Tài liệu Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệ: 50
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0023
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 50-62
This paper is available online at
SỰ CHUẨN BỊ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRONG VIỆC
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Nguyễn Thu Hà
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ
thông tin (ICT) đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới,
đặc biệt là thay đổi vai trò của người giáo viên. Theo đó, để trở thành một người giáo
viên trong thời đại 4.0, bên cạnh phẩm chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công
dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy phản biện, hợp tác, học tập suốt đời,
giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT có vai trò quan trọng, giúp giáo
viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều n...
13 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0023
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 50-62
This paper is available online at
SỰ CHUẨN BỊ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRONG VIỆC
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Nguyễn Thu Hà
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ
thông tin (ICT) đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới,
đặc biệt là thay đổi vai trò của người giáo viên. Theo đó, để trở thành một người giáo
viên trong thời đại 4.0, bên cạnh phẩm chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công
dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy phản biện, hợp tác, học tập suốt đời,
giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT có vai trò quan trọng, giúp giáo
viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều này
đặt ra vấn đề với các trường sư phạm làm sao để đào tạo được năng lực ICT cho sinh
viên khi ra trường họ có thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên trong
thời đại 4.0. Bài báo sẽ bàn luận về nội dung này với ba trọng tâm chính đó là: tìm hiểu về
năng lực ICT; phân tích kinh nghiệm điển hình của các nước trong khu vực châu Á và Thái
Bình Dương về xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT cho sinh
viên sư phạm và đối chiếu kinh nghiệm của các nước trong khu vực để xem hiện nay các
trường ĐHSP ở Việt Nam đã chuẩn bị đến đâu trong việc phát triển năng lực ICT cho sinh
viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khoá: Năng lực ICT, cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo giáo viên, sinh viên sư phạm.
1. Mở đầu
Cách mạng công nghiệp 4.0 mà điển hình là sự bùng nổ của công nghệ thông tin (ICT)
đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới, đặc biệt là thay đổi
vai trò của người giáo viên. Trong thời đại mới, vai trò giáo viên thay đổi từ địa vị của
người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập, đồng thời
cũng là người giải quyết được các vấn đề xúc cảm và xã hội tác động đến việc học của trò;
sẵn sàng tạo ra sự thay đổi khi việc học tập đó ngừng trệ. Chính những thay đổi đó dẫn
đến công tác đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm cần được nhìn nhận lại và đưa ra
những bước đi phù hợp đáp ứng được công cuộc đổi mới này.
Trong hai thập kỉ qua, các nghiên cứu [1] chỉ ra rằng, đào tạo giáo viên là một điểm
Ngày nhận bài: 19/2/2019. Ngày sửa bài: 12/3/2019. Ngày nhận đăng: 20/3/2019.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Hà. Địa chỉ e-mail: nguyenthuha.hnue@gmail.com
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
51
đầu vào quan trọng để đưa công nghệ thông tin vào hệ thống giáo dục và việc đào tạo năng lực
ICT cho sinh viên sư phạm có tác động đáng kể đến việc dạy và học của ngày mai. Ở Việt
Nam, hiện nay trong các cơ sở đào tạo giáo viên, việc phát triển năng lực nghề nói chung
và năng lực ICT cho sinh viên nói riêng ở mỗi cuộc cách mạng hay đổi mới về giáo dục
có những quan điểm và định hướng khác nhau. Nhưng tựu chung lại, trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp 4.0 sinh viên sư phạm ra trường để trở thành giáo viên bên cạnh phẩm
chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy
phản biện, hợp tác, học tập suốt đời, giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT
có vai trò quan trọng giúp giáo viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi
trường thực tế ảo. Điều này đặt ra vấn đề với các trường sư phạm làm sao để đào tạo được
năng lực ICT cho sinh viên khi ra trường họ có thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của
người giáo viên trong thời đại 4.0. Bài báo sẽ bàn luận về nội dung này với ba trọng tâm
chính đó là: tìm hiểu về năng lực ICT; phân tích kinh nghiệm điển hình của các nước
trong khu vực châu Á và Thái Bình Dương về xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới
phát triển năng lực ICT cho sinh viên sư phạm; và đối chiếu kinh nghiệm của các nước
trong khu vực để xem hiện nay các trường ĐHSP ở Việt Nam đã chuẩn bị đến đâu trong
việc phát triển năng lực ICT cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 và những tác động đến vai trò của người giáo viên
* Cách mạng công nghiệp 4.0
Bước nhảy vọt gần đây về số hoá cuộc sống và môi trường xung quanh cũng như môi
trường làm việc của con người là một trong những động lực chính của sự thay đổi trong
thế kỉ mới. Năm 2012, chính phủ Đức đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Công nghiệp 4.0”
(Industry 4.0) để đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (the fourth Industrial
Revolution 4.0). Cách mạng công nghiệp 4.0 hay Cách mạng 4.0 hay Công nghiệp 4.0 là một giai
đoạn phát triển mới của nền công nghiệp nói riêng và xã hội loài người nói chung; đó là một môi
trường mà trong đó máy tính, tự động hoá và con người sẽ cùng làm việc với nhau theo một
cách hoàn toàn mới. “Công nghiệp 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động hoá và
trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian thực-ảo,
internet vạn vật, điện toán đám mây và điện toán nhận thức” [2].
* Những tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến giáo viên
Việc xuất hiện và tích hợp các công nghệ mới, trí tuệ nhân tạo và internet vạn vật kết
nối dẫn đến các lĩnh vực kinh tế mới, những ngành nghề mới có tác động sâu sắc lên giáo
dục và đào tạo với tất cả các mặt mà trước hết là công tác đào tạo giáo viên. Có sự lo ngại
toàn cầu rằng, các hệ thống giáo dục của chúng ta đã lỗi thời và không thể đào tạo con em
chúng ta một cách tương thích cần thiết cho tương lai. Các cơ sở giáo dục đại học nói chung,
đặc biệt là cơ sở đào tạo sư phạm nói riêng đang đối diện với nhiều cơ hội và thách thức do
ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này là vì các cơ sở giáo dục đại học phải
thực hiện nhiều chức năng khác nhau, kể cả dạy học, nghiên cứu và dịch vụ đều bị tác động
bởi sự có sẵn và sử dụng công nghệ số. Trong xã hội dựa trên tri thức và số hoá của thế kỉ
XXI, giáo dục đang đương đầu với các thách thức to lớn chuyển từ cách học truyền thống
sang đổi mới phương pháp học. Nó đặt ra yêu cầu lớn phải chuyển đổi vai trò giáo viên -
Nguyễn Thu Hà
52
người truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò mới với tư cách là người xúc tác
và điều phối. Sự biến đổi này buộc giáo viên đối diện với nhiệm vụ một cách linh hoạt hơn
và cần được đào tạo bồi dưỡng chuẩn bị cho các vai trò mới này.
Dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò giáo viên đã thay đổi và đang
tiếp tục thay đổi từ địa vị người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi
trường học tập. Giáo viên phải cố vấn giúp học sinh điều chỉnh chất lượng và giá trị
nguồn thông tin, kiến thức mới; phải là nhà chuyên môn có đầu óc mở, biết phê phán độc
lập, hợp tác, cộng tác tích cực và điều giải người học với những gì họ cần biết, là người
cung cấp cách hiểu theo kiểu bắc cầu (Weinberger Fischer, Mandl, 2002). Đồng thời, giáo
viên cũng phải là một người biết lắng nghe và giao tiếp hiệu quả. Trong kỉ nguyên số này,
vai trò người thầy đã chuyển dịch từ chỗ chỉ truyền giáo sang quản lí các hành vi tình cảm
và xã hội của học sinh; là cố vấn thông thái cho họ học tập và phát triển toàn diện thành
công dân cân đối; biết tạo động cơ cho các học sinh học chậm hay học nhanh trong môi
trường số. Giáo viên phải biết quan sát theo dõi học sinh giúp họ quản lí đúng thời gian
của mình nhằm giúp học và chắc chắn sử dụng tối ưu nguồn lực điện tử. Người thầy phải
hướng vào các vấn đề cảm xúc và xã hội tác động lên việc học của trò và sẵn sàng tạo ra
sự thay đổi khi việc học của trò bị đình trệ. Cuối cùng, giáo viên phải luôn là người sẵn
sàng chia sẻ và tham gia bởi chúng ta cần nhớ rằng không cần thiết và không thể nào nắm
giữ được mọi thông tin trong cuộc sống hằng ngày (Shah, 2014). Như vậy, trong kỉ
nguyên số hoá này, người giáo viên phải am hiểu công nghệ. Việc giáo viên nắm bắt công
nghệ nhằm trao quyền và cho phép bản thân họ cũng như học trò của họ sử dụng các công
cụ và công nghệ khác nhau để cải tiến quá trình học tập. Hay nói một cách khác, giáo viên
trong thời đại mới cần có được năng lực ICT. Năng lực ICT giúp giáo viên có thể khai
thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều này đặt ra vấn đề với các
trường sư phạm làm sao để đào tạo được năng lực ICT cho sinh viên khi ra trường họ có
thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên trong thời đại 4.0.
2.2. Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông
* Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông là gì?
Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT - Information and Communication
Technologies) được định nghĩa là một “tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công
nghệ được sử dụng để trao đổi, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin” [3].
Các công nghệ này bao gồm máy tính, Internet, công nghệ truyền thông (đài và vô tuyến),
và điện thoại. Trong luật Công nghệ thông tin ban hành năm 2006 [4], thuật ngữ ICT
được định nghĩa là “tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kĩ thuật
hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lí, lưu trữ và trao đổi thông tin số”. Như vậy,
khái niệm ICT được quy định trong luật Công nghệ thông tin của Việt Nam đã được hiểu
là việc lưu trữ, xử lí dữ liệu, thông tin bằng các phương tiện điện tử, và còn qua các
phương tiện đó để trao đổi, giao tiếp, truyền đạt thông tin giữa nhiều người hoặc nhóm
người với nhau một cách hiệu quả.
“Năng lực ICT được xác định là khả năng sử dụng các công cụ và tài nguyên công
nghệ để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin hiệu quả trong các hoạt
động dạy và học. Các công cụ và tài nguyên công nghệ bao gồm thiết bị kĩ thuật
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
53
(máy tính, máy chiếu, mạng Internet,) và các phần mềm trên máy tính và các ứng dụng
trực tuyến” [4].
* Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông - một năng lực quan trọng trong
đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
ICT là công cụ quan trọng để bắt kịp với những phát triển mới nhất. Do bùng nổ kiến
thức và thay đổi nhanh chóng trên thế giới, việc sử dụng ICT trong giáo dục đã trao quyền
cho cả giáo viên và học sinh không chỉ trong việc thúc đẩy tăng trưởng cá nhân mà còn
trong việc phát triển “xã hội tri thức”. ICT trong giáo dục đại học đang được sử dụng để
phát triển tài liệu khóa học, cung cấp nội dung và chia sẻ nội dung; giao tiếp giữa người
học, giáo viên và thế giới bên ngoài; tạo và phân phối thuyết trình và bài giảng; nghiên
cứu học thuật; hỗ trợ hành chính, ghi danh học sinh Nó được coi là một trường con của
công nghệ giáo dục, đóng một vai trò quan trọng để theo dõi và ghi lại sự tiến bộ của học
sinh theo thời gian, địa điểm và các hoạt động đa dạng. Các năng lực của giáo viên/
chuyên gia học thuật đã qua đào tạo và có trình độ giởi có thể được cung cấp cho đối
tượng lớn sinh viên thông qua các thiết lập linh hoạt và ảo. Ngoài việc nâng cao kinh
nghiệm học tập của học sinh, ICT đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng năng
lực cho giáo viên. Như vậy, năng lực ICT được coi là một năng lực nền tảng của sinh viên
sư phạm nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Một sinh viên sư phạm
được coi là có năng lực ICT khi biết: Tiếp cận thông tin về giáo dục, dạy học trên cơ sở tư
duy phản biện; Khai thác, thu thập, sử dụng và phân tích thông tin về giáo dục và dạy học
một cách hệ thống; Quản lí và đánh giá thông tin liên quan đến giáo dục và dạy học; Sử
dụng và ứng dụng ICT trong dạy học, quản lí hồ sơ học tập, học tập,... sáng tạo và phù
hợp với nguyên tắc giáo dục; và Sử dụng và sản xuất sản phẩm truyền thông đa phương
tiện trong dạy học và giáo dục. Để đào tạo được năng lực ICT ở sinh viên sư phạm, các cơ
sở đào tạo giáo viên cần tập trung vào việc nghiên cứu sử dụng ICT trong đào tạo và cách
thức các giảng viên và sinh viên sư phạm sử dụng công cụ này để thúc đẩy việc giảng dạy
và nghiên cứu khoa học một cách sáng tạo và hiệu quả.
