Tài liệu Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 223
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU Ở ĐIỀU DƯỠNG
Hồ Thị Thu Hương*,Trần Kim Trang**
TÓM TẮT
Mở đầu: Áp lực công việc là một tác nhân gây sang chấn tâm lý khá phổ biến, với các dạng rối loạn tâm thần
(RLTT) như stress, trầm cảm và lo âu Mỗi ngành nghề có tải công việc khác nhau nên tỉ lệ, mức độ và các yếu
tố ảnh hưởng đến các rối loạn cũng khác nhau.
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng (ĐD).
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả 441 ĐD đang làm việc tại các khoa nội, khoa hồi sức
tích cực và khoa cấp cứu của bệnh viện (BV) Nhân dân Gia Định (NDGĐ), BV Nguyễn Tri Phương (NTP) từ 03
– 07/2015. Sử dụng thang đánh giá DASS 21.
Kết quả: Tỉ lệ ĐD bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 35,8%, 25,9%, 47,8%, đa số ở mức độ nhẹ và vừa.
17,2% ĐD có cùng 3 dạng rối loạn trên. Số giờ làm việc trung bình trong tuần, khối lượng công việc nhiều, quan
hệ không ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 223
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU Ở ĐIỀU DƯỠNG
Hồ Thị Thu Hương*,Trần Kim Trang**
TÓM TẮT
Mở đầu: Áp lực công việc là một tác nhân gây sang chấn tâm lý khá phổ biến, với các dạng rối loạn tâm thần
(RLTT) như stress, trầm cảm và lo âu Mỗi ngành nghề có tải công việc khác nhau nên tỉ lệ, mức độ và các yếu
tố ảnh hưởng đến các rối loạn cũng khác nhau.
Mục tiêu: Khảo sát tình trạng stress, trầm cảm, lo âu ở điều dưỡng (ĐD).
Đối tượng và phương pháp: Thiết kế cắt ngang mô tả 441 ĐD đang làm việc tại các khoa nội, khoa hồi sức
tích cực và khoa cấp cứu của bệnh viện (BV) Nhân dân Gia Định (NDGĐ), BV Nguyễn Tri Phương (NTP) từ 03
– 07/2015. Sử dụng thang đánh giá DASS 21.
Kết quả: Tỉ lệ ĐD bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 35,8%, 25,9%, 47,8%, đa số ở mức độ nhẹ và vừa.
17,2% ĐD có cùng 3 dạng rối loạn trên. Số giờ làm việc trung bình trong tuần, khối lượng công việc nhiều, quan
hệ không tốt với bệnh nhân và thân nhân liên quan độc lập với cả stress, trầm cảm và lo âu. Trong khi khoa phòng
công tác chỉ ảnh hưởng đến stress, lo âu thì quan hệ không tốt với lãnh đạo lại làm tăng nguy cơ trầm cảm ở ĐD.
Kết luận: ĐD có tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu khá cao. Cần tổ chức khám sàng lọc định kỳ, cải thiện môi
trường làm việc và các quan hệ trong công việc cũng như sắp xếp thời gian nghỉ ngơi hợp lý sẽ góp phần cải thiện
thực trạng này.
Từ khóa: stress, trầm cảm, lo âu, điều dưỡng
ABSTRACT
STRESS, ANXIETY, DEPRESSION IN NURSES
Ho Thi Thu Huong, Tran Kim Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 223 - 229
Background: Pressure at the workplace is a popular stressor of mental disorders as stress, depression,
anxiety Different professions have various pressures leading to different agents, prevalence and level of
mental disorders.
Objectives: To investigate the state of stress, anxiety and depression in nurses.
Methods: A cross – sectional survey using DASS 21 questionnaire was conducted on 441 nurses of Internal
Medical Department, Intensive Care Unit, Emergency Department in Nhan dan Gia Dinh hospital and Nguyen
Tri Phuong hospital during 03 - 07/2015.
Results: The prevalence of stress, anxiety and depression was 35.8%, 25.9%, 47.8%, respectively with
mostly mild and moderate level. 17.2% of nurses had all 3 disorders. The average work week, workload, bad
relationship with patient and their family were independently associated with all stress, depression and anxiety.
