Tài liệu Sự chuyển biến tư tưởng của một số thanh niên yêu nước người Thái về con đường đấu tranh cách mạng ở Sơn La đầu thế kỷ XX: 70
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 15 (5/2019) tr 70 - 78
SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CỦA MỘT SỐ THANH NIÊN YÊU
NƯỚC NGƯỜI THÁI VỀ CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
Ở SƠN LA ĐẦU THẾ KỶ XX
Điêu Thị Vân Anh, Tống Thanh Bình
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Bài viết đề cập đến sự chuyển biến tư tưởng của một số thanh niên yêu nước người dân tộc
Thái ở Sơn La về con đường đấu tranh cách mạng đầu thế kỷ XX, từ đó cho thấy vai trò của Chi bộ Nhà tù Sơn
La trong việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền giác ngộ, gây dựng cơ sở cách mạng trong đồng bào các dân tộc,
góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.
Từ khóa: Chuyển biến tư tưởng, Nhà tù Sơn La, Chi bộ Nhà tù Sơn La, Dân tộc Thái.
1. Đặt vấn đề
Quá trình cai trị và bóc lột của thực dân Pháp ở Sơn La dẫn đến sự du nhập một số yếu
tố mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên sự chuyển biến trong đời sống cư dân địa
phương; đặc biệt là sự ra đời của Chi bộ Cộng sản Nhà tù Sơn La (12/1939) đã dẫn...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 385 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự chuyển biến tư tưởng của một số thanh niên yêu nước người Thái về con đường đấu tranh cách mạng ở Sơn La đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
70
TẠP CHÍ KHOA HỌC
Khoa học Xã hội, Số 15 (5/2019) tr 70 - 78
SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CỦA MỘT SỐ THANH NIÊN YÊU
NƯỚC NGƯỜI THÁI VỀ CON ĐƯỜNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG
Ở SƠN LA ĐẦU THẾ KỶ XX
Điêu Thị Vân Anh, Tống Thanh Bình
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Bài viết đề cập đến sự chuyển biến tư tưởng của một số thanh niên yêu nước người dân tộc
Thái ở Sơn La về con đường đấu tranh cách mạng đầu thế kỷ XX, từ đó cho thấy vai trò của Chi bộ Nhà tù Sơn
La trong việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền giác ngộ, gây dựng cơ sở cách mạng trong đồng bào các dân tộc,
góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945.
Từ khóa: Chuyển biến tư tưởng, Nhà tù Sơn La, Chi bộ Nhà tù Sơn La, Dân tộc Thái.
1. Đặt vấn đề
Quá trình cai trị và bóc lột của thực dân Pháp ở Sơn La dẫn đến sự du nhập một số yếu
tố mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên sự chuyển biến trong đời sống cư dân địa
phương; đặc biệt là sự ra đời của Chi bộ Cộng sản Nhà tù Sơn La (12/1939) đã dẫn đến hệ
quả mà người Pháp không lường hết được. Được sự giác ngộ của Chi bộ Cộng sản Nhà tù Sơn
La một số thanh niên yêu nước người Thái ở địa phương đã trở thành hạt nhân để gây dựng
các cơ sở cách mạng, góp phần làm nên thành công Cách mạng Tháng Tám 1945.
2. Nội dung
2.1. Khái quát về tỉnh Sơn La đầu thế kỷ XX
Sơn La là một trong những tỉnh lớn nằm ở vị trí trung tâm của vùng Tây Bắc nước ta,
giáp ranh với một số tỉnh Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc miền Trung của Việt Nam và một phần
Thượng Lào. Trong nhìn nhận của thực dân Pháp, Sơn La có vị trí chiến lược quan trọng về
chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Vì thế, ngay sau khi kí hiệp ước Patenôtre
năm 1884, Pháp đã mở rộng tấn công đánh chiếm Sơn La. Trên thực tế, nếu chiếm được Sơn
La, Pháp có thể làm chủ toàn bộ miền Tây Bắc rộng lớn, trong đó có Điện Biên, Lai Châu -
nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Tỉnh Sơn La có hơn 200 km đường biên giới với hai
tỉnh Hủa Phăn và Luông Pha Băng (Lào), trong điều kiện giao thông cuối thế kỷ XIX, việc
mở tuyến đường Thuộc địa số 6 từ Hà Nội tới tới Sầm Nưa (Hủa Phăn) qua Hòa Bình, Mộc
Châu sẽ phá vỡ thế cô lập của các tỉnh Thượng Lào. Vì thế, chiếm được Tây Bắc sẽ giúp thực
dân Pháp có một chỗ dựa vững chắc trong kế hoạch xâm chiếm và đô hộ 3 nước Đông Dương.
