Tài liệu Sự ảnh hưởng của ác cảm của người tiêu dùng đến xu hướng hành vi của họ đối với hàng hóa của một quốc gia - Dương Nguyễn Cẩm Thanh: 29
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ÁC CẢM CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ĐẾN
XU HƯỚNG HÀNH VI CỦA HỌ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CỦA MỘT
QUỐC GIA
Dương Nguyễn Cẩm Thanh*, Trịnh Hoàng Anh**
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá sự tác động của ác cảm của người tiêu dùng đến
xu hướng hành vi của họ đối với hàng hóa của Trung Quốc. Các phương pháp trong nghiên cứu bao
gồm: Phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá, phân tích hồi quy tuyến
tính bội. Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu là 200. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, ác cảm kinh tế và ác cảm chính trị có tác động tiêu cực đến xu hướng hành vi của người tiêu
dùng. Ác cảm chiến tranh không có ảnh hưởng đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng.
Từ khóa: ác cảm của người tiêu dùng, ác cảm kinh tế, ác cảm chính trị, ác cảm chiến tranh, xu
hướng hành vi người tiêu dùng.
INFLUENCE OF THE CONSUMPTION OF THE CONSUMER TO THE TREND
OF THEIR BEHAVIOR FOR THE GOODS A COUNTRY
ABSTRACT
This...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự ảnh hưởng của ác cảm của người tiêu dùng đến xu hướng hành vi của họ đối với hàng hóa của một quốc gia - Dương Nguyễn Cẩm Thanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29
SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ÁC CẢM CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ĐẾN
XU HƯỚNG HÀNH VI CỦA HỌ ĐỐI VỚI HÀNG HÓA CỦA MỘT
QUỐC GIA
Dương Nguyễn Cẩm Thanh*, Trịnh Hoàng Anh**
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu đánh giá sự tác động của ác cảm của người tiêu dùng đến
xu hướng hành vi của họ đối với hàng hóa của Trung Quốc. Các phương pháp trong nghiên cứu bao
gồm: Phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá, phân tích hồi quy tuyến
tính bội. Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện với cỡ mẫu là 200. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, ác cảm kinh tế và ác cảm chính trị có tác động tiêu cực đến xu hướng hành vi của người tiêu
dùng. Ác cảm chiến tranh không có ảnh hưởng đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng.
Từ khóa: ác cảm của người tiêu dùng, ác cảm kinh tế, ác cảm chính trị, ác cảm chiến tranh, xu
hướng hành vi người tiêu dùng.
INFLUENCE OF THE CONSUMPTION OF THE CONSUMER TO THE TREND
OF THEIR BEHAVIOR FOR THE GOODS A COUNTRY
ABSTRACT
This study aims to assess the impact of consumer animosity on their behavioral trends on Chinese
goods. Cronbach’s alpha, exploratory factor analysis, multiple linear regression were employed for
data analysis. A sample of 200 was collected by convenience sampling. Results show that economic
and political animosity negatively influences consumer behavior trends. War animosity has no impact
on consumer behavior trends.
Keywords: Consumer animosity, economic animosity, political animosity, war animosity,
consumer behavior trends.
1. GIỚI THIỆU
Khi một quốc gia có những ảnh hưởng
hay tác động tiêu cực đến một quốc gia khác
thì người dân tại quốc gia bị ảnh hưởng sẽ có
những cảm nhận, suy nghĩ dưới nhiều góc độ
nhìn nhận khác nhau. Mỗi cách nhìn nhận, đánh
giá sẽ mang đến những cảm xúc cá nhân khác
nhau và đồng thời sẽ có ảnh hưởng đến cả xu
hướng hành vi tiêu dùng của họ đối với quốc gia
gây ra những ảnh hưởng đó (Võ Thị Quý & Cao
Quốc Việt, 2015).
Trung Quốc là một trong những đối tác
lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua.
Nhìn chung từ năm 2010 đến hết năm 2017, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
Trung Quốc đạt gần 445 tỷ USD, trong đó nhập
khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam đạt
khoảng 312 tỷ USD, chiếm trên 70% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu. Trong đó xuất khẩu sang
thị trường này chỉ chiếm gần 30% kim ngạch
song phương hai nước với tổng giá trị khoảng
133 tỷ USD. Nhập khẩu từ Trung Quốc gấp 2,35
lần so với xuất khẩu sang thị trường này. Chỉ
riêng trong năm 2017 Trung Quốc là thị trường
xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Hoa Kỳ
với giá trị xuất khẩu khoảng 35.463 triệu USD,
tăng 61,42% so với năm 2016. Về nhập khẩu,
đây là thị trường mà Việt Nam nhập khẩu nhiều
nhất với tổng giá trị nhập khẩu lên đến 58.229
triệu USD, tăng 16,62% so với năm 2016 (Tổng
* GV. Trường Đại học An Giang ĐT: 0782 8960 52, email: dncthanh16kq@gmail.com
** GV. Trường Đại học An Giang. ĐT: 0986 860 109, email: thanh@agu.edu.vn;
Sự ảnh hưởng của ác cảm...
30
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cục thống kê). Tuy nhiên hiện nay, việc hàng
hóa Trung Quốc được làm nhái tinh vi và bán
tràn lan trên thị trường Việt Nam hay hàng hóa
chứa chất độc hại có xuất xứ từ Trung Quốc đã
tạo ra những phản ứng tiêu cực, gây hoang mang
cho người tiêu dùng. Cụ thể có thể kể đến việc
nông sản Trung Quốc nhái hàng Đà Lạt, trộn tỏi
Trung Quốc với tỏi Việt Nam để bán được giá
cao (Thành Đồng, Lê Phong & Đình Thi, 2018).
