Tài liệu Stress và các yếu tố liên quan đến stress ở điều dưỡng tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 279
STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS Ở ĐIỀU DƯỠNG
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lâm Minh Quang*, Tô Gia Kiên**, Huỳnh Ngọc Vân Anh***, Âu Thanh Tùng****,
Nguyễn Thị Thanh Hương*****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Stress ở điều dưỡng ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả, hiệu suất và tính an toàn trong chăm sóc
sức khỏe, tuy nhiên chưa có nhiều bằng chứng về các yếu tố liên quan đến stress ở điều dưỡng.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan tới stress ở điều dưỡng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên 352 điều dưỡng đang làm việc
tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Các điều dưỡng được phỏng vấn trực tiếp với một bộ câu
hỏi cấu trúc đánh giá mức độ stress và các yếu tố liên quan.
Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có dấu hiệu stress là 12,5%. Những điều dưỡng ≤ 30 tuổi có tỷ lệ stress bằng
2,07 lầ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Stress và các yếu tố liên quan đến stress ở điều dưỡng tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 279
STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS Ở ĐIỀU DƯỠNG
TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lâm Minh Quang*, Tô Gia Kiên**, Huỳnh Ngọc Vân Anh***, Âu Thanh Tùng****,
Nguyễn Thị Thanh Hương*****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Stress ở điều dưỡng ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả, hiệu suất và tính an toàn trong chăm sóc
sức khỏe, tuy nhiên chưa có nhiều bằng chứng về các yếu tố liên quan đến stress ở điều dưỡng.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan tới stress ở điều dưỡng.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên 352 điều dưỡng đang làm việc
tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. Các điều dưỡng được phỏng vấn trực tiếp với một bộ câu
hỏi cấu trúc đánh giá mức độ stress và các yếu tố liên quan.
Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có dấu hiệu stress là 12,5%. Những điều dưỡng ≤ 30 tuổi có tỷ lệ stress bằng
2,07 lần so với những điều dưỡng > 30 tuổi (KTC 95%: 1,03 – 4,18). Những điều dưỡng có cảm nhận công việc
đơn điệu, cảm thấy công việc quá tải, thời gian làm việc kéo dài, không được cấp trên phân công công việc hợp lý
hay không có quan hệ tốt với cấp trên thì đều có tỷ lệ stress cao hơn so với những điều dưỡng không có những
đặc tính này. Những điều dưỡng có yêu thích công việc hiện tại, có nhận được sự hỗ trợ tinh thần từ người thân,
cảm nhận được trả lương xứng đáng với chuyên môn, cảm thấy có cơ hội thăng tiến và có thời gian hoạt động
giải trí thì đều có tỷ lệ stress thấp hơn so với những điều dưỡng không có các đặc tính này.
Kết luận: Cần giảm tải và phân công công việc hợp lý hơn để giảm stress ở điều dưỡng.
Từ khóa: Stress, điều dưỡng, yếu tố liên quan, bệnh viện Đại học Y Dược, Thành phố Hồ Chí Minh
ABSTRACT
STRESS AND FACTORS RELATED TO STRESS AMONG NURSES AT THE HOSPITAL OF THE
UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY AT HO CHI MINH CITY
Lam Minh Quang, To Gia Kien, Huynh Ngoc Van Anh, Au Thanh Tung, Nguyen Thi Thanh Huong
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 279-285
Background: Stress of nursing staff negatively affects to efficiency, performance and safety in health
care, but there is a little evidence of stress factors among nursing staffs.
Objectives: To identify the prevalence of stress and the factors related to stress of nursing staff.
Methods: A cross-sectional survey was conducted among 352 nurses working at the hospital of the
University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh city. Subjects were directly interviewed with a
structured questionnaire assessing their stress level and the related factors.