Sơn La vốn là vùng đất biệt lập với miền xuôi do giao thông đi lại khó khăn, khí hậu
khắc nghiệt, sự khác biệt về phong tục tập quán, khiến sự giao lưu, tiếp xúc với các tỉnh
Ngày nhận bài: 3/11/2018. Ngày nhận đăng: 11/12/2018
Liên lạc: Điêu Thị Vân Anh; e-mail: vananhtbu1983@gmail.com
71
đồng bằng bị hạn chế. Tỉnh có 12 dân tộc thiểu số, thực dân Pháp đã dùng chính sách chia để trị
để làm chủ vùng đất này, xây dựng xứ Thái tự trị, biến Sơn La trở thành hậu thuẫn của Pháp
trong quá trình xâm lược, cai trị Đông Dương.
Năm 1895 tỉnh Sơn La được thành lập đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Tòa Công sứ
Pháp. Thời Pháp thuộc, Sơn La có 12 dân tộc sinh sống gồm: Thái, Mường, Mông, Kháng,
Hoa, Kinh, Lào, La Ha, Tày, Xinh Mun, Dao, Khơ Mú. Trong đó, người Thái chiếm tỉ lệ cao
trong kết cấu dân cư, năm 1932, người Thái chiếm 74,5 % dân số, các dân tộc còn lại chiếm
25,5 % dân số.
Đơn vị tính: Tỷ lệ (%)
Nguồn Monographie de la province de Sonla 1932
Biểu đồ cơ cấu dân số tỉnh Sơn La năm 1932
Bảng 1. Cơ cấu dân tộc tỉnh Sơn La năm 1932
Đơn vị tính: Tỷ lệ (%)
Năm Thái Mông Mường Xá Mán Hoa Kinh Pháp
1932 74,5 8,00 7,69 7,39 1,53 0,51 0,307 0,006
Nguồn Monographie de la province de Sonla 1932
Về cơ cấu dân số tỉnh Sơn La: Năm 1921, thành phần dân cư gồm: người Thái (64.400),
người Mông (7.100), người Mường (4.720), người Xá (8.670), người Mán (370), người Kinh,
người Hoa tỉ lệ không đáng kể. Năm 1932: Dân tộc: Thái: 72.600 người, Mông 7.800 người,
Mường 7.500 người, Xá: 7.200 người, Mán 1.500 người, Hoa 500 người, Kinh 300 người, Âu: 6
người. Năm 1943, tổng số dân là 118.745 người, tỉ lệ như sau: dân tộc Kinh chỉ chiếm 1.000
người, người Pháp 18 người, trong khi các dân tộc ít người là 117.727 người [6, tr.43]. Thời Pháp
thuộc, một số dân tộc thiểu số rất ít người như Xinh Mun, Kháng, La Ha, Dao, đôi khi được
gộp vào nhóm dân tộc Xá là vì thế, trong các thống kê thường không chi tiết về các dân tộc này.