2.3. Kinh nghiệm điển hình của các nước châu Á - Thái Bình Dương trong việc xây
dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực công nghệ thông tin và
truyền thông cho sinh viên sư phạm
Việc xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT cho sinh
viên sư phạm được tiến hành ban đầu để hỗ trợ các trường sư phạm ở các nước châu Á -
Thái Bình Dương. Khung năng lực này là sản phẩm của các hoạt động hợp tác của các
học giả từ 3 tổ chức giáo dục hàng đầu khu vực, tham khảo ý kiến và phản hồi từ các
trưởng khoa sư phạm và các bên liên quan đến việc đào tạo giáo viên trong khu vực [1].
Việc xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT bao gồm sáu
khía cạnh chiến lược, đó là: (1) Tầm nhìn và triết lí; (2) Chương trình đào tạo, Đánh giá
và Thực tập; (3) Phát triển nghề nghiệp của các trưởng khoa, giảng viên chủ chốt và nhân
viên hỗ trợ; (4) Kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ ICT; (5) Truyền thông và
quan hệ đối tác; và (6) Nghiên cứu và Đánh giá (Hình 1).
2.3.1. Tầm nhìn và triết lí
Việc tạo ra một tầm nhìn chung và triết lí cơ bản cung cấp cho cán bộ quản lí và
giảng viên trong nhà trường một phương tiện để trao đổi xuyên suốt về sử dụng ICT hiệu
Nguyễn Thu Hà
54
quả trong giảng dạy, học tập và quản trị ở các cơ sở đào tạo giáo viên. Để có được tầm
nhìn và triết lí về ICT, các cơ sở đào tạo giáo viên cần có: Tầm nhìn xuyên suốt cho ICT
trong đào tạo; triết lí nền tảng cho việc dạy và học với ICT và đánh giá về ICT trong tầm
nhìn đào tạo.
Tầm nhìn xuyên suốt cho ICT trong đào tạo: Churchill và Lim (2007) chỉ ra rằng một
rào cản đối với hội nhập ICT trong đào tạo là sự thiếu tầm nhìn toàn diện của các nhà lãnh
đạo. Quá trình này cần bao quát tầm nhìn của tất cả các thành viên của nhà trường thay vì
tầm nhìn từ trên xuống do ban giám hiệu áp đặt. Bên cạnh đó, tầm nhìn phải được xây
dựng tương thích với môi trường xã hội, việc hiểu biết toàn diện hơn về hiện tại và xu
hướng trong tương lai đưa đến một tầm nhìn xuyên suốt mạnh mẽ và phù hợp hơn về ICT
trong giáo dục.
Hình 1. Chiến lược của cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển
năng lực ICT cho sinh viên
- Triết lí nền tảng cho việc dạy và học với ICT: là một phần không thể tách rời của
mối liên kết bên trong giữa các giảng viên cốt cán và các nhà lãnh đạo trong các cơ sở đào
tạo giáo viên nhằm kiểm tra lại vai trò của họ theo thời gian. Hầu hết các chuyên gia công
nghệ giáo dục ủng hộ việc sử dụng ICT để tạo thuận lợi cho các quá trình kiến tạo kiến
thức (Selwyn, 2008). Kiến thức từ quan điểm kiến tạo là những ý tưởng dự kiến về thế
giới và học tập là một quá trình xây dựng sự hiểu biết tốt hơn về các hiện tượng. Sự hiểu
biết về niềm tin và quan điểm hiện tại của các nhà giáo dục và quản lí có thể phục vụ để
xây dựng triết lí cơ bản của tầm nhìn xuyên suốt.
- Đánh giá về ICT trong tầm nhìn đào tạo: Tầm nhìn của các cơ sở đào tạo giáo viên
dựa trên các giá trị cơ bản cần được kiểm chứng qua thời gian. Tuy nhiên, do xu hướng
hiện nay của các thiết bị điện tử có mặt khắp nơi và sự xuất hiện của các công nghệ 4.0,
ICT trong tầm nhìn đào tạo phải liên tục được xem xét lại để phù hợp. Tầm nhìn về ICT
trong đào tạo do các trường sư phạm phát triển có thể cần được xem xét khi nhu cầu của
trường học và xã hội thay đổi cùng với sự tiến bộ của ICT.
2.3.2. Chương trình đào tạo, đánh giá và thực tập
Các khóa học đào tạo giáo viên về ICT thiết kế tốt sẽ trang bị cho giáo viên các năng
lực ICT và năng lực sư phạm thiết yếu để tích hợp ICT vào giảng dạy nội dung.
Tầm nhìn và triết lí
Chương trình đào tạo;
đánh giá và thực tập
Phát triển nghề của
trưởng khoa và giảng viên
sư phạm chủ chốt
Kế hoạch, cơ sở hạ
tầng, tài nguyên và hỗ
trợ ICT
Truyền thông
và quan hệ
đối tác
Nghiên cứu
và đánh giá
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
55
- Chương trình đào tạo: Để thiết kế một chương trình giảng dạy hiệu quả cho đào tạo
giáo viên, phân tích đầy đủ các hướng dẫn là bắt buộc. Các nhà nghiên cứu đã xác định một
loạt bối cảnh, biến số nhằm thúc đẩy hoặc hạn chế việc sử dụng ICT trong quá trình thực tế.
Bối cảnh ảnh hưởng đến việc sử dụng ICT của giáo viên bao gồm quyền truy cập, thời gian
và hỗ trợ từ các giáo viên cố vấn và các đồng nghiệp khác. Các biến số quan trọng bao gồm
quan điểm sư phạm, năng lực cá nhân và kĩ năng máy tính. Những biến số này cần được xem
xét trong thiết kế chương trình đào tạo. Trong thiết kế chương trình đào tạo, các nhà giáo dục
phải phân tích cách các giáo viên cốt cán sử dụng ICT hiệu quả trong trường học. Trong việc
thiết kế chương trình giảng dạy, quyết định về phương pháp sư phạm là quan trọng.
Những phát triển gần đây trong lĩnh vực này cho thấy các khóa học nhập môn ICT đã dần
thay đổi từ một phương pháp đào tạo kĩ năng truyền thống sang hướng tiếp cận học tập
dựa trên giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, hầu hết các khóa học nhập môn về công nghệ trong
giáo dục đều kết hợp cả hai cách tiếp cận dựa trên các mục tiêu của các hoạt động. Ngoài
ra, theo các chuyên gia nên mô hình hóa việc sử dụng ICT trong các lớp đào tạo giáo viên.