While workplace factor has been found to be associated with stress and anxiety, bad relationship with leader seem
to increase the risk of triggering depression.
Conclusion: There was a high prevalence of stress, depression, anxiety in nurses. Organizing
periodical screening, improving the work environment and work relationships, having respite from hard
work will improve this condition.
* Bệnh viện Quận Thủ Đức, ** Bộ môn nội ĐHYD TPHCM
Tác giả liên lạc: ThS BS. Hồ Thị Thu Hương ĐT: 0935388740 Email: ant_huong@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 224
Keywords: stress, anxiety, depression, nurse
ĐẶT VẤN ĐỀ
Áp lực công việc là một tác nhân gây sang
chấn tâm lý khá phổ biến, với các thể RLTT như
stress, trầm cảm và lo âu. So với các ngành nghề
khác, do điều kiện lao động đặc thù, nguy cơ
mắc RLTT ở nhân viên y tế (NVYT) cao gấp 1,5
lần và ở ĐD cao hơn nữa(12). Các RLTT này để lại
những hậu quả nghiêm trọng như sai lầm trong
chăm sóc bệnh nhân, giao tiếp không tốt với
bệnh nhân, thân nhân cũng như ảnh hưởng đến
sức khoẻ bản thân và cuộc sống gia đình của ĐD.
Trong khi đó, báo cáo của ngành y tế tại
thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) ghi nhận, số
trường hợp điều trị nội trú ngày càng gia tăng,
khiến NVYT, đặc biệt là ĐD, trở thành đối tượng
nguy cơ của stress, trầm cảm, lo âu. Tuy nhiên
hầu hết các nghiên cứu đã công bố hoặc khảo sát
độc lập (không cùng lúc) 3 RLTT trên hoặc khảo
sát ngoài TP.HCM.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm xác định tỷ lệ, mức độ và các yếu tố liên
quan đến stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD TP.HCM,
với mong muốn các kết quả nghiên cứu sẽ làm
tiền đề cho các nghiên cứu liên quan đến phòng
chống stress, trầm cảm, lo âu và bảo vệ sức khoẻ
cho ĐD TP.HCM sau này, đối tượng quan trọng
có nhiệm vụ chăm lo sức khoẻ người bệnh.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo
âu ở ĐD các khoa nội.
Khảo sát mối liên quan của stress, trầm cảm,
lo âu với các yếu tố dân số học (giới, tuổi), xã hội
học (nơi cư trú, tình trạng gia đình, kinh tế gia
đình, trình độ học vấn), đặc tính công việc (khoa
phòng công tác, thời gian lao động, lương bổng,
chức vụ, khối lượng công việc, môi trường làm
việc), quan hệ trong công việc (với lãnh đạo,
đồng nghiệp, bệnh nhân, thân nhân).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Địa điểm:
BV NTP và BV NDGĐ tại TP.HCM.
Thời gian nghiên cứu
22/02/2015- 20/07/2015.
Đối tượng nghiên cứu
ĐD đang làm việc tại các khoa nội và hồi sức
cấp cứu của 2 BV trên.
Cỡ mẫu
Theo công thức tính tỷ lệ lưu hành của 1
quần thể.
n: cỡ mẫu tối thiểu cần điều tra = 228
α : xác suất sai lầm loại 1, chọn α = 0,05 thì Z1- α/2 = Z0,975
= 1,96.
d: sai số cho phép (độ chính xác mong muốn của ước
lượng), chọn d = 0,05.
p = 0,181 (Tình trạng stress của ĐD và nữ hộ sinh BV
Phụ sản Nhi Đà Nẵng năm 2014”của Ngô Thị Kiều My
có 18,1% trên 370 ĐD và nữ hộ sinh được khảo sát có
biểu hiện stress)(7).
Phương pháp chọn mẫu
Thuận tiện liên tiếp không xác suất.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả ĐD đang làm việc tại 1 trong các khoa
nội và hồi sức cấp cứu của 1 trong 2 BV kể cả
biên chế và hợp đồng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Vắng mặt dài hạn trong đợt khảo sát (nghỉ
hậu sản, nghỉ ốm).