Results: The rate of nursing stress was 12.5%. Compared with nurses over the age of 30, nurses less
*Ban Quản lý Đào tạo, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
**Bộ môn Tổ chức – Quản lý Y tế, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
***Bộ môn Thống kê Y học và Tin học, Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
****Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
*****Phòng Công tác xã hội, Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2, tỉnh Đồng Nai
Tác giả liên lạc: ThS. Lâm Minh Quang ĐT: 0908297705 Email: minhquang0202@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 280
than or equal to 30 years of age were associated with a higher stress rate (prevalence ratio = 2.07, 95% CI:
1.03 - 4.18). Nurses with a feeling the job was monotonous, overworked, extended working hours, were not
properly assigned by their superiors or were not well-connected with their superiors, had a higher rate of
stress than those not having these characteristics. The stress rate was lower for nurses enjoying their current
job, receiving mental support from their relatives, being worthy of pay, feeling an opportunity for promotion
and having leisure time.
Conclusions: Reducing workload and proper assignment of work should be performed to decrease stress
of nursing staff.
Keywords: Stress, nursing staff, related factors, Hospital of the University of Medicine and Pharmacy,
Ho Chi Minh city
ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress nghề nghiệp là một vấn đề sức khỏe
nghiêm trọng, nó tác động xấu đến chất lượng
sống và làm giảm khả năng làm việc của người
lao động(19). Điều dưỡng là một nghề chuyên
nghiệp và là một trong những nghề dễ gây stress
nhất, do người điều dưỡng luôn luôn phải đối
mặt với những tình huống khó khăn đòi hỏi một
sự cẩn thận và nhẫn nhịn đặc biệt(4,5,6,19). Stress
ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả, hiệu suất và
giảm tính an toàn trong chăm sóc bệnh nhân tại
các cơ sở chăm sóc sức khỏe (dễ gây ra các sai sót
y khoa, làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh
viện)(9). Khi điều dưỡng bị stress, họ rất dễ mắc
sai lầm trong công việc có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe của bệnh nhân, thậm
chí có thể làm bệnh nhân tử vong(15,18). Qua đó,
stress làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và
tăng sự quá tải bệnh viện(2). Điều dưỡng bị stress
sẽ không làm việc và giao tiếp tốt, làm giảm sự
hài lòng của điều dưỡng với công việc; một số
thậm chí sẽ từ bỏ nghề nghiệp của mình(5,6,7,12,20).
Quản lý chất lượng toàn diện đánh giá cao vai
trò của cả khách hàng bên trong (nhân viên) và
bên ngoài (bệnh nhân). Hiện nay quan điểm xem
bệnh nhân là khách hàng trong bệnh viện đang
dần được chú trọng, Điều dưỡng giao tiếp kém
với bệnh nhân sẽ dẫn đến stress cho cả bệnh
nhân và điều dưỡng, từ đó giảm sự hài lòng của
bệnh nhân và thân nhân người bệnh(8).
Do đó, quản lý tốt stress ở điều dưỡng,
giúp tăng hiệu quả và hiệu lực chăm sóc sức
khỏe, giảm chi phí điều trị và quá tại bệnh
viện. Việc tìm hiểu những yếu tố liên quan đến
stress ở điều dưỡng là điều cần thiết, góp phần
tìm ra những giải pháp giảm thiểu stress cho
điều dưỡng. Xuất phát từ những thực tiễn
trên, nghiên cứu này được thực hiện với mục
tiêu xác định tỷ lệ điều dưỡng bị stress và các
yếu tố liên quan đến stress ở điều dưỡng đang
làm việc tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành
phố Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên
điều dưỡng đang làm việc tại các khoa nội trú và
phòng khám ngoại trú của bệnh viện Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2015.
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận
tiện chọn tất cả những điều dưỡng đang làm
việc tại thời điểm tiến hành nghiên cứu, đồng ý
tham gia nghiên cứu. Những điều dưỡng đang
thử việc hoặc chưa có hợp đồng làm việc chính
thức tại bệnh viện hoặc sinh viên thực tập sẽ bị
loại ra khỏi nghiên cứu.