Mô hình hóa có thể giải quyết các vấn đề cho các giáo viên không có khả năng hình dung
cách thức sử dụng ICT trong lớp học và nó có thể thúc đẩy những thay đổi sâu sắc trong
niềm tin của họ. Tùy thuộc vào nội dung và đặc điểm của người học, việc sử dụng ICT có
ý nghĩa bao gồm việc chọn công nghệ tối ưu để thúc đẩy xây dựng kiến thức trong sinh viên.
- Đánh giá: Nhiệm vụ đánh giá được thiết kế tốt sẽ thu hút sinh viên trong quá trình
học tập. Thực hành đánh giá từ các bài kiểm tra đơn lẻ đến danh mục kết hợp. Có bốn
thành tố của việc đánh giá, bao gồm: năng lực; thái độ và niềm tin đối với công nghệ;
lí luận sư phạm và sử dụng ICT thực tế trong các lớp học (Haydn & Barton, 2007).
Các thành phần này có thể được đánh giá bằng phân tích dự án, khảo sát, tài liệu tranh
luận và quan sát trong lớp học, tất cả có thể là một phần của danh mục kết hợp.
- Thực tập: Thực tiễn hoặc kinh nghiệm thực tập đã được xem là một thành phần
quan trọng của đào tạo giáo viên vì nó cung cấp một môi trường học tập xác thực cho các
giáo sinh để thực hành về kiến thức lí thuyết và thực hành các kĩ năng họ có được. Do đó,
thông thường các cơ sở đào tạo giáo viên khuyến khích giáo sinh sử dụng ICT và phản
hồi về việc sử dụng nó trong lớp học. Tuy nhiên, hiệu quả của việc thúc đẩy sử dụng ICT
trong thực tế phụ thuộc vào người giám sát của trường đại học và sự hỗ trợ của giáo viên
hướng dẫn có sự tiếp cận đầy đủ với ICT.
2.3.3. Phát triển chuyên môn của trưởng khoa, giảng viên sư phạm chủ chốt và nhân viên
hỗ trợ
Vai trò của trưởng khoa, các giảng viên chủ chốt và nhân viên hỗ trợ là then chốt cho
sự thành công của các khía cạnh trước đó. Mặc dù trưởng khoa và giảng viên chủ chốt là
chuyên gia các ngành học tương ứng, nhưng nhiều người trong số họ thiếu kinh nghiệm
sử dụng ICT cho giảng dạy và học tập. Do đó, sự phát triển nghề nghiệp liên tục của
trưởng khoa, các giảng viên chủ chốt và nhân viên hỗ trợ về ICT trong đào tạo là cần thiết.
Khía cạnh này tập trung vào hai trọng tâm đó là: Văn hóa phát triển nghề nghiệp và điều
kiện thuận lợi để phát triển ICT một cách chuyên sâu.
- Văn hóa phát triển nghề nghiệp: Để các giáo viên chuyển đổi thực tiễn liên quan
đến việc sử dụng ICT, họ phải có cơ hội tham gia vào các cuộc trò chuyện phản ánh về
các thực tiễn hiện có của họ và tạo ra kiến thức có thể sử dụng để thông báo cho các hoạt
động trong tương lai (Schon, 1992). Các cơ sở đào tạo giáo viên vì vậy phải nhấn mạnh
Nguyễn Thu Hà
56
việc kiểm tra các hoạt động dạy, học và sự thấu hiểu được sự phức hợp của môi trường
học tập qua trung gian ICT của các trưởng khoa, giảng viên chủ chốt và nhân viên hỗ trợ
ICT như là một phần của văn hóa phát triển nghề nghiệp của họ. Trao quyền cho nhân
viên ở các cơ sở đào tạo giáo viên để quản lí quỹ đạo phát triển nghề nghiệp của riêng họ
với tư cách là trưởng khoa, giảng viên chủ chốt và nhân viên hỗ trợ ICT có thể nâng cao
hiệu quả của các chương trình phát triển nghề nghiệp. Điều này phù hợp với các nghiên
cứu nhấn mạnh sự cần thiết của các hoạt động phát triển nghề nghiệp được điều chỉnh
theo nhu cầu của phát triển bản thân. Các cơ sở đào tạo giáo viên có thể cần kiểm tra các
giáo sinh sư phạm, năng lực giáo dục và khả năng ICT của họ, đó là kết quả dự kiến của
các hoạt động phát triển nghề nghiệp của nhân viên. Kèm cặp và huấn luyện đồng đẳng đã
trở thành một thành phần quan trọng trong phát triển nghề nghiệp của các giảng viên chủ
chốt. Bản chất hợp tác của cố vấn và huấn luyện đồng đẳng cung cấp cho các giảng viên
chủ chốt sự giúp đỡ, hỗ trợ đồng đẳng, tin tưởng, thừa nhận và kiểm soát hoạt động học
tập của họ.
- Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ICT chuyên sâu: Nhận thức của các giảng viên
chủ chốt, trưởng khoa và nhân viên hỗ trợ về ICT trong giáo dục rất quan trọng trong việc
xác định sự tham gia của họ vào các hoạt động phát triển nghề nghiệp. Những nhận thức
này có thể được định hình bởi hệ thống niềm tin của họ về đào tạo giáo viên trong các
trường sư phạm, giảng dạy tốt về giáo dục trong bối cảnh của trường, và vai trò của ICT
trong cuộc sống hàng ngày nhằm tạo môi trường thuận lợi, các phần thưởng và cơ chế
khuyến khích cho việc phát triển nghề nghiệp cũng là một điều kiện quan trọng khác để xây
dựng năng lực của họ trong việc sử dụng ICT cho giảng dạy, học tập và quản trị.
2.3.4. Kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ công nghệ thông tin và truyền thông
Thiết lập kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ phù hợp là những thành phần
quan trọng trong chiến lược tổng thể về tích hợp ICT.
