ có ưu thế hơn do kết nối với tài khoản thư điện tử Gmail, tài khoản HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 143 Youtube là nền tảng lưu trữ video lớn nhất hiện nay, Drive sao lưu dữ liệu có kích thước lớn và Photos lưu trữ hình ảnh chất lượng tốt, độ phân giải cao. Ngoài ra, về khả năng đăng tải hình ảnh, G+ còn cho phép người dùng xem ảnh toàn màn hình và phóng to trong trường hợp cần xem xét chi tiết ảnh. Trong quá trình dạy và học Địa lí thì nhu cầu cần đăng tải và chia sẻ hình ảnh là vô cùng đa dạng; so với Facebook, G+ phục vụ nhu cầu này đảm bảo hơn (Dpreview, 2012). Về việc quản lí lớp học, G+ tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên vận hành và quản lí cùng lúc nhiều lớp học thông qua các vòng kết nối, tương ứng với mỗi vòng kết nối là một lớp học phần (xem Hình 1). Trong mỗi lớp học, sinh viên sẽ hoạt động độc lập bằng tài khoản cá nhân của mình. Giảng viên và sinh viên có thể đăng tải thông tin lên trang cá nhân của mình rồi chia sẻ với vòng kết nối đã mặc định. Vì vậy, giảng viên có thể vận hành nhiều lớp học cùng lúc và thống kê việc thực hiện bài tập của người học theo thời hạn nộp sản phẩm một cách thuận tiện. Đây là lợi điểm lớn nhất so với các lớp học theo nhóm trên Facebook, tất cả người dùng đăng tải trên một nhóm lớp thì số lượng bài đăng rất khó để thống kê và theo dõi, nhất là các lớp đông sinh viên. Nếu người học đăng tải lên trang cá nhân của mình thì bài tập trong suốt khóa học với thời gian dài rất dễ bị lẫn vào những bài viết cá nhân khác. 2.3. Sử dụng mạng xã hội Google Plus trong dạy và học Địa lí ở bậc đại học Mạng xã hội G+ cung cấp nhiều tiện ích cho người dùng, đặc biệt là trong giảng dạy nói chung và giảng dạy Địa lí nói riêng. Sinh viên khoa Địa lí khi tham gia các học phần như Địa lí kinh tế - xã hội thế giới, Địa lí Đông Nam Á, Địa lí du lịch thế giới sẽ được học tập trên cả lớp học truyền thống và lớp học G+ với nhiều chủ đề địa lí có nội dung liên quan đến chương trình học của học phần đó. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi tiến hành giới thiệu cách thức cơ bản để giảng viên sử dụng được những tính năng của G+ vận hành thử nghiệm lớp học trực tuyến hỗ trợ cho quá trình giảng dạy của mình. Qua đó, chúng tôi sẽ rút ra những ưu điểm cũng như mặt tồn tại của G+ trong quá trình dạy học. 2.3.1. Cách thức vận hành lớp học trên mạng xã hội Google Plus 2.3.1.1. Quản lí lớp học - Kích hoạt G+ Như đã trình bày ở phần trên, việc kích hoạt tài khoản G+ khá dễ dàng với người dùng đã có tài khoản Gmail. Sau khi đăng nhập, chọn thẻ G+ trong danh mục để khởi động trang chủ. G+ có nhiều tính năng khác nhau, tích hợp ở các thẻ bên góc trái màn hình giao diện. Trong các thẻ chức năng, một số thẻ cơ bản thường được sử dụng trong quá trình thử nghiệm gồm: Thẻ Home sẽ dẫn tới trang chủ, nơi hiển thị các bài viết của bạn bè cùng nhóm, giảng viên; đặc biệt là những sản phẩm mà người học nộp sẽ hiển thị ở đây sắp xếp theo thứ tự thời gian đăng tải. Thẻ Profile thể hiện hồ sơ cá nhân của người dùng, kèm theo là những bài viết của cá nhân đó đã đăng tải. Thẻ People thể hiện các vòng kết nối phân nhóm sinh viên theo lớp học phần (xem Hình 1). Điều này thuận tiện trong quá trình chia sẻ nội dung, thông tin trong khóa học. Thẻ Notifications hiển thị tất cả các thông báo khi có tương tác giữa giảng viên và sinh viên, giữa người học với nhau. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 144 Hình 1. Phân nhóm sinh viên theo lớp học phần riêng biệt - Quản lí và lưu trữ thông tin liên lạc Từ những vòng kết nối giảng viên có thể dễ dàng tra cứu thông tin của sinh viên, đặc biệt là thông tin liên lạc khi cần thiết. Đối với tài khoản sinh viên để tiện cho công tác quản lí và đánh giá, giảng viên cần đưa ra những quy định khi tham gia lớp học trên G+ sao cho phù hợp, thuận tiện cho việc kết hợp với hoạt động giảng dạy trên lớp. Ngoài ra, việc thông báo trong trường hợp khẩn cấp đến cả lớp hay một cá nhân bất kỳ cũng thuận lợi hơn. Tài khoản trực tuyến không chỉ tiện lợi cho việc quản lí sinh viên trong thời gian giảng dạy lớp học phần mà còn giúp giảng viên giữ liên lạc với sinh viên sau khi kết thúc khóa học, điều này rất khó khăn đối với lớp học truyền thống. Do đó, có thể thấy, ngoài tiện ích quản lí sinh viên thì G+ còn giúp lưu giữ thông tin liên lạc giữa giảng viên và sinh viên, giữa sinh viên với nhau. - Điểm danh và quản lí hoạt động ngoài lớp Trong quá trình đánh giá sinh viên, hoạt động điểm danh được thực hiện bằng cách tạo cuộc thăm dò ý kiến hoặc bình luận vào bài đăng (xem Hình 2). Đối với lớp học truyền thống, giảng viên thường tiến hành điểm danh ngay tại lớp với những quy định về thời gian điểm danh để đảm bảo tính chính xác. Hình 2. Điểm danh trực tuyến HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 145 Hoạt động điểm danh trên G+ diễn ra đồng loạt nên sẽ tiết kiệm được thời gian cho buổi học trên lớp so với việc phải đọc tên từng thành viên, nhất là đối với những lớp học có quá đông sinh viên. Việc điểm danh chính danh cá nhân trong thời gian ngắn, điểm danh bằng minh chứng có mặt đúng khung giờ quy định sẽ rèn luyện cho sinh viên ý thức kỷ luật và tôn trọng tập thể. Hơn nữa, việc điểm danh trên danh sách bản in giảng viên sẽ gặp rắc rối trong việc lưu giữ cho đến cuối khóa học. Trong khi điểm danh bằng G+, dữ liệu sẽ được lưu giữ một cách đầy đủ và chính xác mà không phải lo ngại về việc thất lạc dữ liệu. Hình 3. Sinh viên đăng tải hình ảnh báo cáo hoạt động ngoài lớp học Trong số hoạt động vượt ra khỏi khuôn khổ của giờ học trên lớp thì những giờ tự học của sinh viên sẽ được kiểm soát thông qua việc đăng tải hình ảnh hoạt động học tập. Giờ tự học của sinh viên rất phong phú, đặc biệt là sinh viên Địa lí, thông qua các điểm thực địa hoặc các sự kiện. Với lịch trình sự kiện và hội nghị diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh mang tính thực tiễn cao, tổ chức khá thường xuyên chính là môi trường tự học thật sự hữu ích cho sinh viên khoa Địa lí. Ví dụ như ở học phần Địa lí Đông Nam Á, sinh viên được tham gia sự kiện Ngôi làng ASEAN; học phần Địa lí kinh tế - xã hội thế giới, sinh viên tham gia lễ hội Giao lưu văn hóa Nhật Bản; đối với học phần Địa lí du lịch thế giới, cho sinh viên tham quan ngày hội du lịch quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh để có cơ hội tiếp cận thêm kiến thức chuyên ngành, thu thập các nguồn tài liệu đa dạng phục vụ học tập. Giảng viên có thể kiểm soát giờ tự học mà vẫn đảm bảo kiến thức học tập thông qua nhiệm vụ liên quan đến kiến thức trong học phần, được phân công và bàn giao trước khi sinh viên tham gia những hoạt động này. Giảng viên cũng sẽ kiểm tra được quá trình làm việc nhóm của sinh viên (Hình 3). Đối với hình thức điểm danh kết hợp kiểm tra này sinh viên sẽ hoạt động nhóm nghiêm túc và có hiệu quả hơn. Đồng thời, kết quả hình thành từ hoạt động nhóm sẽ có tính logic và đảm bảo kiến thức hơn. 2.3.1.2. Cách thức đăng tải bài viết Khi đăng tải bài viết, giảng viên cần chú ý lựa chọn quyền riêng tư cho phù hợp, hay nói cách khác bài viết nếu không có điều chỉnh thì sẽ tự mặc định ở chế độ công khai, tất cả mọi người có thể thấy được. Để thay đổi đối tượng chia sẻ, giảng viên có thể chọn chế độ Public hoặc vòng/các