Bộ công cụ
Dữ kiện được thu thập bằng bộ câu hỏi tự
điền được thiết kế sẵn. Điều tra viên sẽ tiếp cận
các điều dưỡng theo từng khoa phòng và giải
thích mục đích nghiên cứu. Nếu điều dưỡng
đồng ý tham gia, điều tra viên sẽ gởi lại phiếu
câu hỏi có kèm phiếu chấp nhận tham gia
nghiên cứu để các điều dưỡng tự điền câu trả lời
vào bộ câu hỏi và hẹn thời gian để thu lại phiếu
câu hỏi đã được điền đầy đủ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 281
Thông tin thu thập gồm đặc tính của đối
tượng tham gia nghiên cứu: như khoa/phòng
nơi làm việc, chức vụ hiện tại, tuổi, giới, tình
trạng hôn nhân, số năm làm việc, đã vào biên
chế, trình độ chuyên môn, thời gian làm việc
trung bình. Các thông tin liên quan tới môi
trường làm việc cũng được thu thập như trực
đêm, được tham gia tập huấn thường xuyên, ca
kíp phù hợp, thời gian làm việc kéo dài, nơi làm
việc an toàn, công việc quá chuyên môn, công
việc đơn điệu, công việc quá tải, kiêm nhiệm
nhiều việc cùng lúc, quan hệ tốt với đồng
nghiệp, được cấp trên phân chia công việc hợp
lý, được cấp trên hỗ trợ cho công việc, quan hệ
tốt với cấp trên, môi trường làm việc nhiều tiếng
ồn, môi trường làm việc đủ ánh sáng, môi
trường làm việc bị ô nhiễm, nhiệt độ làm việc
quá nóng. Cảm nhận cá nhân của điều dưỡng
như: sự yêu thích công việc, người thân trong
gia đình hỗ trợ về mặt tinh thần, công việc được
trả lương xứng đáng, công việc có nhiều cơ hội
thăng tiến, dành thời gian giải trí.
Stress của điều dưỡng được đánh giá dựa
trên bộ câu hỏi sức khỏe tổng quát gồm 12 câu
hỏi (GHQ-12 – General Health Questionnaire 12
items) được phát triển bởi David Goldberg và
Paul William vào những năm 1970, dùng để
định lượng nguy cơ phát triển rối loạn tâm thần,
nhắm đến 2 lĩnh vực: không có khả năng thực
hiện các chức năng bình thường và sự xuất hiện
buồn phiền để đánh giá mức độ hạnh phúc của
con người(13). Với hệ số Cronbach alpha là
khoảng từ 0,82 đến 0,86, công cụ được xem là
đáng tin cậy và đã được dịch ra 38 ngôn ngữ(13).
Xử lý và phân tích số liệu
Dữ kiện được nhập bằng phần mềm EpiData
3.1, xử lý và phân tích dữ kiện bằng phần mềm
thống kê STATA 13.0, với thống kê mô tả tần số
và tỷ lệ các biến số về đặc tính cá nhân; các biến
số về các yếu tố công việc; các biến số về các yếu
tố xã hội. Kiểm định chi bình phương và kiểm
định chính xác Fisher được dùng để xác định
mối liên quan giữa đặc tính cá nhân; các biến số
về các yếu tố công việc; các biến số về các yếu tố
xã hội với stress của điều dưỡng, mức độ liên
quan được đo lường bằng tỷ số tỷ lệ hiện mắc
PR và KTC 95%.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành với sự đồng
thuận của điều dưỡng và các đơn vị liên quan.
Thông tin của đối tượng nghiên cứu được bảo
mật. Đề cương nghiên cứu đã được chấp thuận
về mặt y đức trong nghiên cứu từ hội đồng đạo
đức trong nghiên cứu y sinh học của Khoa Y tế
công cộng – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
KẾT QUẢ
Có 360 điều dưỡng tham gia khảo sát, trong
đó có 8 điều dưỡng không gửi lại phiếu trả lời
câu hỏi, còn lại 352 điều dưỡng nộp lại phiếu
khảo sát và đều trả lời đầy đủ các thông tin.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 44 (12,5%)
điều dưỡng có dấu hiệu stress (GHQ-12 > 15), có
11 (3,13%) điều dưỡng stress nghiêm trọng
(GHQ-12 > 20).
Các yếu tố liên quan đến stress
Tuổi trung bình của điều dưỡng là 28 ± 0,4
tuổi, nhỏ nhất là 20, lớn nhất 65.