- Kế hoạch ICT: Việc thực hiện cơ sở hạ tầng, tài nguyên và chiến lược hỗ trợ ICT
phải được định hướng theo kế hoạch ICT được phát triển một cách cẩn thận và có chiến
lược. Đây là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp, tư vấn và nguồn tài chính cẩn
thận. Điều này cũng đòi hỏi sự hiểu biết và liên kết giữa nhiều khía cạnh văn hóa xã hội
và các thành phần không thể thiếu như thể chế chính sách, quan điểm của lãnh đạo, kiến
thức về công nghệ hiện tại và mới nổi, cũng như các lực lượng bên ngoài như chính sách
của chính phủ và phát triển toàn cầu.
- Cơ sở hạ tầng, phần cứng và tài nguyên ICT: Thiết lập cơ sở hạ tầng ICT đòi hỏi
phải xem xét cơ sở hạ tầng vật lí sẵn có (như phòng cho máy chủ, phòng máy tính/phòng
thí nghiệm, điểm mạng, trạm phát wifi), nguồn nhân lực để thiết lập và duy trì cơ sở hạ
tầng này và có sẵn nguồn tài chính để hỗ trợ một dự án. Các thành phần chính của cơ sở
hạ tầng và phần cứng như vậy bao gồm mạng, truy cập internet trong và ngoài khuôn viên
trường, phòng máy tính/phòng thí nghiệm và máy tính xách tay cho giảng viên và sinh
viên và một số công cụ phần mềm cần thiết để dạy và học hiệu quả. Lựa chọn, cài đặt, cấu
hình và quản lí phù hợp các công cụ này sẽ đảm bảo phát triển năng lực các cơ sở đào tạo
giáo viên để hỗ trợ việc dạy và học không chỉ trong môi trường lớp học mà còn ở mọi lúc,
mọi nơi. Hệ thống công cụ này sẽ hỗ trợ quản lí tài sản kĩ thuật số, phát triển khóa học,
hoạt động và quản lí học tập.
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
57
- Hỗ trợ ICT: Sự hỗ trợ ở đây bao gồm hỗ trợ cho các giảng viên chủ chốt (ví dụ: hỗ
trợ thiết kế hướng dẫn, hỗ trợ kĩ thuật, hỗ trợ sản xuất phương tiện truyền thông), hỗ trợ
ICT cho giảng viên và hỗ trợ ICT cho quản trị. Danh sách các nhân viên hỗ trợ có thể bao
gồm: chuyên gia mạng, máy tính cán bộ kĩ thuật, lập trình viên hoặc kĩ sư hệ thống, giảng
viên, chuyên gia truyền thông/nghe nhìn và lập trình web.
2.3.5. Truyền thông và quan hệ đối tác
Truyền thông và quan hệ đối tác là hai trụ cột phụ thuộc lẫn nhau hỗ trợ năng lực của
các cơ sở đào tạo giáo viên để phát triển ICT trong đào tạo. Giao tiếp hiệu quả giữa các cơ
sở đào tạo giáo viên và các tổ chức khác là một khía cạnh quan trọng của việc xây dựng
quan hệ đối tác, nơi sự tin tưởng và tôn trọng được phát triển giữa các bên liên quan khác
nhau. ICT có thể tăng cường truyền thông như vậy bằng cách giao tiếp mọi lúc, mọi nơi,
cả đồng bộ và không đồng bộ. Bằng chứng gần đây cho thấy các cơ sở đào tạo giáo viên
với các chương trình tích hợp chặt chẽ liên quan đến trường học, các bộ /ngành giáo dục
và khu vực tư nhân có nhiều khả năng tạo ra những giáo viên hiệu quả, những người ở lại
giảng dạy lâu hơn (Darling-Hammond, 2006).
- Phương pháp tiếp cận xuyên suốt hướng tới quan hệ đối tác: Mặc dù quan hệ đối
tác với các bên liên quan khác của đào tạo giáo viên mang lại lợi ích đáng kể cho các
trong việc xây dựng năng lực về ICT trong đào tạo, thiết lập và duy trì quan hệ đối tác
thành công mới là thách thức. Các nghiên cứu đã xác định hai thách thức chính mà các cơ
sở đào tạo giáo viên phải đối mặt - vấn đề hậu cần và sự khác biệt về tổ chức. Vấn đề thứ
nhất bao gồm thời gian, khen thưởng, và tài trợ; vấn đề thứ hai bao gồm các nhiệm vụ, cơ
cấu tổ chức và văn hóa. Vì vậy, bên cạnh việc động viên các giảng viên và trưởng khoa
cũng cần thiết lập quan hệ đối tác, các cơ sở đào tạo giáo viên phải cung cấp cho họ sự hỗ
trợ để giải quyết những thách thức này. Vì việc thiết lập quan hệ đối tác tốn kém thời gian,
hệ thống khen thưởng và khuyến khích do các cơ sở đào tạo giáo viên phát triển là rất
quan trọng để đảm bảo sự tham gia bền vững của các giảng viên và trưởng khoa, cũng
như các đối tác của họ. Đồng thời, các nguồn tài chính phải được các cơ sở đào tạo giáo
viên dành riêng để khởi động và thể chế hóa các mối quan hệ đối tác. Mặc dù tài trợ bên
ngoài có thể được bảo đảm cho một số quan hệ đối tác này, nhưng tài trợ từ bên trong các
cơ sở đào tạo giáo viên là cần thiết để thể hiện cam kết của mình với các đối tác. Các cơ
sở đào tạo giáo viên cũng phải xây dựng mối quan hệ lâu dài với các trường học và các cơ
quan giáo dục nơi sự tin tưởng và cởi mở là mấu chốt của mối quan hệ. Thất bại trong
việc thiết lập kết nối giữa các trường và các cơ sở đào tạo giáo viên chắc chắn dẫn đến
khoảng cách giữa lí thuyết và thực hành cho trong việc đào tạo giáo viên. Điều này dẫn
đến khó khăn trong việc tìm kiếm các vị trí thực tế cho giáo sinh trước để có được kinh
nghiệm chuyên môn rất cần thiết cho việc tích hợp kiến thức lí thuyết và kinh nghiệm
thực tế. Do đó, một mô hình hợp tác các cơ sở đào tạo giáo viên với trường mạnh mẽ là
rất quan trọng để hỗ các giáo viên trải nghiệm nghề nghiệp. Mối quan hệ đối tác tốt giữa
các trường sư phạm cũng rất quan trọng đối với phát triển nghề đang diễn ra đối với cả
giáo viên hướng dẫn và giáo sinh trong trường sư phạm cũng như các giáo viên trẻ. Giáo
viên hướng dẫn phải được trang bị năng lực sư phạm để giúp giáo viên trẻ và các giảng
viên sư phạm trang bị kiến thức thực tế về các hoạt động và thực hành hàng ngày của nhà
trường. Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo giáo viên và các ban ngành giáo
Nguyễn Thu Hà
58
dục cũng góp phần tăng cường thêm quan hệ đối tác nhằm chia sẻ một mục tiêu chung mà
một trong hai bên không thể đạt được một cách độc lập.