Dân tộc Thái nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Sơn La nói chung đã có một thời gian dài
cư trú trên vùng đất Tây Bắc. Để sinh tồn, họ đã cùng nhau khai phá, lao động và đoàn kết chiến
đấu chống lại sự xâm lược của các kẻ thù từ bên ngoài. Từ thời phong kiến, nhân dân các dân
72
tộc Tây Bắc đã góp sức cùng các triều đại trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Điển hình
như “Đội quân chinh chiến” (Đội quân Áo Đỏ) do các thủ lĩnh châu, mường người Thái: Sa
Khả Sâm, Cầm Quý, Cầm Lạn ở Mường Sang (Mộc Châu) góp phần đánh thắng quân Minh
xâm lược ở thế kỷ XV. Ngoài ra còn có cuộc đấu tranh do các thủ lĩnh người Thái ở Mường
Muổi (Thuận Châu), Mường La, Quỳnh Nhai phối hợp với nghĩa quân Hoàng Công Chất chống
giặc Pẻ từ Bắc Lào và Vân Nam (Trung Quốc) thế kỷ XVIII. Đặc biệt, cuối thế kỷ XIX, nhân
dân các dân tộc Sơn La còn đoàn kết đấu tranh dưới sự chỉ huy của Bạc Cầm Ten (Thuận
Châu), Cầm Ngọc Hánh (Mai Sơn) đánh đuổi giặc “Cờ Vàng” - một tàn quân của cuộc khởi
nghĩa Thái Bình Thiên Quốc từ Trung Quốc tràn vào vùng Tây Bắc. Không chỉ vậy, sự xâm
lược của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ còn vấp phải sự chống cự quyết liệt của đội quân “Thập
Châu” vùng Tây Bắc trong hai trận Cầu Giấy năm 1873, 1883 tiêu diệt hai tướng Pháp là
Francis Garnier và Henri Rivière [11, tr.36-45]. Năm 1884, thực dân Pháp mở rộng tấn công lên
vùng Tây Bắc cũng gặp phải sự phản kháng quyết liệt của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Đến
năm 1895, về cơ bản Pháp mới bình định được vùng đất Sơn La nên đã bãi bỏ chế độ Đạo quan
binh và thành lập tỉnh Vạn Bú (năm 1904 đổi thành tỉnh Sơn La). Tuy nhiên, trong khoảng thời
gian từ 1895 đến năm 1939, tại Sơn La đã nổ ra các cuộc đấu tranh chống Pháp như: Cuộc khởi
nghĩa Bô và Khụt vùng Mường Bú cuối năm 1897, cuộc bạo động của Quàng Văn Nhăng ở Phù
Yên, cuộc nổi dậy của Cai Khạt năm 1909, phong trào chống Pháp vùng biên giới huyện Mộc
Châu, Yên Châu giáp Lào của Hầu Xám liên kết Sa Văn Cả - chẩu mường Mộc Châu, cuộc nổi
dậy của Cầm Văn Tứ tại Ít Ong, Mường Trai, Tạ Bú (Mường La) và có sự liên hệ thủ lĩnh
người Thái ở một số châu Mai Sơn, Mường La, Thuận Châu, cuộc nổi dậy của Mùi Văn Phối ở
Tạ Khoa (Bắc Yên) năm 1914 Đó là chưa kể đến hình thức đấu tranh ôn hòa bằng cách
không hợp tác, viết đơn kiện, đấu tranh gắn với những yêu sách cụ thể,...của người dân ở khắp
các châu chống đế quốc, phìa, tạo.
Qua đó, có thể thấy, các dân tộc ở Sơn La nói chung và dân tộc Thái nói riêng có truyền
thống đấu tranh anh dũng, yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm. Đó là những tiền đề quan trọng
để phát triển phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc khi có sự tuyên truyền, giác ngộ của
Chi bộ Nhà tù Sơn La.
2.2. Tác động của chính sách cai trị, bóc lột của thực dân Pháp ở Sơn La cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX
Khách quan nhìn nhận, có thể nói những yếu tố được thực dân Pháp du nhập vào Sơn
La thời kỳ này đã dẫn đến những chuyển biến bước đầu của địa phương trên các lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Về kinh tế: Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong những thay đổi rõ rệt ở
Sơn La. Người Pháp tiến hành khai mở, tạo nên các tuyến đường với tổng chiều dài khoảng
500 km làm cho sự kết nối giữa Sơn La với các vùng miền thuận lợi hơn trước. Điện, bưu
điện, trường, trạm, quy hoạch đô thị được người Pháp cho xây dựng nhằm phục vụ hoạt động
của Tòa Công sứ cũng như để vận hành mọi hoạt động trên địa bàn tỉnh. Sự xuất hiện của
73
những kỹ thuật mới trong nông nghiệp, việc thử nghiệm các cây con giống mới, việc tiêm vắc
xin phòng bệnh cho gia súc gia cầm, đã phần nào giúp người dân tiếp cận với nền nông
nghiệp hiện đại hơn trước. Việc đề xuất mở các chợ gia súc và hội chợ gia súc là những biện
pháp thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển. Việc cho vay tín dụng nông nghiệp là một hình
thức mới nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở địa phương dù số người được vay không nhiều.