Phần lớn đối tượng nghiên cứu là nữ ≤ 30
tuổi, có thâm niên làm việc từ 1 – 5 năm, thời
gian làm việc trung bình của điều dưỡng là 4,9 ±
0,3 năm, ít nhất là 2 tháng, lâu nhất là 25 năm,
chưa lập gia đình, trình độ chuyên môn từ cao
đẳng trở lên.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên
quan giữa nhóm tuổi với tình trạng stress với p =
0,015. Những điều dưỡng ≤30 tuổi có tỷ lệ stress
bằng 2,8 lần so với những điều dưỡng >30 tuổi
với khoảng tin cậy 95% từ 1,14 đến 6,89 (Bảng 1).
Về các yếu tố công việc, phần lớn điều
dưỡng khai báo rằng công việc có trực đêm,
nhưng không đơn điệu, tuy nhiên công việc
quá tải. Phần lớn đối tượng cho rằng có quan
hệ tốt với cấp trên, được hỗ trợ, phân công
công việc và thời gian làm việc hợp lý, và
không vượt quá khả năng bản thân, tuy nhiên
thời gian làm việc kéo dài.
Bảng 2 cho thấy những điều dưỡng có cảm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 282
nhận công việc đơn điệu, cảm thấy công việc
quá tải, thời gian làm việc kéo dài, không được
cấp trên phân công công việc hợp lý hay không
có quan hệ tốt với cấp trên thì đều có tỷ lệ stress
cao hơn so với những điều dưỡng không có
những đặc tính này.
Bảng 1. Mối liên quan giữa stress và các đặc tính cá nhân (n = 352)
Đặc tính Tổng
Tần số (%)
Stress Giá trị p
*
PR
(KTC 95%) Có (n=44) Không (n=308)
Nhóm tuổi: ≤30 tuổi
>30 tuổi
259 (73,6)
93 (26,4)
39 (15,1)
5 (5,4)
220 (84,9)
88 (94,6)
0,015 2,80 (1,14 – 6,89)
Giới tính: Nam
Nữ
21 (6,0)
331 (94,0)
1 (4,8)
43 (13,0)
20 (95,2)
288 (87,0)
0,493
**
0,37 (0,05 – 2,53)
Hôn nhân: Đã kết hôn
Khác
127 (36,1)
225 (63,9)
15 (11,8)
29 (12,9)
112 (88,2)
196 (87,1)
0,769 0,92 (0,51 – 1,64)
Thâm niên
>10 năm
>5 – 10 năm
1 – 5 năm
<1 năm
44 (12,5)
68 (19,3)
200 (56,8)
40 (11,4)
3 (6,8)
10 (14,7)
27 (13,5)
4 (10,0)
41 (93,2)
58 (85,3)
173 (86,5)
36 (90,0)
0,243
0,262
0,616
1
2,16 (0,59 – 7,84)
1,98 (0,60 – 6,53)
1,47 (0,33 – 6,55)
Trình độ chuyên môn
Từ cao đẳng trở lên
Trung cấp
259 (73,6)
93 (26,4)
35 (13,5)
9 (9,7)
224 (86,5)
84 (90,3)
0,337
1,40 (0,70 – 2,79)
*Tất cả sử dụng kiểm định Chi bình phương, trừ khi có ghi chú khác; **Kiểm định chính xác Fisher; PR: prevalence ratio;
KTC95%: Khoảng tin cậy 95%
Bảng 2. Mối liên quan giữa stress và các yếu tố công việc (n = 352)
Đặc tính Tổng
Tần số (%)
Stress Giá trị p
*
PR
(KTC 95%) Có (n=44) Không (n=308)
Công việc có trực đêm: Có
Không
180 (51,1)
172 (48,9)
25 (13,9)
19 (11,0)
155 (86,1)
153 (89,0)
0,420 1,26 (0,72 – 2,20)
Công việc đơn điệu: Có
Không
52 (14,8)
300 (85,2)
16 (30,8)
28 (9,3)
36 (69,2)
272 (90,7)
<0,001 3,30 (1,92 – 5,65)
Công việc quá tải: Có
Không
188 (53,4)
164 (46,6)
36 (19,1)