Bên cạnh đó là rất nhiều loại hàng hóa như đồ
chơi trẻ em chứa chất độc hại, hay vụ việc gạo
giả làm từ một loại nhựa công nghiệp từng gây
chấn động dư luận. Tất cả những sự kiện này đã
gây ra ác cảm cho người tiêu dùng Việt Nam đối
với hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc.
Bên cạnh đó yếu tố về chính trị và quân
sự hay chiến tranh cũng là nguyên nhân gây ra
sự ác cảm cho người Việt Nam. Cụ thể, gần đây
Trung Quốc đã có những hành động gây ra sự
phản đối mạnh mẽ của người dân Việt Nam như
tuyên bố đường lưỡi bò, tranh chấp chủ quyền
trên Biển Đông, hạ đặt giàn khoan Hải Dương
981 tại khu vực Biển Đông gần quần đảo Hoàng
Sa, hay những vụ bắn tàu cá của ngư dân Việt
Nam do Trung Quốc gây ra, Những sự kiện
này đã gây ra cảm xúc tiêu cực cho người dân
Việt Nam dẫn đến những hành động mang tính
tiêu cực như biểu tình, đập phá nhà máy của các
doanh nghiệp Trung Quốc hay tẩy chay cá mặt
hàng xuất xứ Trung Quốc.
Ác cảm của người tiêu dùng là một vấn đề
mới và đang được quan tâm trong nghiên cứu
kinh tế. Trên thế giới đã có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này như: nghiên cứu của
Klein, Ettenson và Morris (1998) về sự ác cảm
của người Trung Quốc đối với Nhật Bản và các
sản phẩm, hàng hóa của Nhật Bản. Nghiên cứu
cho thấy sự ác cảm của người tiêu dùng có ảnh
hưởng đáng kể đến quyết định mua hàng của
một quốc gia, cụ thể là hành vi sẵn lòng tẩy
chay hàng hóa từ quốc gia đó. Nghiên cứu về
tác động của ác cảm tiêu dùng đối với thái độ
của người Do Thái và Arab Israelis về hàng hóa
của Anh và Ý, M. Rose, G.M. Rose và Shoham
(2009) cũng chỉ ra rằng sự ác cảm này sẽ dẫn
đến việc đánh giá sản phẩm và sự không sẵn
lòng mua hàng của người tiêu dùng. Nghiên cứu
của Zhang (2013) về sự ác cảm của người tiêu
dùng và ý định mua hàng cũng đã chỉ rõ ác cảm
tiêu dùng ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi mua
hàng của người tiêu dùng đối với hàng hóa nước
ngoài, hậu quả mà tác giả chỉ ra bao gồm tẩy
chay và miễn cưỡng mua hàng.
Như vậy, tại Việt Nam, vấn đề ác cảm của
người tiêu dùng có biểu hiện như thế nào? Sự
ác cảm này có ảnh hưởng đến xu hướng hành
vi của người tiêu dùng đối với hàng hóa của
một quốc gia - cụ thể là hàng hóa có xuất xứ từ
Trung Quốc - hay không và ảnh hưởng như thế
nào? Do đó, nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của ác
cảm của người tiêu dùng đến xu hướng hành vi
của họ về hàng hóa của một quốc gia” hướng
đến việc tìm hiểu, đánh giá những tác động của
ác cảm của người tiêu dùng Việt Nam ở ba khía
cạnh là kinh tế, chính trị và chiến tranh đến xu
hướng hành vi của họ đối với hàng hóa Trung
Quốc nhằm giúp cho nhà quản trị, nhà kinh
doanh có thể hiểu rõ hơn xu hướng hành vi của
người tiêu dùng Việt Nam đối với hàng hóa
Trung Quốc để họ có thể đưa ra những chiến
lược kinh doanh phù hợp.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Sự ác cảm của người tiêu dùng
Klein và cs. (1998) định nghĩa rằng sự ác
cảm là tàn dư của cảm xúc ghét bỏ sâu sắc có liên
quan đến các sự kiện quân sự, chính trị và kinh
tế trước đó hoặc đang diễn ra. Hoặc là sự đối
kháng cảm xúc với một thực thể cụ thể (Leong,
Cote, Ang, Tan, Jung, Kau & Pornpitakpan,
2008). Tương tự, Averill (1983) cho rằng ác
cảm là những cảm xúc mạnh mẽ về sự không
thích hay thù hằn dựa trên niềm tin phát sinh từ
sự thù địch về chính trị, quân sự và kinh tế trước
đây hoặc đang diễn ra giữa các quốc gia và dân
tộc. Như vậy các vấn đề tạo ra sự ác cảm của
31
người tiêu dùng bao gồm các cảm kinh tế, ác
cảm chính trị và ác cảm về chiến tranh.
Ác cảm kinh tế có ảnh hưởng tiêu cực
đến xu hướng hành vi đã được chứng minh bởi
nhiều nghiên cứu trước đây. Klein và cs. (1998)
cho thấy ác cảm kinh tế cùng với ác cảm chiến
tranh đã có tác động tiêu cực đến sự sẵn lòng
mua hàng hóa Nhật Bản của người Trung Quốc.