Ngoài ra, Tòa Công sứ rất chú trọng việc theo dõi thời tiết và khí hậu ở Sơn La để có những
dự báo phục vụ đời sống và sản xuất. Việc xuất hiện các đơn xin khai mỏ tạo thành cơn sốt là
điều chưa từng diễn ra ở thời kỳ trước, tuy việc khai mỏ không được tiến hành mạnh mẽ như
các tỉnh thành mà chủ yếu trên giấy tờ. Một số yếu tố mới xuất hiện như các nhà máy: điện,
nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt Tòa Công sứ và vùng tỉnh lỵ, hoạt động của hệ thống chợ,
đã đánh dấu một sự chuyển biến trong đời sống các dân tộc trong vùng. Để thúc đẩy thương
mại, tỉnh Sơn La đã tham gia các Hội chợ trong và ngoài nước, đồng thời tổ chức một số hội
chợ tại địa phương - điều chưa từng có trước đây.
Tuy nhiên, những yếu tố mới đó chưa đủ sức làm chuyển biến cơ cấu kinh tế tỉnh Sơn La.
Sự ưu đãi của thiên nhiên đã tạo nên thói quen dựa vào thiên nhiên để sinh tồn. Hoạt động sản
xuất của người Thái diễn ra cầm chừng, quy mô nhỏ bé, hiệu quả kinh tế thấp. Người Pháp từng
nhận xét về họ: “Người miền núi có thói quen chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu của bản thân,
họ gần như chẳng mua gì và do đó họ cũng không cần sản xuất nhiều hơn để trao đổi lấy hàng
hóa khác” [14]. Nhìn chung, nền kinh tế Sơn La “ít chịu tác động trực tiếp của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa nên vẫn bảo lưu gần như nguyên vẹn tính chất phong kiến lạc hậu
trong cách thức tổ chức sản xuất và canh tác” [6, tr.159]. Kinh tế Sơn La vẫn là nền kinh tế tự
cung tự cấp, ít chịu ảnh hưởng của nền kinh tế hàng hóa và kĩ thuật hiện đại.
Về văn hóa, xã hội: Chế độ phìa, tạo là một đặc trưng của xã hội Sơn La trước năm
1895, chế độ này tồn tại lâu dài và có sức ảnh hưởng lớn đối với người dân cũng như sự phát
triển của xã hội Sơn La. Phìa, tạo thống trị và chi phối các mối quan hệ xã hội bao gồm quan
hệ giữa phìa, tạo với các nông dân Thái và quan hệ giữa phìa, tạo Thái với các dân tộc lệ
thuộc khác. Trước khi người Pháp tới, phìa, tạo là đối tượng trực tiếp bóc lột sức lao động
của người nông dân Thái dựa trên những quy định của luật tục, ràng buộc người nông dân
phải làm tròn bổn phận của mình đối với những người đứng đầu - hiện thân của bản mường.
Khi người Pháp đến, họ đã khôn khéo sử dụng bộ máy cai trị địa phương để thực hiện việc
quản lý, bóc lột nhân dân bằng cách trao quyền và trả lương hậu hĩnh cho đội ngũ giúp việc.
Mọi nhiệm vụ từ thu thuế, bắt phu, lính đến thủ tiêu những thành phần chống đối Pháp đều do
bộ phận tay sai thực hiện. Không chỉ vậy, chính sách chia để trị còn giúp thực dân Pháp tăng
thêm sự đối lập giữa các dân tộc, những trò mị dân của chính quyền thực dân còn dẫn đến sự
sai lệch trong nhận thức của một bộ phận người dân trong việc nhìn nhận kẻ thù. Vì vậy,
trước khi Chi bộ Nhà tù Sơn La được thành lập, những cuộc đấu tranh của nhân dân Sơn La
chưa thực sự hiệu quả. Phải từ sau năm 1939, phong trào đấu tranh chống Pháp ở Sơn La mới
có nhiều chuyển biến.