8 (4,9)
152 (80,9)
156 (95,1)
<0,001 3,93 (1,88 – 8,20)
Phân công thời gian làm việc hợp lý
Có
Không
323 (91,8)
29 (8,2)
37 (11,5)
7 (24,1)
286 (88,5)
22 (75,9)
0,071
**
0,47 (0,23 – 0,97)
Công việc vượt khả năng bản thân
Có
Không
26 (7,4)
326 (92,6)
6 (23,1)
38 (11,7)
20 (76,9)
288 (88,3)
0,116
**
1,98 (0,92 – 4,24)
Thời gian làm việc kéo dài
Có
Không
221 (62,8)
131 (37,2)
34 (15,4)
10 (7,6)
187 (84,6)
121 (92,4)
0,034
2,01 (1,03 – 3,94)
Kiêm nhiệm nhiều việc cùng lúc
Có
Không
172 (48,9)
180 (51,1)
22 (12,8)
22 (12,2)
150 (87,2)
158 (87,8)
0,872
1,05 (0,60 – 1,82)
Cấp trên phân công việc hợp lý
Có
Không
338 (96,0)
14 (4,0)
39 (11,5)
5 (35,7)
299 (88,5)
9 (64,3)
0,021
**
0,32 (0,15 – 0,69)
Cấp trên hỗ trợ: Có
Không
344 (97,7)
8 (2,3)
41 (11,9)
3 (37,5)
303 (88,1)
5 (62,5)
0,065
**
0,32 (0,12 – 0,81)
Quan hệ tốt với cấp trên: Có
Không
340 (96,6)
12 (3,4)
39 (11,5)
5 (41,7)
301 (88,5)
7 (58,3)
0,010
**
0,27 (0,13 – 0,57)
*Tất cả sử dụng kiểm định Chi bình phương, trừ khi có ghi chú khác;
**Kiểm định chính xác Fisher; PR: prevalence ratio;
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 283
KTC95%: Khoảng tin cậy 95%
Bảng 3. Mối liên quan giữa stress và các yếu tố xã hội (n = 352)
Đặc tính Tổng
Tần số (%)
Stress Giá trị p
*
PR
(KTC 95%) Có (n=44) Không (n=308)
Yêu thích công việc
Có
Không
321 (91,2)
31 (8,8)
32 (10,0)
12 (38,7)
289 (90,0)
19 (61,3)
<0,001
**
0,26 (0,15 – 0,45)
Hỗ trợ tinh thần từ người thân
Có
Không
307 (87,2)
45 (12,8)
30 (9,8)
14 (31,1)
277 (90,2)
31 (68,9)
<0,001
0,31 (0,18 – 0,55)
Được trả lương xứng đáng
Có
Không
291 (82,7)
61 (17,3)
27 (9,3)
17 (27,9)
264 (90,7)
44 (72,1)
<0,001
0,33 (0,19 – 0,57)
Có cơ hội thăng tiến
Có
Không
167 (47,4)
185 (52,6)
11 (6,6)
33 (17,8)
156 (93,4)
152 (82,2)
0,001
0,37 (0,19 – 0,71)
Có thời gian giải trí
Có
Không
215 (61,1)
137 (38,9)
19 (8,8)
25 (18,2)
196 (91,2)
112 (81,8)
0,009
0,48 (0,28 – 0,85)
*Tất cả sử dụng kiểm định Chi bình phương, trừ khi có ghi chú khác; **Kiểm định chính xác Fisher; PR: prevalence ratio;
KTC95%: Khoảng tin cậy 95%
Về các yếu tố xã hội, phần lớn điều dưỡng
cho rằng có yêu thích công việc, được hỗ trợ tinh
thần từ người thân, được trả lương xứng đáng,
có thời gian giải trí, tuy nhiên không có nhiều cơ
hội thăng tiến.
Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa
stress với các yếu tố xã hội. Những điều dưỡng
có yêu thích công việc hiện tại, có nhận được sự
hỗ trợ tinh thần từ người thân, cảm nhận được
trả lương xứng đáng với chuyên môn, cảm thấy
có cơ hội thăng tiến và có thời gian hoạt động
giải trí thì đều có tỷ lệ stress thấp hơn so với
những điều dưỡng không có các đặc tính này.