vòng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 146 kết nối, hay các tài khoản cá nhân bất kì để hiển thị để lựa chọn đối tượng xem bài viết theo mục đích giảng dạy. Trong một bài viết thường sẽ có những tệp tin kèm theo, đặc biệt là trong dạy và học Địa lí. Tùy vào mục đích sử dụng, phục vụ cho lớp học trên lớp hay hoạt động trên G+ mà giảng viên lựa chọn nội dung phù hợp. G+ cho phép người dùng đăng tệp trực tiếp hoặc những tệp được đăng tải trên các trang lưu trữ trực tuyến thông qua đường dẫn kết nối. 2.3.1.3. Hoạt động của sinh viên Trong khuôn khổ bài viết, nhóm tác giả sẽ đưa ra một số sản phẩm chính trong lớp học sử dụng G+ đối với sinh viên khoa Địa lí. Sản phẩm từ sinh viên không chỉ là kết quả để đánh giá hoạt động học tập mà còn là một trong những nguồn dữ liệu quan trọng hỗ trợ cho nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Sản phẩm hình ảnh ở đây có thể là biểu đồ, bản đồ, infographic, hay ảnh tư liệu do sinh viên tự chụp phục vụ cho quá trình học tập hiện tại và công tác dạy học sau này. Để thực hiện được mục tiêu đó, giảng viên có thể đưa ra những nội dung liên quan đến chương trình đào tạo của học phần cho sinh viên tìm hiểu và thực hiện sản phẩm. Lớp học trên nền tảng mạng xã hội G+ có nhiều dạng bài tập để phát triển năng lực giải thích các hiện tượng và quá trình địa lí. Do khuôn khổ bài viết có hạn chúng tôi chỉ giới thiệu một số sản phẩm điển hình trên lớp học G+ bao gồm: - Bài báo địa lí: là một trong những dạng bài tập hữu hiệu được áp dụng trên lớp học G+ nhằm phát triển năng lực người học. Ở bài tập dạng này, một trong những nội dung quan trọng là phân tích số liệu, dựa vào bảng số liệu sinh viên sẽ phát triển được năng lực giải thích các yếu tố kinh tế - xã hội khác nhau. Mặt khác, khi sinh viên tìm hiểu về một chủ đề địa lí thì điều cốt yếu là việc tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau sau đó chọn lọc lại những thông tin cần thiết và tổng hợp thông tin theo trình tự logic, từ đó phát triển năng lực thu thập, xử lí và truyền đạt thông tin địa lí. Ví dụ như bài phân tích tác động của dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội ở học phần Địa lí kinh tế - xã hội đại cương. Hình 4. Đăng hình ảnh hoặc video HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 147 - Sản phẩm bản đồ: vừa là kết quả học tập của sinh viên, vừa là phương tiện để phục vụ giờ học Địa lí trên lớp. Sản phẩm bản đồ địa lí không chỉ giúp cho sinh viên ghi nhớ kiến thức mà còn tạo điều kiện để sinh viên thực hành kĩ năng xây dựng, khai thác bản đồ. Đây chính là cơ sở cho việc xây dựng bản đồ kinh tế - xã hội theo từng mục đích riêng trong kế hoạch giảng dạy. Ngoài ra sinh viên phát triển năng lực nhận thức thế giới theo quan điểm không gian từ hoạt động thiết kế bản đồ, từ đó xác định được vị trí địa lí và phân tích, giải thích được đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của một quốc gia hoặc khu vực. - Infographic: là một trong những sản phẩm được ứng dụng rộng rãi trên lớp học G+, nội thể hiện chính là nội dung kiến thức mà sinh lĩnh hội được trong quá trình học tập, nghiên cứu và biên tập thành sản phẩm của bản thân. Ví dụ như infographic Kinh tế Trung Quốc ở học phần Địa lí kinh tế - xã hội thế giới. Sản phẩm giúp sinh viên ghi nhớ kiến thức một cách nhanh chóng đồng thời có thể biến sản phẩm thành tài liệu dạy học cho sinh viên trong quá trình học tập bộ môn và tài liệu sau khi ra trường. Ngoài ra, mỗi sinh viên đều phải công bố sản phẩm của mình và nhận xét sản phẩm của sinh viên khác là điều kiện để trao đổi và xây dựng kho tài liệu ngày càng phong phú cho sinh viên sử dụng về sau. Đối với