Vắng mặt cả ba lần trong đợt khảo sát.
Từ chối phỏng vấn của điều tra viên.
Phương pháp thu thập số liệu
ĐD đọc hướng dẫn trên phiếu thu thập, tự
điền các dữ liệu vào bảng thu thập số liệu và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 225
bảng dịch tiếng Việt thang DASS của Viện sức
khỏe tâm thần quốc gia.
Mức độ stress, lo âu và trầm cảm theo thang
DASS 21: biến định lượng sau đó mã hóa thành
biến định tính, mỗi dạng rối loạn có 5 giá trị như
bảng sau:
Bảng 1: Mức độ stress, trầm cảm, lo âu
Mức độ Stress Lo âu Trầm cảm
Bình thường 0 - 14 0 - 7 0 - 9
Nhẹ 15 - 18 8 - 9 10 - 13
Vừa 19 - 25 10 - 14 14 - 20
Nặng 26 - 33 15 - 19 21 - 27
Rất nặng ≥34 ≥20 ≥28
Phương pháp phân tích số liệu
Nhập liệu bằng Excel.
Xử lý số liệu bằng chương trình SPSS 17.0.
Thống kê mô tả và thống kê phân tích.
Phân tích đơn biến:
Biến số định lượng trình bày dạng trung
bình và độ lệch chuẩn, kiểm định sự khác biệt
thống kê bằng T test với phân phối chuẩn. Nếu
không có phân phối chuẩn, biến số được trình
bày bằng trung vị và khoảng tứ phân vị
(interquartile 25 – 75) (KTPV) và dùng phép
kiểm Wilcoxon rank sum test. Dùng phép kiểm
định Kolmogorov - Smirnov để xác định biến số
có phân phối chuẩn hay không.
Biến số định tính trình bày dạng tỷ lệ %,
kiểm định sự khác biệt thống kê bằng chi bình
phương hay Fisher test khi > 20% tần số mong
đợi trong bảng < 5.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Biểu diễn sự tương quan giữa hai biến định
lượng dùng hệ số tương quan Pearson cho phân
phối chuẩn hay tương quan Spearman cho biến
không có phân phối chuẩn. Tìm mối tương quan
giữa hai biến định lượng bằng phân tích hồi quy
tuyến tính.
Để khử nhiễu giữa các biến số dùng hồi quy
logistic đa biến.
Vấn đề y đức
Nghiên cứu không ảnh hưởng thời gian, tài
chính, sức khỏe, và riêng tư của điều dưỡng.
Thông tin của phiếu khảo sát được giữ bí mật.
KẾT QUẢ
441 ĐD được khảo sát. Tỷ lệ ĐD tham gia
nghiên cứu là 90,7%. Tỷ lệ ĐD tham gia nghiên
cứu của 2 BV cao tương tự nhau. Không có ĐD
từ chối phỏng vấn. Tỷ lệ ĐD tham gia nghiên
cứu tại mỗi khoa cao (82,2% - 97,8%) nên kết quả
đạt được từ nghiên cứu có thể đại diện cho dân
số nghiên cứu.
Các đặc điểm dân số chung
Nữ 386 (87,5%), nam 55 (12,5%).
Tuổi trung bình 32,8 ± 7,9. Biến số tuổi không
có phân phối chuẩn, nên trung vị là 31, khoảng
tứ phân vị 27 - 36. Nhóm < 30 tuổi và 30 – 39 tuổi
tương đương nhau và chiếm tỷ lệ cao nhất.
Biểu đồ 1: Phân bố ĐD theo nhóm tuổi
Các đặc điểm liên quan đến RLTT
Về tình trạng hôn nhân, hơn ½ ĐD lập gia
đình (60,1%) trong đó 1,4% ly dị hay góa bụa.
92,3% ĐD sống chung với người thân.
Về trình độ học vấn, trung cấp chiếm đa số
(88,7%), cao đẳng 2%, đại học 9,3%.