- Cam kết với cộng đồng địa phương và toàn cầu: Hội nhập kinh tế, sinh thái, xã hội,
chính trị và văn hóa giữa các quốc gia kết hợp với sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ
đã mang lại những biến đổi là một phần của toàn cầu hóa. Ngày nay, việc mở ra một sự
kiện ở một nơi trên thế giới ảnh hưởng đến cuộc sống ở những nơi khác. Trong một trật tự
thế giới mới như vậy, trẻ em và thanh thiếu niên của chúng ta phải sẵn sàng trở thành tác
nhân thay đổi thay vì chỉ là người quan sát thụ động các sự kiện thế giới. Các cơ sở đào
tạo giáo viên phải bắt đầu thu hút các giáo sinh tham gia vào các hoạt động và trò chuyện
về việc chuẩn bị cho sinh viên hiểu bản chất của các vấn đề toàn cầu và đóng vai trò tích
cực trong việc giải quyết chúng ngoài bốn bức tường của lớp học. Các cơ sở đào tạo giáo
viên sau đó có thể bắt đầu thu hút các cộng đồng địa phương và toàn cầu, được hỗ trợ bởi
ICT và thực hiện các cam kết đó như là một phần không thể thiếu trong chương trình
giảng dạy và đánh giá đào tạo giáo viên.
2.3.6. Nghiên cứu và đánh giá
- Thực tiễn dựa trên các chính sách liên quan đến ICT: Xây dựng và duy trì năng lực
nghiên cứu thể chế đặc biệt quan trọng trong thế giới đương đại khi ICT liên tục tạo ra
những cơ hội và thách thức mới cho giáo dục. Nghiên cứu liên tục là cần thiết đi đôi với
những tiến bộ về ICT để cung cấp bằng chứng cho sự phát triển và thay đổi trong chính
sách và thực tiễn. Thiết lập các trung tâm nghiên cứu có liên quan là một phương tiện
quan trọng khác để tạo ra bằng chứng cần thiết cho tác động của nhiều cách thức sử dụng
ICT trong các lớp học. Ở cấp độ tập trung hơn, các cơ sở đào tạo giáo viên có thể thực
hiện các nghiên cứu chính thức về sử dụng ICT trong các lớp học và ảnh hưởng đến việc
dạy, học và đánh giá trong chương trình đào tạo giáo viên. Các nghiên cứu được thực hiện
trong các trường học với học sinh và giáo viên cung cấp những hiểu biết quan trọng cho
ứng dụng ICT và cho thấy các khả năng và phương pháp tiếp cận cho sự phát triển nghề
nghiệp của các giáo viên môi trường gáo dục. Các hội thảo thường xuyên, video trực
tuyến về nghiên cứu trường hợp và các nền tảng trực tuyến phổ biến có thể giúp ích trong
khía cạnh này.
- Đánh giá: Các hoạt động nghiên cứu cần được liên kết chặt chẽ với các quy trình
kiểm tra và đánh giá của một tổ chức đào tạo giáo viên trong các hoạt động, chính sách,
giảng dạy, học tập, quản lí và quản lí ICT. Nghiên cứu có thể cung cấp dữ liệu hữu ích để
định giá và đề xuất các lĩnh vực cần chú ý. Đánh giá được tổ chức thường xuyên và phù
hợp, cũng như theo dõi tiếp theo về kết quả của nó, là một công cụ quan trọng để cải thiện
và phát triển hệ thống. Một chính sách và thông lệ về ICT hiện hành cần phải được kiểm
tra và đánh giá thường xuyên để xác định các yếu tố cần cải thiện và sửa đổi. Điều quan
trọng là tất cả các bên liên quan chính từ các cơ sở đào tạo giáo viên đều tham gia vào
việc kiểm toán, xác định các khoảng trống và các lĩnh vực cần cải tiến, và sửa đổi. Ngoài
ra, các chuyến thăm tới các tổ chức khác và đánh giá các thông lệ tốt ở nơi khác, có thể
đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá tổng thể các hoạt động ICT và chính sách.
Ngoài ra, một cơ sở đào tạo giáo viên sẽ được hưởng lợi từ việc đánh giá thường xuyên
việc dạy và học về sự phù hợp tiềm năng, sự phù hợp của nội dung chương trình giảng
dạy và sự phù hợp của các mặt chính yếu trong thực hành sư phạm và sử dụng ICT. Đánh
giá giảng dạy và học tập thường xuyên có thể được thực hiện thông qua các quy trình
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
59
đánh giá giờ giảng của giáo viên, quan sát trong lớp học, đánh giá hiệu quả của giáo viên,
hay từ các phản biện bên ngoài. Bên cạnh đánh giá tổng hợp, sẽ rất hữu ích nếu các tổ
chức xây dựng tiêu chí đánh giá chính thức của riêng mình cho việc dạy và học. Đánh giá
quá trình sẽ cho phép cải tiến liên tục trong việc dạy và học và khi các khu vực liên quan
để cải tiến được xác định. Giáo viên phải đóng vai trò hàng đầu trong việc quản lí và tạo
điều kiện đánh giá quá trình, và thực hiện sửa đổi cần thiết. Trong mọi trường hợp, dữ liệu
và kết quả đánh giá phải được xem xét cẩn thận và các cuộc thảo luận về khả năng sửa đổi
và cải tiến trong giảng dạy và học tập nên được thực hiện đặt trong các phòng ban và ủy
ban liên quan.
Tóm lại, sáu khía cạnh và các mối quan hệ liên quan của nó là các phạm trù rộng lớn
của các hoạt động chiến lược mà các cơ sở đào tạo giáo viên cần phải tham gia để duy trì
sự phù hợp trong điều kiện hiện nay nhằm phát triển năng lực ICT. Mỗi khía cạnh có
những thách thức riêng của nó. Khi đặt lại với nhau, những thách thức này có thể nan giải
và việc thực hiện khó có thể suôn sẻ. Nhiều sai lệch và mâu thuẫn có khả năng xuất hiện.