Những năm cuối thập niên 20 của thế kỷ XX, khi toàn quyền Merlin chủ trương “phổ
74
cập giáo dục” thì trường học ở vùng những vùng miền núi trong đó có Sơn La mới có nhiều
chuyển biến. Năm 1923, số học sinh hệ tiểu học Pháp - Việt ở Sơn La là 550, trong đó số lượng
từng lớp như sau: lớp đồng ấu: 336, lớp dự bị:137, lớp sơ đẳng: 27, lớp trung đẳng 13, lớp cao
đẳng: 7 [12]. Năm 1926 - 1927 số lượng học sinh cả tỉnh là 439 người, năm 1935 - 1936 là 485
người [13]. Với số dân 103.000 người theo số liệu thống kê năm 1936 thì tỉ lệ người được đi
học chỉ chiếm khoảng 0,5 %, còn lại 99,5 % dân số mù chữ. Ngoài ra, thực dân Pháp còn mở
thêm trường dạy nghề và trường thừa phái nhằm đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ. Sự xuất hiện
yếu tố phương Tây trong y tế là một nét mới trong cách khám và điều trị bệnh ở Sơn La thời
kỳ này. Những thay đổi trong cách phòng, chữa bệnh, kỹ thuật y học hiện đại đã được áp dụng
trong nhân dân và đặc biệt việcchăm sóc sức khỏe sinh sản đã được chú ý.
Điều đáng nói là trong số những chủ trương, chính sách Pháp áp dụng ở Sơn La, có
những hệ quả phát sinh mà thực dân Pháp không lường hết được. Đó chính là việc đày
những người tù chính trị từ miền xuôi lên Sơn La nửa đầu thế kỷ XX. “Với ý đồ triệt tiêu
tinh thần đấu tranh, cô lập họ với phong trào cách mạng miền xuôi, Pháp đã biến Nhà tù
Sơn La trở thành trung tâm giam giữ, đày ải tù chính trị lớn ở phía Bắc Việt Nam. Trong
vòng 15 năm, từ 1930 - 1945, thực dân Pháp đã đưa lên Nhà tù Sơn La tổng số 1.013 lượt tù
nhân, phần lớn trong số đó là Uỷ viên Trung ương Đảng, Xứ ủy, Thành ủy, những người
cộng sản và người Việt Nam yêu nước” [1, tr.10]. Chính trong tù ngục tăm tối, những chiến
sĩ cộng sản đã biến ngục tù thành trường học cách mạng và gieo mầm cách mạng trên những
bản làng dân tộc vốn biệt lập với vùng đồng bằng. Tháng 12/1939, Chi bộ Cộng sản lâm
thời được thành lập, tháng 2/1940, Chi bộ lâm thời được chuyển thành Chi bộ chính thức.
Trong 5 nhiệm vụ công tác của Chi bộ thì nhiệm vụ xây dựng và phát triển các tổ chức quần
chúng bên trong và ngoài nhà tù là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Sự ra đời của Chi
bộ Nhà tù Sơn La là hệ quả ngoài ý muốn của thực dân Pháp, nó đã tác động mạnh mẽ tới
sự chuyển biến về tư tưởng, của người dân địa phương.
2.3. Sự chuyển biến về tư tưởng của một số thanh niên yêu nước người Thái về con đường
đấu tranh cách mạng ở Sơn La đầu thế kỷ XX
Mặc dù thực dân Pháp ra sức truyền bá cho sứ mệnh của mình, gây bất hòa giữa các dân
tộc nhưng những chính sách, biện pháp thực dân thực thi tại Sơn La đã vô tình tạo nên những
chuyển biến trong đại bộ phận người Thái. Việc mở trường dạy học cho con em phìa, tạo và
những nông dân Thái khá giả đã đào tạo được hàng nghìn trí thức. Về cơ bản, họ chỉ được học
chương trình Tiểu học của nền giáo dục Pháp - Việt nhưng những học sinh được thừa hưởng
nền giáo dục này cũng thừa nhận rằng: lần đầu tiên họ biết đến những khái niệm văn minh,
dân chủ, cách mạng tư sản, thôi thúc họ khám phá về một xã hội tự do, bình đẳng, nhất là
khi họ được những người tù chính trị, lao động khổ sai ngoài nhà tù giác ngộ về bản chất thực
dân Pháp, phát xít Nhật, phìa, tạo và thấy được nguyên nhân của đời sống khốn cùng của
người dân.