Gần ½ ĐD (42%) công tác < 5 năm. 80% ĐD
tham gia trực gác.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 226
Bảng 2: Các đặc điểm nghề nghiệp của mẫu nghiên
cứu (n = 441)
Đặc tính công việc Tỷ lệ %
Khối hồi sức cấp cứu 31,1
Thu nhập cá nhân(VN đồng)
< 5 triệu
5 – 10 triệu
> 10 triệu
5,5 ± 0,9
37
62,1
0,9
Số giờ làm việc trong tuần
≤ 48 giờ
> 48 - < 60 giờ
≥ 60 giờ
48,8 ± 6,4
64,4
29
6,6
Khối lượng công việc nhiều 59,9
Không đủ thời gian nghỉ ngơi 45,8
Tiếp xúc hoá chất độc hại 83,2
Tiếp xúc vi sinh vật gây bệnh 88,7
Môi trường làm việc không thuận lợi * 78
Thiếu trang thiết bị y tế 69,6
Môi trường làm việc không thuận lợi: quá
nóng, quá ồn ào, quá bụi, thiếu ánh sáng
Về mối quan hệ trong công việc, ¾ ĐD cho
rằng bản thân có mối quan hệ tốt với lãnh đạo
(77,7%), hầu hết ĐD cho rằng bản thân có mối
quan hệ tốt với đồng nghiệp (91,4%), trong khi
quan hệ với bệnh nhân và thân nhân, chỉ hơn
1/3 ĐD cho rằng có quan hệ tốt (36,5%).
Tỷ lệ, mức độ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD
Bảng 3: Số điểm stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD
RLTT TB ± ĐLC TV (ĐLC)
Stress 12,7 ± 7,2 12 (8 – 16)
Trầm cảm 6,5 ± 6,1 6 (2 – 10)
Lo âu 7,6 ± 6,3 6 (4 – 10)
Bảng 4: Tỉ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD
RLTT Stress Trầm cảm Lo âu
Không 64,2 74,2 52,2
Rối loạn 35,8 25,8 47,8
Nhẹ 18,1 14,1 14,7
Vừa 11,8 7,9 23,1
Nặng 5,4 2.7 4,1
Rất nặng 0,5 1,1 5,9
58,7% ĐD có RLTT, trong đó 17,2% ĐD có
cả 3 dạng RLTT; 16,3% có 2 trong 3 dạng
RLTT.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ điều dưỡng có rối loạn tâm thần
Các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm,
lo âu
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến stress – phân tích
đa biến
Biến số Giá trị p OR KTC 95%
Phân bố địa chính 0,025 2,9 1,15 – 7,35
Khoa phòng công tác < 0,001 2,97 1,69 – 5,21
Số giờ làm việc trung bình
trong tuần
< 0,001 1,07 1,03 – 1,11
Khối lượng công việc < 0,001 3,15 1,78 – 5,58
Môi trường làm việc 0,013 2,39 1,2 – 4,73
Quan hệ với bệnh nhân -
thân nhân
< 0,001 6,26 3,58 – 10,94
Theo bảng trên, 5 yếu tố liên quan đến tăng
stress là thường trú tại TP.HCM, làm việc tại
khối hồi sức cấp cứu, khối lượng công việc
nhiều, môi trường làm việc không thuận lợi, mối
quan hệ không tốt với bệnh nhân và thân nhân.
Tuy có ý nghĩa thống kê nhưng số giờ làm việc
trung bình trong tuần không có tương quan
mạnh với tỷ lệ stress.
Bảng 6: Các yếu tố liên quan đến trầm cảm – phân
tích đa biến
Biến số Giá trị p OR KTC 95%
Phân bố địa chính 0,043 3,12 1,04 – 9,38
Số giờ làm việc trung bình
trong tuần
< 0,001 1,09 1,04 – 1,14
Khối lượng công việc 0,003 2,64 1,4 – 5
Quan hệ với lãnh đạo 0,01 2,38 1,24 – 4,6
Quan hệ với bệnh nhân và
thân nhân
< 0,001 8,31 4,06 – 17,01
Theo bảng trên, 4 yếu tố liên quan đến tăng
trầm cảm là thường trú ở TP.HCM, khối lượng
công việc nhiều, mối quan hệ không tốt với lãnh
đạo, mối quan hệ không tốt với bệnh nhân và
thân nhân. Tuy có khác biệt thống kê, nhưng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 227
thời gian làm việc trung bình trong tuần không
có mối tương quan mạnh với tỷ lệ trầm cảm.