Vì vậy, điều cần thiết là các cơ sở đào tạo giáo viên nên bắt tay vào các quy trình thực
hiện và lập kế hoạch hợp tác và tập thể để thúc đẩy thay đổi hệ thống cần thiết. Thực hiện
khung hành động này cần phải được quản lí và lãnh đạo bởi tầm nhìn tổng thể và sẵn sàng
cho sự tiến bộ, bền vững, phù hợp và đổi mới, và xem xét các nhu cầu cụ thể và bản chất
của bối cảnh cụ thể nhất là trong bức tranh năng động thời đại, sự tiến bộ không ngừng
công nghệ và thay đổi nhu cầu của các ngành công nghiệp và xã hội. Khung năng lực này
rất linh hoạt và sẵn sàng điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu mới nổi của đào tạo giáo viên
trong các lĩnh vực khác nhau. Sáu khía cạnh của khung được thiết kế với ý tưởng “linh
hoạt và với mục tiêu thúc đẩy các cải tiến liên tục của các cơ sở đào tạo giáo viên”.
2.4. Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công
nghệ thông tin và truyền thông đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức do toàn cầu hoá, cách mạng số hóa
và ICT đưa đến. Không còn cách nào khác là phải tiến hành cải cách triệt để đổi mới sư
phạm. Trên cơ sở đó, cần đề xuất các giải pháp mới, thiết thực và hữu hiệu trong đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm nhằm thực sự nâng cao vai trò, vị thế của
ngành sư phạm trong công cuộc đổi mới giáo dục. Một thuận lợi lớn là ngành sư phạm của
chúng ta được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đảng
cộng sản Việt Nam đánh giá cao vai trò người thày trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn lãnh
đạo đúng đắn, chỉ đạo kịp thời, sắc bén và ban hành nhiều chủ trương, chính sách hợp lí.
Gần đây nhất, Nghị quyết số 29/2013 của BCH TW Đảng về giáo dục, nhấn mạnh: cần tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học theo hướng hiện đại” (2013). Đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo sư
phạm ngày càng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Các thầy cô giáo vốn có lòng yêu
nghề, luôn coi trọng tri thức, chăm lo, dìu dắt thế hệ trẻ; lấy dạy chữ, dạy người làm lẽ
sống của mình. Đây là những người luôn coi trọng danh dự, lương tâm, xác lập vị trí của
mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, học vấn và thái độ tận tụy cống hiến. Tuy nhiên,
chúng ta đang phải đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ của toàn cầu
hóa, quốc tế hóa và cách mạng số trên phạm vi toàn cầu cũng như trên toàn quốc. Hiện
Nguyễn Thu Hà
60
nay các trường ĐHSP trên cả nước đã có sự chuẩn bị ở tất cả các mặt để đáp ứng yêu cầu
của bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 [5].
- Tầm nhìn và triết lí chiến lược: Các trường đã có kế hoạch và triển khai xây dựng,
tuyên bố sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược phát triển Nhà trường qua từng giai đoạn, trong
đó việc ứng dụng ICT trong giảng dạy, nghiên cứu và quản trị nhà trường có vai trò quan
trọng nhằm đào tạo ra những sinh viên vừa có năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm,
nhất là năng lực ICT.
- Chương trình: Chương trình đào tạo là yếu tố then chốt cho việc đảm bảo chất
lượng đào tạo. Tất cả các chương trình đều có quy trình thiết kế, phát triển, thẩm định,
thực hiện, giám sát, điều chỉnh và cập nhật chương trình, gắn kết với sứ mạng, tầm nhìn
chiến lược, mục tiêu của trường và với nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Các trường đều
chú trọng đến việc ứng dụng ICT trong giảng dạy như việc khai thác, kết nối thông tin và
đưa ra các chương trình với hình thức học tập trực tuyến.
- Đánh giá và công nhận kết quả học tập: các trường đã chuyển đổi hoàn toàn sang
phương thức đào tạo theo tín chỉ, thực hiện đồng bộ từ khâu xây dựng đề cương học phần, tổ
chức đăng ký lớp học phần, công nhận kết quả học tập tích lũy tín chỉ, đảm bảo thực hiện
đúng qui định về đào tạo theo học chế tín chỉ. Hoạt động đánh giá và công nhận kết quả hoạt
động đã đi vào nề nếp, quy trình rõ ràng, gắn với việc ứng dụng ICT.
- Phát triển nghề của trưởng khoa và giảng viên sư phạm chủ chốt: Các trường ĐHSP
luôn coi trọng việc hỗ trợ công tác dạy học cho giảng viên trong trường. Các trường luôn
luôn nỗ lực không ngừng để tạo ra một hệ thống hỗ trợ dạy học hiệu quả, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho các giảng viên tập sự và giảng viên trẻ làm quen với môi trường giáo dục
đại học, không ngừng cố gắng trong rèn luyện và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ của
bản thân. Giảng viên được khuyến khích, tạo điều kiện để thực hiện vai trò là người
hướng dẫn một cách hiệu quả, đặc biệt là ứng dụng ICT trong giảng dạy, nghiên cứu và
phát triển chương trình.
- Kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ ICT: Các nguồn lực bao gồm nguồn
lực tài chính và nguồn nhân lực được các trường xác định là chìa khóa cho sự thành công
để từ đó nhà trường có kế hoạch, chính sách và cơ chế hỗ trợ liên tục nhằm cải tiến không
ngừng để sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả, hướng đến đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao có trình độ đại học và trên đại học, bồi dưỡng nhân tài cho hệ thống giáo dục
quốc dân và xã hội; nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học giáo dục và khoa học ứng dụng
đạt trình độ tiên tiến; cung cấp dịch vụ giáo dục và khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Các trường đã nỗ lực trong công
tác xây dựng hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại, tiến hành trang bị, lập kế hoạch
bảo trì và lên phương án sử dụng phù hợp với các mục đích đào tạo của Trường, phù hợp
với nhiều phương thức, phương pháp dạy và học. Hạ tầng ICT duy trì thường xuyên và đã
cơ bản đáp ứng nhu cầu cho cán bộ làm việc, giảng dạy, học tập và nghiên cứu.