Ngay sau khi thành lập, để lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc và
thực hiện năm nhiệm vụ công tác lớn mà Chi bộ đã đề ra, trong đó công tác tuyên truyền, giác
75
ngộ cách mạng đối với quần chúng, nhất là đối với đồng bào dân tộc để gây dựng cơ sở cách
mạng bên trong và bên ngoài nhà tù là vấn đề trọng yếu, Chi bộ đã thành lập các tiểu ban: Tù
vận, binh vận, dân vận, công chức vận. Bên cạnh đó, “Chi bộ còn cử những đồng chí hoạt
động bên ngoài Nhà tù tiếp xúc với dân, tranh thủ học tiếng dân tộc để thuận lợi việc tiếp xúc,
tuyên truyền, vận động xây dựng cở sở cách mạng cho nhân dân địa phương. Ngoài ra, Chi bộ
còn cho ra đời tờ báo “Suối Reo” chép bằng tay để tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước,
ý chí cách mạng cho đảng viên, quần chúng trong và ngoài nhà tù” [11, tr.139 ].
Với nỗ lực đó, Chi bộ đã giác ngộ, cảm hóa được nhiều quần chúng, trong đó có những
thanh niên người Thái tiến bộ theo cách mạng. Họ đã có nhiều đóng góp đối với phong trào
cách mạng ở địa phương như Lò Văn San, Cầm Văn Thinh, Lô Xuân, Lò Văn Phui; anh em con
nhà phìa Cầm Văn Ba ở Mường Chanh, châu Mai Sơn gồm: Cầm Văn Minh, Cầm Vĩnh Tri,
Cầm Văn Quế, Cầm Văn Chính, Cầm Cung Chức, Cầm Thị Dực Sự chuyển biến về nhận
thức của họ là một bước ngoặt đối với phong trào cách mạng ở Sơn La. Từ chỗ họ là con em
phìa, tạo và những gia đình khá giả được đi học, đi dạy, làm công chức cho chính quyền thực
dân hay cả những người vốn từng là nông dân toàn mường, cuông, nhốc, côn hươn được người
Pháp cho đi học,... họ kiên quyết không phục vụ cho Pháp, cho phìa, tạo mà họ tự nguyện đi
theo con đường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều này thể hiện trong Hồi ký của ông
Lô Xuân - một cán bộ tiền khởi nghĩa - nguyên Phó trưởng ban tổ chức khu ủy: “Chúng tôi đều
là thanh niên trẻ, biết chữ, vì gia đình nghèo nên không thể tiếp tục học lên được nữa, về nhà
tìm “miếng ăn” vào miệng. Trong những lúc chúng tôi đang thất nghiệp đó các đồng chí cộng
sản ở nhà tù Sơn La đã về gặp và giác ngộ chúng tôi đi theo cách mạng” [5, tr.5]. Trường hợp
anh em họ Cầm ở Mường Chanh (Mai Sơn) thành phần xuất thân là con của phìa Cang Mường
không nối nghiệp phìa mà đi theo cách mạng, hay người thanh niên Thái Lò Văn Giá giúp bốn
tù chính trị vượt ngục năm 1943, hay việc người lính Thái canh ngục tìm cách giúp đỡ những
người tù bị nhốt dưới hầm trong cuộc đấu tranh tuyệt thực và cả một số binh lính, công chức
người Thái ở Tòa Công sứ bí mật giúp đỡ cho những người tù chính trị, thực sự điển hình cho
sự chuyển biến của một số thanh niên người Thái Sơn La nửa đầu thế kỷ XX. Họ đã góp phần
không nhỏ cho sự thay đổi của địa phương thời kỳ tiền khởi nghĩa. Quá trình hoạt động cách
mạng của những người con dòng họ Cầm ở Mường Chanh (Mai Sơn) đã góp phần làm nên
thành công trong Cách mạng Tháng Tám ở địa phương. Theo danh sách chúng tôi có được
trong quá trình đi điền dã tại Mai Sơn về những người tham gia hoạt động cách mạng trước năm
1945 ở Mường Chanh (Mai Sơn) do đồng chí Lê Trung Toản xác nhận năm 1985 (do ông Cầm
Văn Thắng, con trai ông Cầm Văn Quế cung cấp) [7], có thể thấy ảnh hưởng to lớn của những
đảng viên cộng sản và anh em gia đình ông Cầm Văn Minh đến vùng đất này. Từ nguồn gốc
xuất thân là con em phìa, tạo, được Pháp cho đi học trường Pháp - Việt nhưng họ đã được các
chiến sĩ cộng sản giác ngộ, đứng về phía nhân dân, hoạt động cách mạng, lôi cuốn được đại bộ
phận nhân dân Mường Chanh nhiệt thành tham gia đấu tranh chống Pháp. Tinh thần đấu tranh
của người dân Mường Chanh đã khiến nơi đây được mệnh danh là vùng đất giàu truyền thống
cách mạng. Không chỉ vậy, sự hi sinh của Lò Văn Giá năm 1943 khiến người dân nhận thức rõ
76
hơn về bản chất và tội ác của thực dân Pháp, làm bùng lên tình yêu quê hương đất nước, căm
thù giặc sâu sắc.