Bảng 7: Các yếu tố liên quan đến lo âu – phân tích đa
biến
Biến số Giá trị p OR KTC 95%
Khoa phòng công tác < 0,001 3,46 2,1 – 5,72
Số giờ làm việc trung bình
trong tuần
0,029 1,04 1,01 – 1,08
Khối lượng công việc 0,034 1,66 1,04 – 2,66
Quan hệ với bệnh nhân và
thân nhân
< 0,001 6,06 3,73 – 9,83
Theo bảng trên, 3 yếu tố liên quan đến tăng
lo âu là làm việc trong khối hồi sức cấp cứu, khối
lượng công việc nhiều, mối quan hệ không tốt
với bệnh nhân - thân nhân. Tuy có ý nghĩa thống
kê nhưng thời gian làm việc trung bình trong
tuần không có tương quan mạnh với tỷ lệ lo âu.
BÀN LUẬN
Tỉ lệ và mức độ rối loạn
Hầu hết các nghiên cứu dùng thang điểm
DASS để khảo sát tình trạng stress, trầm cảm,
lo âu ở ĐD, chúng tôi không ghi nhận cụ thể
số điểm stress, trầm cảm, lo âu nên khó so
sánh đối chiếu.
Bảng 8: Tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD giữa
các nghiên cứu sử dụng thang điểm DASS
Tác giả n
Tỷ lệ %
Stress Trầm cảm Lo âu
El-aal Nevine 2014
(3)
126 41,6 41,8 69
Nur Azma BA 2014
(1)
453 4,1 3,1 31,1
Ngô Thị Kiều My 2014
(7)
208 18,1
Chúng tôi 441 35,83 25,85 47,8
Với các nghiên cứu cùng sử dụng thang
DASS 21 như nghiên cứu của El-aal Nevine(3), tỷ
lệ stress, trầm cảm, lo âu của nghiên cứu chúng
tôi thấp hơn. Sự chênh lệch là do tác giả tiến
hành trên ĐD làm việc trong khối hồi sức cấp
cứu vốn được xem là yếu tố nguy cơ RLTT.
Ngược lại, kết quả nghiên cứu chúng tôi cao
hơn nghiên cứu của Nur Azma BA(1), do tác giả
tiến hành trên toàn bộ ĐD gồm cả các khoa,
phòng chức năng ít chịu áp lực công việc. Hơn
nữa, nghiên cứu được tiến hành trên 7 BV ở các
tuyến khác nhau, các tuyến dưới thường có áp
lực công việc thấp hơn tuyến trên.
Ngô Thị Kiều My(7) khảo sát tại BV Phụ sản
Nhi Đà Nẵng trên 208 ĐD và 162 nữ hộ sinh có
tỷ lệ stress 18,1%, thấp hơn nghiên cứu chúng
tôi, do khác biệt đối tượng nghiên cứu (ĐD khoa
Nhi và nữ hộ sinh so với ĐD khối nội) và nơi
nghiên cứu (Đà Nẵng so với TP.HCM).
Ở Việt Nam, hiện nay rất ít nghiên cứu dùng
thang điểm DASS để đánh giá trầm cảm và lo âu
trên đối tượng ĐD. Do đó, chúng tôi chỉ có thể so
sánh ở mức tương đối. Nghiên cứu của Trần Thị
Thúy(9) thực hiện tại BV Ung bướu Hà Nội ghi
nhận tỷ lệ NVYT bị trầm cảm là 23,2%, lo âu là
40,5%, thấp hơn so với nghiên cứu chúng tôi, có
thể do khác nhau về đặc điểm của đối tượng
nghiên cứu. Nghiên cứu của Trần Thị Thúy(9)
đánh giá trên toàn bộ NVYT có thể bao gồm cá
thể ít chịu áp lực công việc hơn.