Yoon và Park (2017) cho thấy, sự ác cảm kinh
tế nói riêng, ác cảm người tiêu dùng nói chung
có tác động tiêu cực đến ý định mua của người
tiêu dùng Hàn Quốc. Rose và cs. (2009) chỉ ra
rằng ác cảm kinh tế cùng với ác cảm chiến tranh
đã có tác động tiêu cực với sự không sẵn lòng
mua hàng hóa. Khác với các nghiên cứu kể trên,
nghiên cứu của Võ Thị Quý và Cao Quốc Việt
(2015) thực hiện tại thị trường Việt Nam lại
nghiên cứu theo hướng định tính bằng phương
pháp Netnography và phỏng vấn sâu. Kết quả
nghiên cứu của Võ Thị Quý và Cao Quốc Việt
(2015) chỉ ra rằng từ ác cảm kinh tế sẽ dẫn đến
cảm xúc ghét, tức giận và lo lắng cho người tiêu
dùng. Từ đó dẫn đến xu hướng hành vi như đánh
giá sản phẩm, tẩy chay và kêu gọi tẩy chay.
Ác cảm chiến tranh cũng được quan tâm
đến trong nhiều nghiên cứu trước đây. Kết quả
nghiên cứu của Klein và cs. (1998) cho thấy ác
cảm quân sự có tác động tiêu cực đến sự sẵn lòng
mua của người tiêu dùng Trung Quốc đối với
hàng hóa Nhật Bản. Nghiên cứu của Ettenson
và Klein (2005) cho ra kết quả là ác cảm chiến
tranh có tác động tiêu cực đến hành vi tẩy chay
của người tiêu dùng Úc đối với các sản phẩm của
pháp. Nghiên cứu của Harmeling Magnusson và
Singh (2015) cũng cho thấy rằng ác cảm chiến
tranh có tác động tiêu cực đến hành vi của khách
hàng như truyền miệng tiêu cực, đánh giá sản
phẩm hay lảng tránh sản phẩm. Yoon và Park
(2017) cho thấy ác cảm chiến tranh có tác động
tiêu cực đến ý định mua của người tiêu dùng
Hàn Quốc đối với hàng hóa Nhật Bản. Bên cạnh
đó, nghiên cứu của Nijssen và Douglas (2004)
cũng cho thấy ác cảm kinh tế và ác cảm chiến
tranh đã làm giảm sự sẵn lòng mua hàng hóa
Đức của người tiêu dùng Hà Lan.
Ác cảm chính trị cũng là một trong những
yếu tố có tác động tiêu cực đến xu hướng hành
vi của người tiêu dùng. Nghiên cứu của Yoon
và Park (2017) thể hiện ác cảm chính trị cùng
với ác cảm chiến tranh và ác cảm kinh tế đã có
tác động tiêu cực đến ý định mua của người Hàn
Quốc đối với hàng hóa Nhật Bản. Nghiên cứu
của Witkowski (2000) chỉ ra rằng sự ác cảm
kinh tế và tranh chấp về chính trị đã làm giảm
sự sẵn lòng mua của người tiêu dùng Mỹ khi
mua hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc.
Xu hướng hành vi của người tiêu dùng
Xu hướng hành vi là một trong ba thành
phần trong mô hình ba thành phần thái độ của
Schiffman và Kanuk (2000). Xu hướng hành vi
của người tiêu dùng thể hiện xu hướng người
tiêu dùng sẽ thực hiện một hành động nào đó
(Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang,
2007). Trong các nghiên cứu về sự ác cảm của
người tiêu dùng, xu hướng hành vi được các nhà
nghiên cứu đề cập đến gồm có:
(1) Đánh giá sản phẩm (Klein và cs., 1998;
Leong và cs., 2008; Rose và cs., 2009; Ishii,
2009; Smith & Li, 2010; Maher & Mady, 2010;
Lee và Tae Lee, 2013; Abosag & Farah, 2014;
Harmeling và cs., 2015; Võ Thị Quý & Cao
Quốc Việt, 2015). Khi nghiên cứu về sự ác cảm
của người tiêu dùng, đánh giá sản phẩm là một
vấn đề đang gây tranh cãi giữa các nhà nghiên
cứu. Những nghiên cứu ủng hộ cho việc sự ác
cảm của người tiêu dùng không có tác động đến
đánh giá sản phẩm gồm có nghiên cứu của Klein
và cs. (1998), Rose và cs. (2009), Maher và
Mady (2010), Lee và Tae Lee (2013), Abosag và
Farah (2014). Nhóm nhà nghiên cứu ủng hộ cho
việc ác cảm của người tiêu dùng có tác động đến
đánh giá sản phẩm gồm có nghiên cứu của Ishii
(2009), Leong và cs. (2008), Harmeling và cs.
(2015). Tại Việt Nam, nghiên cứu về sự ác cảm
của người tiêu dùng có nghiên cứu của Võ Thị
Quý và Cao Quốc Việt (2015) cũng đã đưa thành
Sự ảnh hưởng của ác cảm...
32
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phần đánh giá sản phẩm vào mô hình nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu định tính bằng phương pháp
Netnography và phỏng vấn sâu trong nghiên cứu
của Võ Thị Quý và Cao Quốc Việt (2015) cũng
chỉ ra rằng sự ác cảm của người tiêu dùng có tác
động đến đánh giá sản phẩm.
(2) Sự sẵn sàng hoặc không sẵn sàng
mua sản phẩm (Klein và cs., 1998; Nijssen &
Douglas, 2004; Ettenson & Klein, 2005; Leong
và cs., 2008; Rose và cs., 2009; Lee & Tae Lee,
2013). Mối quan hệ giữa ác cảm của người tiêu
dùng và sự sẵn sàng/không sẵn sàng mua sản
phẩm được khởi xướng bởi Klein và cs. (1998)
và dần trở thành nền tảng cho các nghiên cứu về
sự ác cảm sau này. Klein và cs. (1998) cho rằng,
sự ác cảm của người tiêu dùng có tác động tiêu
cực đến sự sẵn sàng mua hàng hóa của nước gây
ra thù địch.