Sau khi Chi bộ Nhà tù Sơn La được thành lập, phong trào đấu tranh chống Pháp có sự
chuyển biến mạnh mẽ. Hiệu quả của công tác dân vận của Chi bộ Nhà tù đã dẫn đến sự thành
lập các tổ chức yêu nước của người Thái như: tổ chức Thanh niên Thái cứu quốc Mường La, tổ
chức thanh niên Thái cứu quốc Sơn La, Tổ thanh niên cứu quốc Mường Chanh (Mai Sơn). Tổ
thanh niên Thái cứu quốc sau đó phát triển ra các vùng lân cận: Thuận Châu, Sông Mã, thu hút
được 64 hội viên tham gia với nòng cốt là anh em Cầm Minh, Cầm Văn Quế, Cầm Vĩnh Tri,
Cầm Kim Chính [4, tr.27]. Các tổ chức này đã tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống sưu
cao thuế nặng, bãi bỏ một số chức dịch mới, phát đơn kiện lên châu, tỉnh khi bị chính quyền đàn
áp, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Đặc biệt Tổ chức thanh niên Thái cứu quốc Mường
Chanh đã thành lập “Đội tự vệ bí mật” do Cầm Vĩnh Tri làm đội trưởng - là hạt nhân lực lượng
vũ trang cách mạng Sơn La. Đến đầu năm 1945, cả tỉnh có 60 cơ sở cách mạng ở các châu.
Riêng ở Mường Chanh, được sự chỉ đạo, huấn luyện của phái viên Lê Trung Toàn, đội du kích
vũ trang Mường Chanh được thành lập do Cầm Vĩnh Tri chỉ huy [Tư liệu điền dã]. Tờ báo
“Lắc mương” (Trụ cột đất nước) được tổ chức thanh niên Thái cứu quốc Sơn La viết tay bằng
chữ Thái và Quốc ngữ đã góp phần tuyên truyền, vạch rõ tội ác của Nhật, hô hào nhân dân đứng
lên đấu tranh.
Đầu tháng 8/1945, tình hình trên thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến, để gấp rút
chuẩn bị lực lượng giành chính quyền ở các địa phương Xứ ủy Bắc kỳ đã cử đồng chí Lê
Trung Toản trở lại Sơn La để cùng các đồng chí ở địa phương tổ chức lại các phong trào, một
cuộc họp khẩn cấp đã được triệu tập, “đồng chí Chu Văn Thịnh đã phân công nhiệm vụ phụ
trách giành chính quyền cách mạng ở các châu như sau: Châu Mường La do đồng chí Nguyễn
Tử Du, Lô Xuân phụ trách, Thuận Châu do đồng chí Đỗ Trọng Thát, Quàng Đôn, Mai Sơn do
Cầm Vĩnh Tri, Cầm Minh, Yên Châu do Cầm Vĩnh Tri, Hoàng Luông phụ trách. Đồng chí Cầm
Văn Minh còn có nhiệm vụ giúp việc cho đồng chí Chu Văn Thịnh trong việc giành chính
quyền ở Tỉnh lỵ” [6, tr.28]. Nhân dân được tập hợp đấu tranh đã lần lượt giành thắng lợi ở các
châu: Phù Yên, Mường La, Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Sơn La, Mộc Châu, lật đổ ách
thống trị của đế quốc, phong kiến, giải phóng bản mường, thành lập chính quyền cách mạng.