BÀN LUẬN
Đa số điều dưỡng là nữ, kết quả này tương
tự kết quả nghiên cứu của Gholamzadeh và
cộng sự về các nguồn gây stress nghề nghiệp và
chiến lược đối với ở điều dưỡng(5). Điều này cho
thấy nữ luôn chiếm phần lớn ở ngành điều
dưỡng bởi đặc trưng của ngành là chăm sóc
bệnh nhân. Phần lớn điều dưỡng có độ tuổi ≤ 30
và thâm niên công tác từ 1 – 5 năm, kết quả này
tương tự kết quả nghiên cứu của Gholamzadeh
và cộng sự(5), cho thấy đội ngũ cán bộ trẻ và có
chuyên môn đang được tiếp nhận vào làm việc
nhiều hơn. Phần lớn điều dưỡng có trình độ
chuyên môn từ cao đẳng trở lên, điều này phù
hợp với quy định tổ chức và hoạt động của bệnh
viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh(1).
Ở những điều dưỡng có độ tuổi ≤ 30 có tỷ lệ
stress cao hơn so với những điều dưỡng > 30
tuổi, kết quả này khác với kết quả nghiên cứu
của Trần Đăng Khoa về stress và các yếu tố liên
quan ở nhân viên điều dưỡng tại bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bình Dương(14). Điều này có liên quan
đến những điều dưỡng khi mới ra trường và bắt
đầu làm việc thì còn trẻ tuổi, họ chưa quen với
áp lực công việc nên khiến xảy ra stress. Có lẽ
thực sự cần những hướng dẫn và chỉ bảo dần
trong công việc dành cho những điều dưỡng khi
mới bước vào môi trường làm việc. Nghiên cứu
cho thấy ở những điều dưỡng có công việc đơn
điệu thì có tỷ lệ stress cao hơn, tuy nhiên kết quả
này khác với kết quả nghiên cứu của Lê Thành
Tài và cộng sự về tình hình stress nghề nghiệp
của nhân viên điều dưỡng(10), khác với nghiên
cứu của Trần Đăng Khoa(14), có thể do tính chất
công việc đơn điệu là lặp đi lặp lại dẫn đến thụ
động trong công việc, dễ dẫn đến tình trạng
stress nghề nghiệp. Bên cạnh đó thời gian làm
việc kéo dài dễ dẫn đến tình trạng stress nghề
nghiệp, nên việc những điều dưỡng có những
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 284
đặc tính trên có tỷ lệ stress cao hơn, tương tự kết
quả nghiên cứu của Lê Thành Tài và Trần Đăng
Khoa(10,14). Điều này có thể giải thích rằng thời
gian làm việc kéo dài khiến cơ thể mệt mỏi, dẫn
đến khả năng mất tập trung, nếu không có thời
gian nghỉ ngơi sẽ dẫn đến stress. Nghiên cứu
cho thấy những điều dưỡng cảm thấy công việc
quá tải có tỷ lệ stress cao hơn. Kết quả nghiên
cứu này tương tự với kết quả nghiên cứu của
Gholamzadeh và Lê Thành Tài(5,10). Trong
nghiên cứu của McFarlane và cộng sự cũng cho
thấy rằng các yếu tố chính gây ra stress là môi
trường bên ngoài và số lượng và chất lượng của
khối lượng công việc(11). Ở những điều dưỡng
không được cấp trên phân công công việc hợp lý
và không có quan hệ tốt với cấp trên có tỷ lệ
stress cao hơn, nghiên cứu của Lê Thành Tài,
Trần Đăng Khoa và nghiên cứu của Đỗ Nguyễn
Nhựt Trần và cộng sự về stress và các yếu tố liên
quan ở nhân viên Y tế huyện Nhơn Trạch tỉnh
Đồng Nai năm 2008 cũng cho kết quả tương
tự(3,10,14). Vì vậy phân công công việc là một kỹ
năng thiết yếu trong công tác quản lý để mang
lại hiệu quả, đảm bảo người điều dưỡng làm
việc đạt kết quả cao, tránh tồn đọng, tránh tình
trạng stress. Bên cạnh đó, việc phân công sẽ đạt
được hiệu quả cao nếu các mối quan hệ giữa cấp
trên và điều dưỡng được thực hiện một cách
thẳng thắn chân thành và cởi mở. Ngoài ra cần
có các buổi tập huấn nâng cao năng lực trình độ
chuyên môn cho các điều dưỡng viên, bên cạnh
đó tạo cơ hội cho nhân viên nghỉ ngơi, tạo điều
kiện chuyển đổi công việc khi không phù hợp,
luôn phiên nhân viên ở những khoa có áp lực
cao do công việc mang lại.