(3) Tẩy chay hoặc hạn chế mua hàng hóa
(Abosag & Farah, 2014; Harmeling và cs., 2015;
Võ Thị Quý & Cao Quốc Việt, 2015), tẩy chay
hàng hóa liên quan đến các vấn đề như người
tiêu dùng tuyệt đối không mua hay không sử
dụng bất cứ sản phẩm nào từ quốc gia gây ra ác
cảm cho họ, đồng thời hành động tẩy chay còn
kéo theo việc kêu gọi người khác tẩy chay như
trong nghiên cứu của Võ Thị Quý và Cao Quốc
Việt (2015).
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý thuyết và những nghiên
cứu có liên quan đến ác cảm của người tiêu
dùng, mô hình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
ác cảm của người tiêu dùng đến xu hướng hành
vi của họ đối với hàng hóa của một quốc gia
được đề xuất như hình 1.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Giả thuyết nghiên cứu của mô hình đề
xuất bao gồm:
H1: Ác cảm kinh tế có tác động tiêu cực
đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng đối
với hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc.
H2: Ác cảm chính trị có tác động tiêu cực
đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng đối
với hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc.
H3: Ác cảm chiến tranh có tác động tiêu
cực đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng
đối với hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện qua hai giai
đoạn: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng.
Nghiên cứu định tính được thực hiện
thông qua phương pháp Netnography và phỏng
vấn sâu bằng bảng câu hỏi. Mục đích sử dụng
phương pháp Netnography để thu thập dữ
liệu nhằm mục đích tham khảo để xây dựng
mô hình nghiên cứu và bảng câu hỏi khảo sát.
Netnography trong nghiên cứu này được thực
hiện bằng cách chọn lọc và tổng hợp những bình
luận của người sử dụng mạng. Có tổng cộng 105
bình luận được chọn lọc và tổng hợp từ trang
báo dantri.com.vn với chủ đề «Tẩy chay hàng
hóa Trung Quốc là yêu nước tiêu cực», «Đường
lưỡi bò của Trung Quốc đe dọa 70% đặc quyền
kinh tế của Việt Nam», «Thích hay không, hàng
Trung Quốc cũng tràn ngập thị trường», «Điểm
lại những thiết bị công nghệ Trung Quốc cài sẵn
mã độc khi xuất xưởng». Đối với phương pháp
Netnography thì người nghiên cứu chỉ có thể thu
thập thông tin mà người sử dụng mạng thể hiện
33
qua các bình luận mà không biết được thông tin
cá nhân của họ. Ngược lại phỏng vấn sẽ giúp nhà
nghiên cứu biết được thông tin cá nhân, quan sát
được những cử chỉ, nét mặt của đáp viên. Thông
qua đó việc thu thập thông tin sẽ hiệu quả hơn
và khai thác được nhiều thông tin hơn. Phỏng
vấn được thực hiện trên 20 người tham gia trả
lời với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, làm
nhiều công việc khác nhau như giáo viên, sinh
viên, cán bộ công chức, nhân viên văn phòng,
kinh doanh buôn bán. Kết quả phỏng vấn sẽ
giúp hoàn thiện hơn mô hình nghiên cứu và để
xây dựng bảng câu hỏi khảo sát hợp lý hơn.
Nghiên cứu định lượng, được thực hiện
thông qua kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp người
tiêu dùng tại thành phố Long Xuyên thông qua
bảng câu hỏi khảo sát. Mẫu được chọn theo
phương pháp thuận tiện với cỡ mẫu n = 200.
Dữ liệu định lượng sẽ được phân tích thông qua
các phương pháp như thống kê mô tả, phân tích
Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá
và phân tích hồi quy tuyến tính bội.
2.3. Kết quả nghiên cứu
2.3.1. Thông tin về mẫu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 200
phiếu trả lời, tất cả các phiếu trả lời đều hợp lệ.
Dữ liệu nghiên cứu có sự đa dạng về giới tính,
độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp và thu
nhập. Sự đa dạng này cho thấy dữ liệu thu được
có thể đại diện cho mẫu nghiên cứu.
2.3.2. Đánh giá thang đo
Kết quả kiểm định hệ số tin cậy Cronbach’s
Alpha của thang đo thành phần ác cảm kinh
tế, ác cảm chính trị, ác cảm chiến tranh và xu
hướng hành vi người tiêu dùng đều đạt yêu cầu.
Vì vậy, các thang đo được giữ nguyên cho phân
tích tiếp theo.
2.3.3. Kết quả phân tích nhân tố
Phân tích nhân tố các thành phần ác
cảm của người tiêu dùng
Kết quả phân tích cho thấy có 03 nhóm
nhân tố với tổng phương sai trích là 54,3%, nghĩa
là khả năng giải thích của 03 nhóm nhân tố này
cho sự biến thiên của dữ liệu là 54,3%. Cụ thể
các nhân tố và biến quan sát còn lại như sau:
Nhân tố ác cảm kinh tế, gồm 05 biến quan
sát: (X1) Việc hàng hóa của Trung Quốc được
làm giả, làm nhái khiến tôi có ấn tượng không tốt
đối với hàng hóa Trung Quốc, (X2) Những tin
tức liên quan đến việc hàng hóa Trung Quốc chứa
chất độc hại khiến tôi không có thiện cảm đối với
hàng hóa Trung Quốc, (X3) Trung Quốc không
phải là một đối tác thương mại đáng tin cậy, (X4)
Trung Quốc có quá nhiều ảnh hưởng đối với kinh
tế Việt Nam, (X5) Các công ty Trung Quốc đang
lợi dụng người tiêu dùng Việt Nam.