- Truyền thông và quan hệ đối tác: Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra mạnh mẽ, sự trao đổi và hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức hướng tới các
chuẩn mực quốc tế là điều tất yếu không thể đảo ngược. Vì vậy, hoạt động đối ngoại được
các trường ĐHSP xác định là vấn đề rất quan trọng để kết nối nhà trường với các địa
phương ở trong nước, các tổ chức giáo dục trong và ngoài nước, nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tiệm cận và bắt kịp xu hướng phát triển với xu
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin
61
hướng phát triển giáo dục trên thế giới. Các trường mở rộng quan hệ hợp tác tích cực, chủ
động với nhiều đối tác trong và ngoài nước ở nhiều cấp độ và trên nhiều lĩnh vực. Các
lĩnh vực trao đổi hợp tác rất đa dạng từ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, trao đổi
học thuật, chuyển giao công nghệ cho tới các hoạt động phục vụ cộng đồng. Hoạt động
hợp tác, trao đổi, chia sẻ của nhà trường với các đối tác ngày càng mở rộng đã mang lại vị
thế, uy tín của nhà trường ngày càng cao ở trong nước cũng như trên trường quốc tế.
- Hợp tác quốc tế: Các trường có chủ trương, chính sách khuyến khích cán bộ viên
chức phát huy tính chủ động, tích cực trong các hoạt động kết nối, phát triển giao lưu quốc
tế. Các hoạt động liên kết, ký kết hợp tác với các Trường đại học khác trên thế giới luôn
được duy trì và phát triển. Đội ngũ giảng viên thông thạo ngoại ngữ ngày càng tăng.
- Thông tin và truyền thông: Các thông tin về các hoạt động của các trường (đào tạo,
công tác sinh viên, khảo thí, thanh tra, đoàn thể) được đăng tải thường xuyên tại trang
điện tử của Trường và cổng thông tin của các đơn vị; được các đơn vị báo, đài chú ý đưa
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Nghiên cứu và đánh giá: được thể hiện rõ trong kế hoạch hoạt động khoa học công
nghệ hàng năm, kế hoạch khoa học công nghệ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các chính
sách dành cho các hoạt động khoa học công nghệ của cán bộ, giảng viên. Việc nghiên cứu
và đánh giá của các trường sư phạm hiện nay đều có sự ứng dụng ICT trong quá trình
triển khai và thực hiện.
3. Kết luận
Có thể nói, cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về ICT đã làm
thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới. Việc thay đổi vai trò của
người giáo viên trong thời đại mới dẫn công tác đào tạo giáo viên trong các trường sư
phạm ở Việt Nam cần được nhìn nhận lại và đưa ra những bước đi phù hợp đáp ứng được
công cuộc đổi mới này. Theo đó, để đào tạo được sinh viên sư phạm trở thành người giáo
viên trong thời đại cách mạng 4.0 với phẩm chất và năng lực chuyên môn và sư phạm,
nhất là có được năng lực công nghệ thông tin thì các trường sư phạm phải nhanh chóng
đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp dạy-học, phương thưc đánh giá kết
quả đầu ra của sinh viên, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp
và định hướng vào công nghệ mới. Cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo dục tiên tiến,
áp dụng đào tạo online, kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề cho sinh viên, giáo viên,
giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng mở rộng và thống nhất trong toàn quốc và trên
toàn cầu. Chỉ có như vậy mới có thể tiếp tục đổi mới các giải pháp chiến lược quốc gia
mới cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng mở, kết hợp đào tạo ban đầu với đào tạo
liên tục; Đào tạo giáo viên ở trường sư phạm phải gắn với thực tiễn dạy-học ở trường phổ
thông; Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học tiên tiến; kiện toàn công tác quản lí nhà
giáo, nhà trường; nâng cao đãi ngộ người thày có trình độ, am hiểu ứng dụng công nghệ;
Tăng cường hội nhập quốc tế, hợp tác với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế
giới và trong khu vực; Tôn vinh nghề dạy học đi đôi với đề cao đổi mới vai trò người thầy;
Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút và sử dụng mạnh mẽ các
nguồn đầu tư nước ngoài cóp sẵn cho đào tạo giáo viên nhằm nâng cao năng lực nghề dạy
học trong kỉ nguyên số hóa.
Nguyễn Thu Hà
62
Lời cảm ơn. Bài báo là sản phẩm Nghiên cứu của đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ
năm 2018 “Giải pháp phát triển năng lực sinh viên đại học sư phạm trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp 4.0”. Mã số: B2018-SPH-01HT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cher Ping LIM, Ching Sing CHAI, Daniel CHURCHILL, A framework for
developing pre‐service teachers’ competencies in using technologies to enhance
teaching and learning, Educational Media International. 2-June 2011.
[2] Xi Bei XIONG và Cher Ping LIM (The Hong Kong Institute of Education, Hong
Kong S.A.R). Rethinking the impacts of teacher education program on building the
ICT in education competencies of pre-service teachers: A case of teacher education
in Mainland China. 2014.
[3] UNESCO, 2011. UNESCO ICT Competency Framework for Teachers, France.
[4] Thái Hoài Minh, Trịnh Văn Biểu. Xây dựng khung năng lực ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy học cho sinh viên sư phạm hóa học. Tạp chí
Khoa học ĐHSP Thành phố HCM. Số 7 (85) năm 2016.
[5] Báo cáo tự đánh giá theo bộ chỉ số phát triển năng lực trường sư phạm (TEIDI)
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại
học Sư phạm Thái Nguyên, 2017.
ABSTRACT
Preparation of the education university for development of information technology
and communication competence for students to meet the requirements
on industrial revolution 4.0
Nguyen Thu Ha
The Institute For Educational Research, Hanoi National University of Education
Industrial Revolution 4.0 with leaps and bounds in ICT has changed the mission and
goals of education in the new era, especially changing the role of teachers. Accordingly,
to become a teacher in the 4.0 era, in addition to core qualities and competencies such as
global citizenship, creativity, critical thinking, cooperation, lifelong learning, requires ICT
competency. ICT competence plays an important role, allowing teachers to exploit,
connect and teach in a virtual reality environment. This poses a problem for pedagogical
universities how to train ICT competency for students when they graduate, they can do
well the functions and duties of teachers in the 4.0 era. The article will discuss this
content with three main points: understanding ICT competency; analyzing typical
experiences of countries in Asia and the Pacific in building teacher education institutions
towards developing ICT competency for pedagogical students; and contrast the
experience of regional countries to see how well the universities in Vietnam have
prepared in developing ICT competency for students to meet the requirements of
industrial revolution 4.0.
Keywords: ICT competency, industrial revolution 4.0, training teachers, pedagogical
students, teacher education institutions.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5510_0023_14_nthab2_8693_2132660.pdf