Ngày 26/8/1945 nhân dân các dân tộc Sơn La khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Có được thành công trên cần phải kể đến vai trò của Chi bộ Nhà tù Sơn La trong công
tác tuyên truyền, tổ chức quần chúng ở trong và ngoài nhà tù. Trong điều kiện tù đày bị quản lý
gắt gao, hoạt động vô cùng khó khăn, kẻ thù tìm mọi cách chia rẽ nhưng Chi bộ vẫn tìm mọi
cách tuyên truyền, giáo dục và tổ chức được quần chúng giác ngộ cách mạng đi đến thành lập
những tổ chức quần chúng cách mạng bên ngoài nhà tù.
3. Kết luận
Nhìn nhận một cách khách quan, kinh tế, xã hội tỉnh Sơn La thời Pháp thuộc có những
thay đổi nhất định. Những thay đổi này có thể là hệ quả ngoài ý muốn của thực dân Pháp,
song không thể phủ nhận đó là những nhân tố mới so với thời kỳ trước đó. Việc xây dựng
77
Nhà tù và đày ải những người tù chính trị lên Sơn La cũng như việc du nhập nền giáo dục
Pháp - Việt chính là tác nhân quan trọng dẫn đến sự chuyển biến về tư tưởng của dân tộc Thái
Sơn La về con đường đấu tranh cách mạng. Thành công trong công tác tuyên truyền, giác ngộ
ngoài nhà tù của Chi bộ Nhà tù Sơn La có vai trò vô cùng quan trọng trong sự chuyển biến
nhận thức của người dân, giúp họ hiểu được căn nguyên của cuộc sống bị áp bức đô hộ để đi
theo cách mạng, đoàn kết dân tộc Thái cùng các dân tộc khác đứng lên đấu tranh lật đổ sự cai
trị của thực dân, phìa, tạo, giành quyền làm chủ thân phận, làm chủ bản mường sau thành
công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bảo tàng tỉnh Sơn La, Di tích lịch sử cách mạng Nhà tù Sơn La, Nxb Văn hóa Dân tộc.
[2] Phan Trọng Báu (2005), Giáo dục vùng dân tộc ít người ở Việt Nam thời Pháp thuộc,
NCLS, 7, tr. 24-32.
[3] Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Sơn La (1995), Sơn La lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
[4] Hà Ngọc Hòa (2017), Hai gia đình giàu truyền thống cách mạng, Bản tin Sơn La xưa và
nay, số 29.
[5] Lô Xuân, Hồi ký Chỉ có một con đường đi theo Cách mạng, lưu tại Hội Khoa học Lịch sử
tỉnh Sơn La.
[6] Tổng cục Thống kê (2004), Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX tập I, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[7] Tư liệu điền dã tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La năm 2017.
[8] Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa(1858 -
1945),NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[9] Monographie de la province de Sonla 1932, hồ sơ số 75499. RST TTLTQG I, Hà Nội
[10] Notice sur la province de Son La. 1932, hồ sơ số 78459. RST, TTLTQG I, Hà Nội.
[11] Phạm Văn Lực (2012), Phong trào chống Pháp ở Sơn La từ cuối thế kỷ XIX đến năm
1945, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[12] Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La (1922-1923), hồ sơ
số36550-21. RST, TTLTQG I, Hà Nội.
[13] Rapport annuel sur la situation générale de la province de Son La pour l'année 1927, hồ
sơ số 36567-21. RST, TTLTQG I, Hà Nội.
[14] Rapports économiques du 1er semestre 1919 des provinces du Tonkin, hồ sơ số 72586-6,
RST, TTLTQG I, Hà Nội.
78
TRANSFORMATION IN THINKING OF SOME THAI PATRIOTIC
YOUTHS ABOUT THE REVOLUTIONARY ROAD IN SON LA IN THE
EARLY TWENTIETH CENTURY
Dieu Thi Van Anh, Tong Thanh Binh
Tay Bac Univercity
Abstract: The articleexamines the change in thinking of some Thai patriotic youths about the
revolutionary road in Son La in the early twentieth century, thenpoints out the role of The Communist party
division of Son La in raising public awareness and building revolutionary bases in the local ethnic minorities,
whichcontributed to the victory of the August Revolution in 1945.
Keywords: Change in thinking, Son La Prision, The Communist party division of Son La, Thai Nation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10_dieu_thi_van_anh_tong_thanh_binh_7424_2167620.pdf