Nhân tố ác cảm chính trị, gồm 05 biến
quan sát: (X6) Tôi không có thiện cảm về những
hành động chính trị của Trung Quốc hiện nay,
(X7) Chính phủ Trung Quốc đang bóp méo lịch
sử để chứng tỏ Trung Quốc đúng Việt Nam sai,
(X8) Tôi cảm thấy không thích Trung Quốc vì
những việc làm mà quốc gia này gây ra cho Việt
Nam, (X9) Tôi không thể chấp nhận những hành
động chính trị sai trái của Trung Quốc, (X10)
Chính phủ Trung Quốc nên thừa nhận những
hành động sai trái đối với Việt Nam.
Nhân tố ác cảm chiến tranh, gồm 04 biến
quan sát: (X11) Những tranh chấp quân sự gần
đây giữa Trung Quốc và Việt Nam khiến tôi
cảm thấy tức giận, (X12) Những hành động xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc là vô
căn cứ và tạo ra nguy cơ chiến tranh giữa hai
quốc gia, (X13) Trung Quốc là mối đe dọa đối
với an ninh quốc gia của Việt Nam, (X14) Tôi
cảm thấy tức giận đối với Trung Quốc vì những
cuộc chiến trong quá khứ.
Phân tích nhân tố thành phần xu hướng
hành vi người tiêu dùng
Kết quả phân tích cho thấy có 01 nhóm
nhân tố với tổng phương sai trích là 74,8%, với
04 biến quan sát. Cụ thể, (X15) Tôi sẽ đánh giá
sản phẩm Trung Quốc thật cẩn thận trước khi
mua, (X16) Tôi sẽ giữ khoảng cách đối với hàng
hóa Trung Quốc, (X17) Tôi sẽ hạn chế tối đa
việc lựa chọn mua hàng hóa Trung Quốc, (X18)
Sự ảnh hưởng của ác cảm...
34
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Tôi sẽ kêu gọi bạn bè, người thân hạn chế mua
hàng hóa Trung Quốc.
2.3.4. Mô hình nghiên cứu và các giả
thuyết sau khi kiểm định thang đo và phân tích
nhân tố khám phá
Sau khi đánh giá thang đo bằng Cronbach’s
Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA, mô
hình nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của ác cảm của
người tiêu dùng đến xu hướng hành vi của họ về
hàng hóa của một quốc gia” vẫn giữ nguyên 4
thành phần với 18 biến quan sát ban đầu, trong
đó có 14 biến quan sát cho thang đo sự ác cảm
của người tiêu dùng và 04 biến quan sát cho
thang đo xu hướng hành vi của người tiêu dùng.
Do đó mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
nghiên cứu vẫn được giữ nguyên như ban đầu.
2.3.5. Phân tích hồi quy tuyến tính
Trong mô hình hồi quy, các biến độc lập và
phụ thuộc được hình thành từ phân tích nhân tố
nêu trên. Các biến độc lập bao gồm: ác cảm kinh
tế, ác cảm chính trị và ác cảm chiến tranh; biến
phụ thuộc là xu hướng hành vi người tiêu dùng.
Bảng 1: Kết quả phân tích hồi quy
6
Nhân tố ác cảm chiến tranh, gồm 04 biến quan sát: (X11) Những tranh chấp quân sự
gần đây giữa Trung Quốc và Việt Nam khiến tôi cảm thấy tức giận, (X12) Những hành động
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc là vô căn cứ và tạo ra nguy cơ chiến tranh giữa
hai quốc gia, (X13) Trung Quốc là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của Việt Nam, (X14)
Tôi cảm thấy tức giận đối với Trung Quốc vì những cuộc chiến trong quá khứ.
Phân tích nhân tố thành phần xu hướng hành vi người tiêu dùng
Kết quả phân tích cho thấy có 01 nhóm nhân tố với tổng phương sai trích là 74,8%, với
04 biến quan sát. Cụ thể, (X15) Tôi sẽ đánh giá sản phẩm Trung Quốc thật cẩn thận trước khi
mua, (X16) Tôi sẽ giữ khoảng cách đối với hàng hóa Trung Quốc, (X17) Tôi sẽ hạn chế tối đa
việc lựa chọn mua hàng hóa Trung Quốc, (X18) Tôi sẽ kêu gọi bạn bè, người thân hạn chế
mua hàng hóa Trung Quốc.
2.3.4. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết sau khi kiểm đị h thang đo và phân tí h
hân tố khám phá
Sau khi đá giá tha g đo bằng Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA,
mô hình nghiên cứu "Sự ảnh hưởng của ác cảm của người tiêu dùng đến xu hướng hành vi
của họ về hàng hóa của một quốc gia" vẫn giữ nguyên 4 thành phần với 18 biến quan sát ban
đầu, trong đó có 14 biến quan sát cho thang đo sự ác cảm của người tiêu dùng và 04 biến quan
sát cho thang đo xu hướng hành vi của người tiêu dùng. Do đó mô hình nghiên cứu và các giả
thuyết nghiên cứu vẫn được giữ nguyên như ban đầu.
2.3.5. Phân tích hồi quy tuyến tính
Trong mô hình hồi quy, các biến độc lập và phụ thuộc được hình thành từ phân tích nhân
tố nêu trên. Các biến độc lập bao gồm: ác cảm kinh tế, ác cảm chính trị và ác cảm chiến tranh;
biến phụ thuộc là xu hướng hành vi người tiêu dùng.