hoạt động học tập này giảng viên chỉ cần phân chia và hướng dẫn nội dung kiến thức khác nhau, cho sinh viên nghiên cứu, thực hiện và công bố sản phẩm. - Các sản phẩm video: thường được thực hiện báo cáo các hoạt động tự học và hoạt động trải nghiệm, nhất là những chuyến đi thực địa kinh tế - xã hội. Để chuẩn bị tốt hơn, giảng viên nên đưa ra những chủ đề địa lí cho các nhóm sinh viên lựa chọn. Sau đó, sinh viên sẽ đưa ra kế hoạch thực hiện từ các khâu tổ chức kịch bản, nội dung kiến thức, quay phim và phỏng vấn, như vậy, chất lượng video sẽ được nâng cao cả hình thức lẫn nội dung. Sinh viên có thể rèn luyện năng lực sử dụng các công cụ của Địa lí học và tổ chức học tập thực địa rất thuận tiện thông qua những tệp ảnh bản đồ chất lượng cao trên lớp học G+, cũng như những kế hoạch tham gia hoạt động thực tế mà sinh viên tự tổ chức. Ngoài ra, ở những hội nghị giao lưu văn hóa, lễ hội, các dự án địa lí cũng có thể cho sinh viên tiến hành dàn dựng, tạo lập sản phẩm thu hoạch, ngoài kiến thức tự học còn trang bị cho sinh viên những kĩ năng khác nhau. Ví dụ như video thu hoạch nội dung về Ngôi làng ASEAN phục vụ học phần Địa lí Đông Nam Á. Như vậy, từ những hoạt động học tập trên lớp học truyền thống và cả lớp học trên nền tảng G+, sinh viên có thể vận dụng kiến thức đã học ứng dụng vào tình huống thực tế đồng thời đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề phát triển năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng vào thực tiễn. 2.3.1.4. Hoạt động đánh giá Với tính năng thăm dò ý kiến, giảng viên có thể tiến hành tạo hoạt động bình chọn để sinh viên đưa ra ý kiến của bản thân, tiến hành đánh giá các sản phẩm của bạn học trên lớp. Từ đó, tạo được một môi trường thi đua giữa các nhóm hay giữa các cá nhân với nhau, thúc đẩy chất lượng học tập và tăng cường sự chủ động cho người học. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 148 Hình 5. Hoạt động giải thích lí do bình chọn của cá nhân Thông thường, đối với các học phần thuộc nhóm kinh tế - xã hội tại khoa Địa lí, sau khi sinh viên đăng tải công khai sản phẩm đã thực hiện được, lớp sẽ tiến hành bình chọn ra sản phẩm chất lượng nhất. Với việc đăng tải sản phẩm công khai và chắc chắn sẽ có nhiều người xem, bình chọn, sinh viên có thái độ làm việc cũng như đầu tư cho sản phẩm một cách kĩ lưỡng, chất lượng hơn. Như vậy, với tính năng này, G+ đã tạo ra được một môi trường công bố kết quả học tập một cách chi tiết, dễ tiếp cận, công khai và cùng nhau phát triển. Để tránh việc lựa chọn ngẫu nhiên, tùy hứng, hoạt động bình chọn cần phải có phần góp ý hoặc giải trình lí do bình chọn (xem Hình 5), tạo cơ hội cho sinh viên được phát biểu ý kiến cá nhân, đánh giá của mình. Việc sinh viên đưa ra giải trình cho thấy mức độ quan tâm của sinh viên với những sản phẩm khác, tránh việc bình chọn theo trào lưu hay bình chọn cho bạn bè thân thiết. Hoạt động giúp nâng cao được tính khách quan trong năng lực đánh giá của sinh viên. Từ đó, việc đánh giá của giảng viên với sản phẩm sinh viên cũng vì thế mà khách quan hơn. Đối với hoạt động công khai kết quả bài tập và nhận góp ý sẽ tạo ra những cuộc thảo luận giữa sinh viên với nhau, rèn luyện được khả năng phản biện trong sinh viên. Bài tập địa lí cho sinh viên có nhiều dạng khác nhau, có thể là bài tập tồn đọng trên lớp tiếp tục được giải quyết sau giờ học, hoặc là những nhiệm vụ được phân công thực hiện ngay trên G+. Sinh viên sẽ phải đăng tải kết quả làm việc của mình một cách công khai trước lớp, được nhận góp ý từ thành viên còn lại và đưa ra ý kiến phản biện lại; cũng như ghi nhận những góp ý đúng và tiến hành giải trình, sửa chữa, hoàn