Những điều dưỡng có yêu thích với công
việc hiện tại thì tỷ lệ stress thấp hơn. Kết quả
nghiên cứu này tương tự kết quả nghiên cứu của
Lê Thành Tài và Trần Đăng Khoa(10,14). Điều này
phù hợp bởi các điều dưỡng đều nhận thức
được tầm quan trọng của ngành, và với mong
muốn đem lại sự chăm sóc tốt cho bệnh nhân thì
người điều dưỡng cần có đam mê và sự yêu
công việc, và khi gặp phải khó khăn thì họ sẽ tìm
cách để vượt qua. Ngoài ra, việc hỗ trợ tinh thần
từ người thân, và sự thấu cảm động viên tinh
thần của người thân cũng đóng góp một phần
quan trọng, do đó mà tỷ lệ stress ở nhóm điều
dưỡng này thấp hơn. Nghiên cứu cho thấy điều
dưỡng cảm thấy được trả lương xứng đáng có tỷ
lệ stress thấp hơn. Các kết quả nghiên cứu của
Lê Thành Tài cũng tương tự nghiên cứu
này(10).Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới,
điều dưỡng là trụ cột của ngành y tế khi tham
gia và giữ vai trò quan trọng trong tất cả các
khâu chăm sóc sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật
cho người dân, và cũng là người chăm sóc, an ủi
bệnh nhân lúc đau yếu(16). Vì vậy họ xứng đáng
được hưởng một mức lương xứng đáng, dành
cho những đóng góp to lớn của mình đối với
bệnh nhân và xã hội(17). Đây cũng là điều mà các
nhà quản lý nên xem xét, không chỉ có trả mức
lương cao cho bác sĩ mà ngay cả các điều dưỡng
cũng cần được hưởng mức lương tương tự, bởi
vì trách nhiệm công việc của một Điều dưỡng
viên rất quan trọng và đòi hỏi sự khéo léo, tận
tâm, yêu nghề. Họ không chỉ hỗ trợ các bệnh
nhân trong các hoạt động hàng ngày mà còn
quản lý các liệu pháp trị liệu, phối hợp với bác sĩ
trong việc chăm sóc bệnh nhân, tham gia cấp
cứu bệnh nhân ban đầu, cũng là người trao đổi
với bệnh nhân và gia đình để biết các vấn đề và
nhu cầu của họ. Với những yêu cầu công việc
trên, Điều dưỡng viên có thể thực hiện công việc
với niềm đam mê và phát triển sự nghiệp với
mức thu nhập cao, cùng cơ hội thăng tiến, phát
triển trong xã hội. Bệnh viện Đại học Y Dược
TP.HCM là một bệnh viện phát triển và tạo điều
kiện cho các điều dưỡng viên có cơ hội được học
hỏi, nâng cao trình độ, do đó điều này khiến tỷ
lệ stress giảm. Bên cạnh công việc thì căng thẳng
cũng được giảm tải phần nào qua việc giải trí,
nhóm điều dưỡng khai báo rằng có thời gian giải
trí thì có tỷ lệ stress thấp hơn. Kết quả này tương
tự với kết quả nghiên cứu của Đỗ Nguyễn Nhựt
Trần và cộng sự(3). Điều này là phù hợp bởi giải
trí làm giảm căng thẳng trong cuộc sống, từ đó
góp phần giảm tỷ lệ mắc stress.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 285
KẾT LUẬN
Dù mẫu nghiên cứu còn nhỏ, nhưng những
kết quả của nghiên cứu là cơ sở định hướng cho
những nhà quản lý trong bệnh viện sàng lọc
được những trường hợp điều dưỡng bị stress và
các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu này sẽ
giúp bệnh viện có chế độ thích hợp với điều
dưỡng và cải thiện được môi trường làm việc,
qua đó làm giảm tỷ lệ stress của điều dưỡng
trong bệnh viện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (2011).