Các nghiên cứu trên đều cho thấy tỷ lệ stress,
trầm cảm, lo âu ở mức độ nhẹ - vừa chiếm đa số.
Nghiên cứu chúng tôi cho kết quả tương tự.
Các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm,
lo âu ở điều dưỡng
Tổng quan y văn cho thấy các yếu tố như
tuổi, giới nữ, hôn nhân không hạnh phúc,
trình độ học vấn là yếu tố nguy cơ của stress,
trầm cảm, lo âu. Trong nghiên cứu chúng tôi
không ghi nhận sự liên quan, điều này tương
đồng với nhiều nghiên cứu khác(3,5,6,7,8,10,11).
Với thu nhập cá nhân, trong nghiên cứu
chúng tôi, điểm và tỷ lệ stress tăng lên ở nhóm
đối tượng thu nhập > 10 triệu/tháng (p = 0,031).
Tuy nhiên, khi tiến hành khử nhiễu bằng hồi
quy logistic, lại không có sự khác biệt về tỷ lệ
stress giữa các nhóm đối tượng, tương đồng với
nghiên cứu của Schmidt Denise RC(8) không có
mối liên quan giữa thu nhập cá nhân với tỷ lệ
trầm cảm. Ngược lại, nghiên cứu của Vũ Ngọc
Trinh(11) cho thấy sự liên quan giữa tỷ lệ stress
với thu nhập cá nhân (OR 1,64, KTC 95% 1,14 –
2,35). Điều này có thể xuất phát từ thu nhập cá
nhân trong nghiên cứu chúng tôi thấp hơn và tỷ
lệ ĐD thu nhập < 5 triệu đồng/tháng cao hơn
nhiều so với nghiên cứu Vũ Ngọc Trinh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 228
Bảng 9: Các yếu tố liên quan stress, trầm, cảm, lo âu ở các nghiên cứu trong và ngoài nước
Tác giả Các yếu tố ảnh hưởng
Schmidt Denise 2011
(8)
Trầm cảm – lo âu: làm thêm giờ, BV công tác.
Letvak Susan 2012
(6)
Trầm cảm: Chỉ số khối cơ thể, sự hài lòng công việc, số lượng bệnh mắc kèm theo, tinh thần thoải
mái, ảnh hưởng sức khoẻ đến năng suất làm việc.
Gong Yanhong 2014
(3)
Trầm cảm: Bạo lực nơi làm việc, thời gian làm việc trung bình một tuần quá dài (> 45 giờ), thường
xuyên trực đêm (≥ 2 đêm/ tuần).
Lê Thành Tài 2008
(5)
Stress: Thâm niên công tác, làm việc quá nhiều giờ (> 8giờ/ngày), công việc nhiều, áp lực, không
hứng thú, làm việc trong điều kiện thiếu thốn máy móc, trang thiết bị, đông người, ồn ào, tiếp xúc
nhiều mầm bệnh, dễ bị thương tích, thường gặp phản ứng của bệnh nhân và thân nhân, mâu thuẫn
với đồng nghiệp - cấp trên; thu nhập chưa thỏa đáng và công việc ít cơ hội thăng tiến.
Trương Đình Chính
2010
(10)
Trầm cảm – lo âu: Tình trạng hôn nhân, khoa phòng công tác, công việc quá nặng nhọc, chịu sức
ép nặng nề trong công việc.
Vũ Ngọc Trinh 2013
(11)
Stress: Thu nhập cá nhân, trình độ học vấn, khoa phòng công tác, thâm niên công tác.
Ngô Thị Kiều My 2014
(7)
Stress: Mức ổn định công việc, diện tích nơi làm việc, quan hệ với cấp trên.
Chúng tôi ghi nhận điểm trung vị stress,
trầm cảm, lo âu của ĐD khối hồi sức cấp cứu cao
hơn so với các khoa nội khác có ý nghĩa thống
kê. Mặt khác, tỷ lệ và mức độ stress, trầm cảm, lo
âu của ĐD khối hồi sức cấp cứu cũng cao hơn.