thành nội dung kiến thức đang tiếp nhận. 2.3.2. Những thuận lợi và khó khăn của việc áp dụng G+ trong điều kiện giảng dạy hiện tại 2.3.2.1. Những thuận lợi Về phía giảng viên, trang xã hội G+ tạo ra nhiều thuận lợi trong việc tổ chức và điều hành lớp học như sau: - Thứ nhất, không mất chi phí tạo lập HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 149 và vận hành lớp học khi hệ thống đường truyền internet được cơ sở giáo dục hay bản thân người dạy đầu tư. - Thứ hai, giảng viên có điều kiện hiểu rõ hơn về người học thông qua thời lượng tương tác với người học mọi lúc, mọi nơi, thường xuyên hơn so với chỉ lên lớp. - Thứ ba, G+ hỗ trợ đắc lực cho giảng viên trong quản lí lớp học đặc biệt là về các hoạt động ngoài giờ, hoạt động cần tuân thủ thời gian. - Thứ tư, giảng viên có thể điều hành lớp học từ xa hoặc kể cả khi lên lớp, lớp học trực tuyến và truyền thống hỗ trợ qua lại lẫn nhau. Về phía sinh viên, trong quá trình tham gia vào lớp học G+ sinh viên có thể phát triển năng lực của bản thân cũng như việc tận dụng tối ưu những tiện ích từ G+ vào hoạt động học tập: - Thứ nhất, lớp học G+ đã tạo ra một môi trường học tập năng động, rèn luyện kĩ năng và phát triển năng lực cần thiết cho sinh viên sư phạm Địa lí. - Thứ hai, nâng cao ý thức của người học về vấn đề tuân thủ thời gian, quy định chung của lớp học. - Thứ ba, người học có thể tương tác với nhau, góp ý kiến cho nhau. Do kết quả được công bố rộng rãi, sinh viên buộc phải làm việc thật sự chứ không thể đưa ra những bình chọn cảm tính. Từ đó, người học có nhiều cơ hội học tập hơn. - Thứ tư, G+ cũng chính là kênh lưu trữ bài tập của người học, sinh viên có thể lưu trữ tài liệu, sản phẩm, bài làm của mình để sử dụng lâu dài, chứ không chấm dứt khi học phần kết thúc. - Thứ năm, G+ có thể kết hợp với các trang thông tin học tập khác nhằm phục vụ cho người học. 2.3.2.2. Những khó khăn Bên cạnh những thuận lợi, quá trình thử nghiệm sử dụng G+ trong giảng dạy tại khoa Địa lí cũng gặp một số tồn tại như sau: - Thứ nhất, người học phải có thiết bị đầu cuối là điện thoại thông minh hoặc máy tính mới có thể tham gia lớp học một cách thuận lợi. Một số trường hợp, khả năng trang bị của người học còn hạn chế. - Thứ hai, lớp học phải phụ thuộc vào đường truyền internet. Khi các khu vực học tập không đảm bảo được điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đến kịch bản dạy học. - Thứ ba, để đạt hiệu quả cao ở các lớp học, giảng viên phải hướng dẫn rõ ràng, cụ thể những yêu cầu cần đạt đối với nhiệm vụ của người học. Giảng viên sẽ mất rất nhiều thời gian và công sức vì hoạt động trực tuyến thường không giới hạn không gian cũng như thời gian. 2.4. Định hướng nghiên cứu tiếp theo Từ các phân tích ở trên cho thấy tiềm năng sử dụng mạng xã hội G+ vào dạy học Địa lí là rất lớn. Bài viết chỉ mới dừng lại ở bước giới thiệu cách thức dạy học Địa lí mới, cách điều hành một lớp học trên mạng xã hội. Từ tiếp cận này mở ra một số định hướng nghiên cứu trong thời gian tới như phát triển lớp học trực tuyến thông qua cuộc gọi video và sử dụng tiện ích Hangout; khảo sát ý kiến người học về lớp học trực tuyến; đánh giá hiệu quả học tập của người học sau khi thực nghiệm và đối sánh các lớp học. Bài viết là tiền đề cho việc định hướng nhân rộng việc tổ chức dạy học qua G+ nói riêng và các mạng xã hội nói chung, đồng thời triển khai đại trà trong dạy và học ở nhiều bộ môn khác. Bên cạnh đó, sử dụng G+ không chỉ dừng lại ở SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 150 đào tạo bậc đại học mà còn có thể hướng đến giáo dục phổ thông. 