Điều lệ tổ chức và hoạt động của bệnh viện Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Charlesworth EA, Williams BJ, Baer PE (1984). "Stress
management at the worksite for hypertension: compliance,
cost-benefit, health care and hypertension-related variables".
Psychosom Med, 46, (5):387-97.
3. Đỗ Nguyễn Nhựt Trần, Nguyễn Hồng Hoa, Trần Thiện Thuần
(2008). "Stress và các yếu tố liên quan ở nhân viên Y tế huyện
Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai năm 2008". Y Học TP. Hồ Chí Minh,
12, (4):tr. 1-5.
4. Eleni M, Fotini A, Maria M, Ioannis ZE, Constantina K,
Theodoros C (2010). "Research in occupational stress among
nursing staff - a comparative study in capital and regional
hospitals". Hellenic Journal of Nursing Science, 3(3):79-84.
5. Gholamzadeh S, Sharif F, Rad FD (2011). "Sources of
occupational stress and coping strategies among nurses who
work in Admission and Emergency Departments of Hospitals
related to Shiraz University of Medical Sciences". Iran J Nurs
Midwifery Res, 16, (1):41-6.
6. Golubic R, Milosevic M, Knezevic B, Mustajbegovic J (2009).
"Work-related stress, education and work ability among
hospital nurses". J Adv Nurs, 65, (10):2056-66.
7. Hsu HC, Kung YW, Huang HC, Ho PY, Lin YY, Chen WS
(2007). "Work stress among nursing home care attendants in
Taiwan: A questionnaire survey". International journal of nursing
studies, 44, (5):736-46.
8. Hulsman RL, Pranger S, Koot S, Fabriek M, Karemaker JM,
Smets EM (2010). "How stressful is doctor-patient
communication? Physiological and psychological stress of
medical students in simulated history taking and bad-news
consultations". Int J Psychophysiol, 77,(1):26-34.
9. Isfort M. (2013). "[Influence of personnel staffing on patient
care and nursing in German intensive care units. Descriptive
study on aspects of patient safety and stress indicators of
nursing]". Med Klin Intensivmed Notfmed, 108(1):71-7.
10. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2008.) "Tình
hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng". Tạp chí Y
Học TP. Hồ Chí Minh, 12, (4):tr. 1-5.
11. McFarlane D, Duff EM, Bailey EY (2004). "Coping with
occupational stress in an accident and emergency department".
West Indian Med J, 53, (4):242-7.
12. Shirey MR (2006). "Stress and coping in nurse managers: two
decades of research". Nurs Econ, 24(4):193-203, 211 passim.
13. StatisticsSolutions (2017). General Health Questionnaire (GHQ),
https://www.statisticssolutions.com/general-health-
questionnaire-ghq/, accessed on 01 Dec 2017.
14. Trần Đăng Khoa (2013). Stress và các yếu tố liên quan ở nhân
viên điều dưỡng tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương năm
2013. Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
15. Trevor RP, Bernard JB (1977). "The Relationship to Death as a
Source of Stress for Nurses on a Coronary Care Unit". Sage
Journals, 8(3).
16. WHO (2002). Strategic Directions for Strengthening Nursing
and Midwifery Services.
17. WHO (2009). Nurses and Midwives: A force for health.
18. Williams ES, Manwell LB, Konrad TR, Linzer M (2007). "The
relationship of organizational culture, stress, satisfaction, and
burnout with physician-reported error and suboptimal patient
care: results from the MEMO study". Health Care Manage Rev,
32(3):203-12.
19. Wu H, Chi TS, Chen L, Wang L, Jin Y (2010). "Occupatinal
stress among hospital nurses: cross-sectional survey". Journal of
Advanced Nursing, 66(3):627-34.
20. Zaghloul AA., Enein N (2009). "Nurse stress at two different
organizational settings in Alexandria". Journal of
Multidisciplinary Healthcare, 2:45-51.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- stress_va_cac_yeu_to_lien_quan_den_stress_o_dieu_duong_tai_b.pdf