Tuy nhiên chỉ có stress, lo âu thì sự khác biệt mới
có ý nghĩa thống kê. Hầu hết các nghiên cứu
không so sánh sự liên quan giữa tỷ lệ stress, trầm
cảm, lo âu giữa 2 khối này, vì thế chúng tôi
không có dữ liệu đối chiếu. Tuy nhiên, nghiên
cứu El-aal Nevine và đồng sự(3) trên đối tượng
ĐD làm việc tại khối hồi sức cấp cứu ghi nhận tỷ
lệ stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD cao hơn so với các
đối tượng khác của các nghiên cứu khác.
Tổng quan về mối liên quan giữa số giờ làm
việc và tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu có mâu thuẫn
nhau. Hoặc cho rằng không có sự liên quan giữa
tỷ lệ stress, trầm cảm, lo âu với số giờ làm việc:
nghiên cứu của Schmidt Denise RC(8) (trầm cảm
và lo âu), Letvak Susan(6) (trầm cảm), Ngô Thị
Kiều My(7) (stress). Hoặc ghi nhận có liên quan:
Gong Yanhong(3) (trầm cảm, p < 0,01), Lê Thành
Tài(5) (stress, p < 0,001). Chúng tôi nhận thấy có
liên quan không mạnh giữa tỷ lệ stress, trầm
cảm, lo âu với số giờ làm việc trung bình trong
tuần (> 48 giờ), (stress: KCT 95% OR 1,03 – 1,11,
trầm cảm: KTC 95% OR 1,04 – 1,14, lo âu: KTC
95% OR 1,01 – 1,08).
Chúng tôi ghi nhận có liên quan giữa khối
lượng công việc nhiều với tỷ lệ stress, trầm cảm,
lo âu ở ĐD, tương đồng với nhiều nghiên cứu
khác: Lê Thành Tài(5) xác định sự liên quan giữa
stress với áp lực công việc (p < 0,001), Trương
Đình Chính(10) kết luận RLTT có liên quan với
yếu tố công việc nặng nhọc (p = 0,04), chịu sức ép
nặng nề trong công việc (p < 0,001).
Môi trường làm việc ồn ào, quá nóng, thiếu
ánh sáng, bụi làm ảnh hưởng đến tâm lý của
đối tượng. Chúng tôi chỉ nhận thấy vai trò của
môi trường làm việc ảnh hưởng đến stress (OR =
2,39, p = 0,013). Tác giả Lê Thành Tài(5), Ngô Thị
Kiều My(7) cho kết quả tương tự.
Mối quan hệ giữa bản thân với cấp trên,
đồng nghiệp và bệnh nhân – thân nhân sẽ ảnh
hưởng đến tâm lý của đối tượng. Qua phân
tích đa biến, chúng tôi nhận thấy vai trò của
mối quan hệ với bệnh nhân - thân nhân có ảnh
hưởng lớn đến tình trạng stress, trầm cảm, lo
âu của đối tượng nghiên cứu. Nhóm ĐD cảm
thấy có mối quan hệ không tốt có khả năng bị
stress, trầm cảm, lo âu cao gấp 6,06 - 8,31 lần
so với nhóm đối tượng còn lại. Nghiên cứu
chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của
Nakakis Konstantinos(4) (liên quan giữa tỷ lệ
stress với những phản ứng tiêu cực và bạo lực
của bệnh nhân), nghiên cứu của Lê Thành
Tài(5) (liên quan giữa tỷ lệ stress với phản ứng
của bệnh nhân và thân nhân: chửi mắng, đe
doạ, hành hung) (p < 0,001).
Khảo sát của chúng tôi cho thấy mối quan hệ
với lãnh đạo chỉ ảnh hưởng đến trầm cảm.