Bảng 1: Kết quả phân tích hồi quy
Mô hình tổng quát
Mô hình R R2 R2 điều chỉnh Sai số chuẩn
1 0,735a 0,540 0,533 0,47212
ANOVA
Giá trị kiểm định F = 76,659 Mức ý nghĩa 0,000
Mô hình hồi quy
Mô hình
Hệ số
chưa chuẩn hóa
Hệ số chuẩn
hóa t Mức ý nghĩa VIF
B Sai số chuẩn Beta
Hằng số - 0,512 0,360 - 1,423 0,156
Ác cảm kinh tế 0,676 0,064 0,552 10,551 0,000 1,164
Ác cảm chính trị 0,411 0,069 0,310 5,949 0,000 1,158
Ác cảm chiến tranh 0,069 0,067 0,051 1,024 0,307 1,070
Biến phụ thuộc: Xu hướng hành vi của người tiêu dùng
Kết quả trong Bảng 1 cho thấy giá trị R2 điều chỉnh bằng 53,3%, có nghĩa là các biến độc
lập được đưa vào mô hình (ác cảm kinh tế, ác cảm chính trị, ngoại trừ biến ác cảm về chiến
tranh do biến này không có tác động có ý nghĩa về mặt thống kê) giải thích được 53,3% sự
biến thiên của biến phụ thuộc là xu hướng hành vi người tiêu dùng, còn lại là do tác động của
Kết quả trong Bảng 1 cho thấy giá trị R2
điều chỉnh bằng 53,3%, có nghĩa là các biến độc
lập được đưa vào mô hình (ác cảm kinh tế, ác cảm
chính trị, ngoại trừ biến ác cảm về chiến tranh do
biến này không có tác động có ý nghĩa về mặt
thống kê) giải thích được 53,3% sự biến thiên
của biến phụ thuộc là xu hướng hành vi người
tiêu dùng, còn lại là do tác động của các yếu tố
khác chưa được đưa vào mô hình. Bên cạnh đó,
kết quả cũng cho thấy 02 nhân tố ác cảm kinh tế
và ác cảm chính trị có mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê với xu hướng hành vi người tiêu dùng.
Vì vậy, các giả thuyết H1 và H2 trong mô hình
nghiên cứu được chấp nhận, ngoại trừ giả thuyết
H3, nghĩa là ác cảm chiến tranh không có ảnh
hưởng đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng.
2.3.6. Phân tích thống kê mô tả
Các thành phân ác cảm kinh tế, ác cảm
chính trị và xu hướng hành vi của người tiêu
dùng được đo lường bằng thang đo Liker 5 điểm.
Thang đo này có điểm thấp nhất là 1 và cao nhất
là 5, được chia thành 5 khoảng với mỗi khoảng
là 0,8 đơn vị. Do đó, để thuận tiện cho việc đánh
giá, thang điểm được quy ước như sau:
1,00 – 1,80 1,81 – 2,60 2,61 – 3,40 3,41 – 4,20 4,21 – 5,00
Mức rất thấp Mức thấp Mức trung bình Mức cao Mức rất cao
35
Từ kết quả bảng 2 cho thấy, các thành phần
ác cảm kinh tế và ác cảm chính trị được người tiêu
dùng đánh giá ở mức cao. Điều này cho thấy người
tiêu dùng thành phố Long Xuyên có ác cảm cao
đối với hàng hóa Trung Quốc cũng như những
hành động chính trị của Trung Quốc đối với Việt
Nam trong thời gian qua. Bên cạnh đó, điểm trung
bình thành phần xu hướng hành vi cũng ở mức
cao, Từ đó có thể thấy rằng, người tiêu dùng sẽ
đánh giá sản phẩm có xuất xứ Trung Quốc thật
cẩn thận và khắt khe hơn trước khi quyết định mua
cũng như giữ khoảng cách, hạn chế việc mua và sử
dụng hàng hóa của quốc gia này.
2.4. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy, chỉ có 2
thành phần có mối quan hệ với xu hướng hành
vi của người tiêu dùng là thành phần ác cảm
kinh tế và ác cảm chính trị, thành phần ác cảm
chiến tranh không có ảnh hưởng đến xu hướng
hành vi của người tiêu dùng.
Thành phần ác cảm kinh tế có tác động tiêu
cực đến xu hướng hành vi của người tiêu dùng.
Kết quả này trùng khớp với các nghiên cứu trước
như: Klein và cs. (1998), Nijssen và Douglas
(2004), Leong và cs. (2008), Ishii (2009), Rose
và cs. (2009), Lee và Tae Lee (2013), Abosag và
Farah (2014), Harmeling và cs. (2015), Võ Thị
Quý và Cao Quốc Việt (2015). Qua đó cho thấy
ác cảm kinh tế càng lớn càng khiến cho người
tiêu dùng có xu hướng hạn chế và giữ khoảng
cách đối với hàng hóa, sản phẩm của quốc gia
gây ra ác cảm, đồng thời khuyến khích họ kêu
gọi người khác hạn chế sử dụng những sản phẩm,
hàng hóa này.
Thành phần ác cảm chính trị có tác động
tiêu cực đến xu hướng hành vi của người tiêu
dùng, kết quả này là giống với nghiên cứu của
Yoon và Park (2017). Qua đó cho thấy, ác cảm
chính trị càng lớn càng làm cho xu hướng hành
vi của người tiêu dùng chuyển biến theo chiều
xấu đi, cụ thể như người tiêu dùng sẽ đánh giá
sản phẩm khắt khe hơn, họ sẽ giữ khoảng cách,
hạn chế cũng như kêu gọi mọi người hạn chế
mua và sử dụng hàng hóa có xuất xứ từ quốc gia
gây ra ác cảm.