3. Kết luận Với một mạng xã hội hoàn toàn miễn phí và dễ kích hoạt, cách thức sử dụng đơn giản, người dùng có thể tiếp cận và sử dụng dịch vụ của G+ một cách dễ dàng và nhanh chóng. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đã giới thiệu về những ưu điểm trong dạy học của mạng xã hội G+. Đồng thời, nhóm tác giả đã hướng dẫn cách thức tổ chức lớp học ở bậc đại học theo cách thức đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu dạy và học trực tuyến. Dựa vào thực tế, có thể nhận thấy rằng mạng xã hội G+ rất phù hợp để áp dụng vào giảng dạy bậc đại học ở nước ta. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã giới thiệu những định hướng phát triển sử dụng mạng xã hội vào giảng dạy và học tập ngành Địa lí trong thời gian sắp tới. Việc tiếp cận, tìm hiểu, định hướng và nghiên cứu ứng dụng mạng xã hội góp phần phục vụ cho hoạt động giảng dạy ngày càng nâng cao chất lượng. Với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, nhìn chung mạng xã hội đã đáp ứng được nhu cầu thực tế và cả sự chuẩn bị cho những sự thay đổi trong tương lai không chỉ ở khoa Địa lí mà còn ở đơn vị khác. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Thanh Hồng Ân, Nguyễn Văn Tuấn. (2017). Ứng dụng mạng xã hội để hỗ trợ việc tương tác ngoài giảng đường: Một trường hợp nghiên cứu tại Khoa Kinh tế - Quản trị Kinh doanh Trường Đại học Đà Lạt. Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Nghiên cứu Giáo dục, tập 33, số 3, 1-9. Aptekin Erkoller & Birgit. J. Oberer. (2013). Putting Google Plus to the Test: Assessing Outcomes for Student Collaboration, Engagement and Success in Higher Education. Procedia - Social and Behavioral Sciences, 83, 185-189. doi.org/10.1016/ j.sbspro.2013.06.036. Lê Thị Thanh Hà & Trần Tuấn Anh & Trần Xuân Trí. (2017). Nghiên cứu các nhân tố của mạng xã hội tác động đến kết quả học tập của sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học công nghệ và Thực phẩm, 11, 104-112. Phạm Hạnh. (2017, ngày 25 tháng 9). Xếp hạng các trang mạng xã hội phổ biến nhất bằng số liệu thống kê. Truy xuất từ hang-cac-trang-mang-xa-hoi-pho-bien-nhat-bang-so-lieu-thong-ke-tinh-den-thang- 82017. Trịnh Thị Hương & Phan Văn Dư. (2015). Sử dụng mạng xã hội (Facebook) vào giảng dạy. Hội thảo Đánh giá học sinh tiểu học theo tiếp cận năng lực. Đại học Thái Nguyên. 321-325. Du Lam. (2014, ngày 31 tháng 3). Những “bộ mặt” của Gmail sau 10 năm ra đời. Truy xuất từ 115693.ict. HUỲNH P. DŨNG PHÁT - NGUYỄN T. YẾN NƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 151 Laura Lake. (2019, ngày 06 tháng 01). Google Versus Facebook. Truy xuất từ https://www.thebalancesmb.com/googleand-vs-facebook-what-s-the-difference- 2296062. Birgit J. Oberer & Alptekin Erkoller. (2012). Google Plus in the Higher Education Space. Are Educators Ready for Social Media Learning in Schools?, Truy xuất từ Seher Ozcan & Sahin Gokcearslan & Vollkan Kukull. (2015). Pre-service Teacher’s opinions on cloud supported social network. World Journal on Educational Technology, 7(2), 107-118. doi.org/10.18844/wjet.v7i2.43. Avram Piltch. (2012, ngày 06 tháng 4). 5+ Reasons Why You Should Be Using Google+. Truy xuất từ https://www.laptopmag.com/articles/5-reasons-why-you-should-be- using-google. Dpreview Staff. (2012, ngày 10 tháng 02). Facebook Lightbox vs Google+: which better presents your images?. Truy xuất từ https://www.dpreview.com/articles/ 8959287319/facebook-lightbox-vs-google-for-photos. Pat Swenson & Nancy A. Taylor. (2012). Giảng dạy trực tuyến trong thời đại số. Tp.HCM, Việt Nam: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 28/01/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf53_963_2214958.pdf
Tài liệu liên quan