Nhóm ĐD cho rằng mối quan hệ không tốt với
lãnh đạo có khả năng bị trầm cảm cao gấp 2,38
lần so với nhóm còn lại (p = 0,01), trái ngược với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 229
một số tác giả như Lê Thành Tài(5) (p = 0,01), Ngô
Thị Kiều My(7) (p = 0,003) khi đề cập mối liên
quan giữa tỷ lệ stress với mối quan hệ không tốt
với lãnh đạo – cấp trên. Trong khi đó, tác giả
Trương Đình Chính(10) lại không ghi nhận mối
liên quan giữa tỷ lệ RLTT với mâu thuẫn cấp
trên (p = 0,08). Mặt khác, chúng tôi cũng không
ghi nhận ảnh hưởng của mối quan hệ với đồng
nghiệp lên stress, trầm cảm, lo âu ở ĐD, khác với
nghiên cứu của Lê Thành Tài(5) (p = 0,001) khi đề
cập mối liên quan giữa tỷ lệ stress với quan hệ
không tốt với đồng nghiệp.
KẾT LUẬN
So với các ngành nghề khác, ĐD có tỉ lệ
stress, trầm cảm, lo âu cao hơn. Điều này đòi
hỏi cần có những biện pháp tích cực từ các cấp
lãnh đạo của BV, xã hội, gia đình và tự thân
ĐD để giảm thiểu tình trạng này. Các nghiên
cứu trong nước còn khá ít về vấn đề này, còn
nghiên cứu của chúng tôi chỉ là bước đầu ghi
nhận, cần được khảo sát sâu và rộng hơn tại
các BV trên toàn quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amin Nur Azma, Nordin Rusli et al (2014),”Psychometric
properties of the Malay version of the Depression Anxiety
Stress Scale-21 (M-DASS21) among nurses in public hospitals
in the Klang Valley", International Journal of Collaborative
Research on Internal Medicine & Public Health [E], 6 (5), pp.109-
120.
2. El-Aal Nevine H Abd,Ibrahim Hassan N (2014),”Relationship
between staff nurses’ satisfaction with quality of work and
their levels of depression, anxiety and stress in critical care
units", Journal of American Science, 10(1S): pp.91- 101.
3. Gong Y, Han T, et al (2014),”Prevalence of depressive
symptoms and work-related risk factors among nurses in
public hospitals in southern China: A cross-sectional study",
Scientific reports 4: 7109 doi:10.1038/srep07109.
4. Konstantinos N,Christina O (2008),”Factors influencing stress
and job satisfaction of nurses working in psychiatric units: a
research review", Health Sci J, 2 (4), pp.183-195.
5. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân et al (2008),”Tình hình stress
nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng", Tạp chí Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, 12 (4), tr. 216 -220.
6. Letvak S, Ruhm Christopher J, et al (2012),”Depression in
hospital-employed nurses", Clinical Nurse Specialist, 26 (3),
pp.177-182.
7. Ngô Thị Kiều My, Trần Đình Vinh et al (2014),”Trình trạng
stress của điều dưỡng và hộ sinh bệnh viện Phụ sản Nhi Đà
Nẵng năm 2014", Tạp chí Y tế Công cộng, 34 tr. 57-62.
8. Schmidt DR, Dantas RA, et al (2011),”Anxiety and depression
among nursing professionals who work in surgical units",
Revista da Escola de Enfermagem da USP, 45 (2), pp.487-493.
9. Trần Thị Thúy (2011), Đánh giá trạng thái stress của cán bộ y
tế khối lâm sàng bệnh viện Ung bướu Hà Nội năm 2011, Luận
văn Thạc sỹ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế Công cộng.
10. Trương Đình Chính (2010), Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng
và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu năm 2009, Luận văn
chuyên khoa 2 Quản lý bệnh viện, Đại học Y dược Tp.HCM.
11. Vũ Ngọc Trinh (2013),Tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan của
điều dưỡng tại bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Tp.HCM
năm 2013, Luận án Thạc sĩ, Đại học Y dược Tp.HCM.
12. Wall TD, Bolden RI et al (1997),”Minor psychiatric disorder in
NHS trust staff: occupational and gender differences", The
British Journal of Psychiatry, 171 (6), pp.519-523.
Ngày nhận bài báo: 01/12/2016
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 27/12/2016
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- stress_tram_cam_lo_au_o_dieu_duong.pdf