Thành phần ác cảm chiến tranh không có
tác động đến xu hướng hành vi của người tiêu
dùng. Cụ thể, kết quả này là không nhất quán
với các nghiên cứu của Klein và cs. (1998),
Harmeling và cs. (2015), Yoon và Park (2017),
Lee và Tae Lee (2013), Nijssen và Douglas
(2004). Tuy nhiên, ác cảm chiến tranh không có
tác động đến việc đánh giá sản phẩm của người
tiêu dùng là kết quả trùng khớp với các nghiên
cứu của Rose và cs. (2009), Maher và Mady
(2010). Nguyên nhân có thể là do bối cảnh chiến
tranh ở Việt Nam không quá rõ ràng và sâu sắc
như bối cảnh chiến tranh của các nghiên cứu
đã lược khảo. Đối với nghiên cứu ác cảm chiến
tranh của Yoon và Park (2017) đề cập đến việc
người Nhật Bản đã bắt ép phụ nữ Hàn Quốc làm
nô lệ tình dục hay ép buộc đàn ông Hàn Quốc
làm nghĩa vụ quân sự cho Nhật Bản. Những sự
kiện chiến tranh trong quá khứ này đã để lại ấn
tượng rất tiêu cực cho người Hàn Quốc nên có
thể ác cảm chiến tranh của người Hàn Quốc là rất
lớn và đã tác động tiêu cực đến ý định mua hàng
hóa Nhật của người Hàn Quốc. Nghiên cứu sự ác
cảm chiến tranh của Klein và cs. (1998) lấy bối
cảnh tranh chấp đảo Senkaku giữa Trung Quốc
và Nhật Bản, đây là một sự kiện quân sự gây rất
nhiều sự chú ý không chỉ người dân của hai nước
mà còn người dân trên thế giới. Đồng thời trong
các biến quan sát đo lường cho thang đo ác cảm
Bảng 2: Điểm trung bình của các thành phần sự ác cảm và xu hướng hành vi người tiêu dùng
N Trung bình Độ lệch chuẩn
Ác cảm kinh tế 200 3,8880 0,56342
Ác cảm chính trị 200 4,0990 0,52169
Xu hướng hành vi 200 4,0787 0,69074
Sự ảnh hưởng của ác cảm...
36
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
chiến tranh, Klein và cs. (1998) cũng đã đề cập
đến vụ thảm sát Nam Kinh – một sự kiện để lại
nhiều cảm xúc tiêu cực cho người Trung Quốc.
Do đó ác cảm chiến tranh của người Trung Quốc
cũng sẽ rõ ràng và sâu sắc hơn. Đồng thời, do đa
số người tiêu dùng được khảo sát có độ tuổi trẻ
từ 18 đến 28 tuổi nên ác cảm của họ đối với các
cuộc chiến tranh trong quá khứ là không quá sâu
sắc, những sự kiện chiến tranh trong lịch sử đa
phần là do họ được truyền thụ lại từ sách vở nên
những hình dung về ác cảm chiến tranh của họ
còn mơ hồ, không rõ ràng.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Nghiên cứu “Sự ảnh hưởng của ác cảm
của người tiêu dùng đến xu hướng hành vi của
họ về hàng hóa của một quốc gia” được thực
hiện dựa trên bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị
và chiến tranh giữa hai quốc gia là Việt Nam và
Trung Quốc. Nghiên cứu được thực hiện thông
qua nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Đối với nghiên cứu định tính, gồm hai
phương pháp là Netnography và phỏng vấn sâu.
Phương pháp Netnography được thực hiện bằng
cách chọn lọc các bình luận có sẵn của người
dùng mạng trên một số bài báo có liên quan đến
đề tài nghiên cứu, tổng cộng có 105 bình luận đã
được chọn lọc, tham khảo và sử dụng cho nghiên
cứu này. Phương pháp phỏng vấn sâu được thực
hiện trên 20 người tham gia trả lời với phương
pháp thuận tiện nhằm hoàn thiện hơn mô hình
nghiên cứu cũng như phác thảo bảng câu hỏi
khảo sát. Nghiên cứu định lượng được thực hiện
thông qua việc khảo sát chính thức 200 người
tiêu dùng với phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho
thấy, thang đo sự ác cảm của người tiêu dùng
và thang đo xu hướng hành vi đều đạt yêu cầu
và không có biến nào bị loại. Do đó mô hình
nghiên cứu và các giả thuyết ban đầu đều được
giữ nguyên với bốn thành phần (3 thành phần
độc lập là ác cảm kinh tế, ác cảm chính trị, ác
cảm chiến tranh và 1 thành phần phụ thuộc là
xu hướng hành vi người tiêu dùng) và mười tám
biến quan sát.
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy, chỉ có
hai thành phần (1) ác cảm kinh tế và (2) ác cảm
chính trị có tác động tiêu cực đến xu hướng hành
vi của người tiêu dùng. Riêng thành phần ác cảm
chiến tranh là không có tác động đến xu hướng
hành vi của người tiêu dùng. Nguyên nhân có thể
là do bối cảnh chiến tranh ở Việt Nam không quá
rõ ràng và sâu sắc như bối cảnh chiến tranh của
các quốc gia trong các nghiên cứu trước và đa số
người tham gia khảo sát có độ tuổi trẻ.
3.2. Kiến nghị
Trong thành phần ác cảm kinh tế, nguyên nhân
khiến cho người tiêu dùng có ác cảm đối với hàng
hóa của Trung Quốc chủ yếu là do hàng hóa của quốc
gia này chứa nhiều chất độc hại gây ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe hay hàng hóa được làm giả, làm nhái,
có chất lượng kém. Vì vậy nhà quản trị, người kinh
doanh cần có giải pháp hạn chế và khắc phục tình
trạng hàng hóa độc hại, kém chất lượng này. Nghiên
cứu đề ra một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, nhà quản trị, nhà kinh doanh cần
phải lựa chọn một đối tác đáng tin cậy, những
nhà sản xuất, cung ứng đảm bảo được chất lượng
cũng như độ an toàn cho các hàng hóa mà họ
cung cấp. Có như vậy thì các doanh nghiệp kinh
doanh trong nước mới đảm bảo chất lượng hàng
hóa đến tay người tiêu dùng, đồng thời làm tăng
sự tin tưởng của khách hàng đối với hàng hóa,
sản phẩm mà mình cung cấp.
Thứ hai, các ban ngành cần phải siết chặt
hơn trong việc kiểm tra, rà soát các loại hàng hóa
nhập khẩu nhằm phát hiện và ngăn chặn những
hàng hóa được làm giả, làm nhái, hàng hóa kém
chất lượng đi vào Việt Nam.
Thứ ba, các nhà nhập khẩu hàng hóa Trung
Quốc cũng cần phối hợp với các cơ quan kiểm
định chất lượng sản phẩm, hàng hóa để có thể
kiểm định kỹ càng hàng hóa mà mình nhập khẩu,
nhằm đảm bảo độ an toàn cho người tiêu dùng
khi sử dụng các loại hàng hóa đó, đồng thời làm
tăng uy tín của doanh nghiệp hơn.
37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abosag, I., & F. Farah, M. (2014). The
influence of religiously motivated consumer
boycotts on brand image, loyalty and
product judgment. European Journal of
Marketing, 48(11/12), 2262-2283.
Averill, J. R. (1983). Studies on anger and
aggression: Implications for theories of
emotion. American Psychologist, 38(11),
1145–1160.
Ettenson, R., & Klein, J.G. (2005). The fallout
from French nuclear testing in the South
Pacific. Inetnational Marketing Review, 22(2),
199-224.
Harmeling, C.M., Magnusson, P., & Singh,
N. (2015). Beyond anger: A deeper look at
consumer animosity. Journal of International
Business Studies, 46(6), 676-693.
Ishii, K. (2009). Nationalistic Sentiments
of Chinese Consumer: The Effects and
Determinants of Animosity and Consumer
Ethnocentrism. Journal of International
Consumer Marketing, 21(4), 299-308.
Klein, J. G., Ettenson, R., & Morris, M. D.
(1998). The animosity model of foreign
product purchase: An empirical test in the
People’s Republic of China. Journal of
marketing, 62(1), 89-100.
Lee, R., & Tae Lee, K. (2013). The longitudinal
effects of a two-dimensional consumer
animosity. Journal of Consumer Marketing,
30(3), 273-282.
Leong, S. M., Cote, J. A., Ang, S. H., Tan, S.
J., Jung, K., Kau, A. K., & Pornpitakpan, C.
(2008). Understanding consumer animosity
in an international crisis: nature, antecedents,
and consequences. Journal of International
Business Studies, 39(6), 996–1009.
Maher, A.A., & Mady, S. (2010). Animosity,
subjective norms and anticipated emotions
during an international crisis. International
Marketing Review, 27(6), 630-651.
Nguyễn Đình Thọ & Nguyễn Thị Mai Trang
(2007). Nguyên lý Marketing. Hồ Chí Minh: Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Nijssen, E.J., & Douglas, S.P. (2004). Examining
the animosity model in a country with a high
level of foreign trade. International Journal of
Research in Marketing, 21(1), 23–38.
Rose, M., Rose, G.M., & Shoham, A. (2009).
The impact of consumer animosity on attitudes
towards foreign goods: A study of Jewish and
Arab Israelis. Journal of Consumer Marketing,
26(5), 330-339.
Schiffman, L.G., & Kanuk, L.L. (2000).
Consumer behavior (7th ed.). International.
Inc.: PrenticeHall
Smith, M., & Li, Q. (2010). The boycott model
of foreign product purchase: An empirical test
in China. Asian Review of Accounting, 18(2),
106-130.
Thành Đồng, Lê Phong & Đinh Thi (Ngày 20
tháng 8, 2018). “Lật mặt” nông sản Trung
Quốc nhái hàng Đà Lạt. Người lao động. Truy
cập từ https://nld.com.vn
Võ Thị Quý & Cao Quốc Việt (2015). Kết hợp
phương pháp Netnography và Lý thuyết nền
(Grounded Theory) trong nghiên cứu định
tính để khám phá mô hình hành vi tẩy chay
của người tiêu dùng. Tạp chí Phát triển
Khoa học và Công nghệ, 18(4), 16-24.
Witkowski, T. (2000). Effects of animosity
toward China on willingness to buy
Chinese products. Managing in a turbulent
international business environment, 18,
470-7.
Yoon, S.J., & Park, J.E. (2017).Antecedents
of consumer animosity and the role of
product involvement on purchase intentions.
American Journal of Business, 32(1), 42–57.
Zhang, C. (2013). Consumer animosity and
purchase behavior: the role of corporate
social responsibility.
ln.edu.hk/mkt_etd/16
Sự ảnh hưởng của ác cảm...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6_7503_2159507.pdf