Tài liệu Stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế Bệnh viện Trưng Vương năm 2018: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
71
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2018
Nguyễn Mạnh Tuân*, Đàm Thị Tám Hương*, Đặng Quang Hiếu*, Lâm Mỹ Dung*,
Huỳnh Thị Thanh Trang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngành Y tế ngày càng phải đối mặt với những thách thức lớn như lượng bệnh đông, nhu cầu
chăm sóc, sử dụng dịch vụ tiên tiến cao, khối lượng công việc lớn cũng như những nguy hại của đặc thù nghề
nghiệp. Áp lực công việc kéo dài dẫn đến tình trạng stress, trầm cảm đối với nhân viên Y tế. Tình trạng stress,
trầm cảm kéo dài và những hậu quả của vấn đề này là vô cùng nặng nề, tuy nhiên tác động của những việc này
lên nhân viên y tế lại diễn biến thầm lặng.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2018. Xác
định các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2018.
Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Nhân viên y tế t...
9 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên y tế Bệnh viện Trưng Vương năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
71
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ
BỆNH VIỆN TRƯNG VƯƠNG NĂM 2018
Nguyễn Mạnh Tuân*, Đàm Thị Tám Hương*, Đặng Quang Hiếu*, Lâm Mỹ Dung*,
Huỳnh Thị Thanh Trang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ngành Y tế ngày càng phải đối mặt với những thách thức lớn như lượng bệnh đông, nhu cầu
chăm sóc, sử dụng dịch vụ tiên tiến cao, khối lượng công việc lớn cũng như những nguy hại của đặc thù nghề
nghiệp. Áp lực công việc kéo dài dẫn đến tình trạng stress, trầm cảm đối với nhân viên Y tế. Tình trạng stress,
trầm cảm kéo dài và những hậu quả của vấn đề này là vô cùng nặng nề, tuy nhiên tác động của những việc này
lên nhân viên y tế lại diễn biến thầm lặng.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2018. Xác
định các yếu tố liên quan đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân viên tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2018.
Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Nhân viên y tế tại Bệnh viện Trưng Vương, năm 2018. Phương
pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Tỉ lệ đáp ứng là 72,1% (653/906). Trong tổng số 653 nhân viên tham gia nghiên cứu, nữ giới
chiếm đa số với 73,2%. Nhóm tuổi dưới 30 tuổi chiếm 28,8% mẫu nghiên cứu. Trình độ chuyên môn từ cao
đẳng, đại học trở lên là 44,4%. Nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu của mẫu nghiên cứu lần lượt là
10,5%, 20,8% và 31,5%. Áp lực công việc có mối liên đến tình trạng stress (p < 0,001), trầm cảm (p < 0,001), và
lo âu (p=0,005) sau phân tích đa biến.
Kết luận: Việc tìm hiểu các vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần, đặc biệt là stress, trầm cảm, lo âu là một
vấn đề quan trọng, cần phải được xác định một cách đầy đủ. Từ đó, có những can thiệp thích hợp để làm giảm
bớt tình trạng này cũng như có những kế hoạch làm tăng hài lòng nhân viên y tế, là cơ sở để nhân viên y tế có thể
thực hiện công việc tốt hơn và làm tăng chất lượng khám, chữa bệnh của cơ sở y tế đang tiến hành nghiên cứu
Từ khóa: Stress, trầm cảm, lo âu, DASS-21, Bệnh viện Trưng Vương.
ABSTRACT
INVESTIGATION OF HEALTH CARE WORKER’S STRESS, DEPRESSION AND ANXIETY
IN TRUNG VUONG HOSPITAL
Nguyen Manh Tuan, Dam Thi Tam Huong, Dang Quang Hieu, Lam My Dung, Huynh Thi Thanh Trang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 6- 2018: 71 - 79
Background: Mental health is an important issue that is associated with social, psychological, behavioral,
and biological factors, and it may seriously impact daily life and work. In recent years, the medical staff has had to
endure these and other various pressures due to the complexity of the doctor–patient relationship, and the
contradictions and disequilibrium between healthcare needs and medical development. The mental health status of
medical staff directly influences the quality of medical service and patient safety
Objectives: The aim of this study was to perform a comprehensive examination of the mental health status of
medical staff in a Vietnam public hospital about stress, depression, anxiety and its relative risk factors based on a
cross-sectional study.
Method: This cross-sectional study was conducted in January 2018. The DASS-21 questionnaire was used
to interview 650 health care workers.
* Bệnh viện Trưng Vương
Tác giả liên lạc: CN.YTCC Nguyễn Mạnh Tuân., ĐT: 0969019051, Email: tuannguyenyd@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
72
Results: The response rate was 72.1% (653/906). The prevalence of stress, depression and anxiety is 10.5%,
20.8%, 31.5% respectively. Results of the multivariable linear models showed that workload and work pressure
are most major related to mental health disorders in medical staff.
Conclusions: The burden of depression, anxiety, and stress among medical staff in Trung Vuong hospital
was found to be high. It is recommended to design preventive strategies to reduce the risk of these problems and to
minimize the disease burden.
Keywords: Stress, depression, anxiety, DASS-21, Trung Vuong hospital, Vietnam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới,
sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái
về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là
có bệnh hoặc tật(19). Sự căng thẳng trong công
việc, áp lực từ cuộc sống hiện đại có những tác
động tiêu cực đến tâm lý của người dân và gây
nên tình trạng stress. Điều này ảnh hưởng rất
nhiều đến sức khỏe của người dân nói chung và
người lao động nói riêng. Theo thống kê của
Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, tỉ lệ stress nghề
nghiệp ghi nhận được là 36% từ một khảo sát
trực tuyến(8). Trong khi đó, theo ghi nhận của cơ
quan An toàn và Sức khỏe của Anh quốc, ghi
nhận có 488.000 trường hợp stress, trầm cảm, lo
âu liên quan đến nghề nghiệp trong hai năm
2015 - 2016, tỉ lệ là 1,510 người trên 100.000
người lao động(7).
Stress nghề nghiệp ảnh hưởng đến sức khỏe,
cuộc sống và chất lượng làm việc của người lao
động. Stress nghề nghiệp làm gia tăng các vấn
đề về sức khỏe tâm thần như: rối loạn cảm xúc,
rối loạn giấc ngủ, mất tập trung, trầm cảm, lo âu
và có ý định tự tử(10). Theo thống kê của Hiệp hội
Lao động Anh quốc, ngành y tế và chăm sóc sức
khỏe là một trong những nhóm ngành có tỉ lệ
stress nghề nghiệp cao, tương đương với nhóm
ngành quản trị và chính trị, ngành giáo dục có tỉ
lệ stress nghề nghiệp thấp hơn(7).
Nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân
hiện nay là rất lớn, trình độ hiểu biết của người
dân về tình trạng sức khỏe cũng như cách để có
sức khỏe tốt hơn đã được cải thiện một cách
đáng kể thông qua các chương trình giáo dục
sức khỏe. Từ đó, ngành Y tế ngày càng phải đối
mặt với những thách thức lớn như lượng bệnh
đông, nhu cầu chăm sóc, sử dụng dịch vụ tiên
tiến cao, khối lượng công việc lớn cũng như
những nguy hại của đặc thù nghề nghiệp. Áp
lực công việc kéo dài dẫn đến tình trạng stress,
trầm cảm đối với nhân viên Y tế.
Việt Nam, stress do nghề nghiệp được ghi
nhận có tỉ lệ tương đối cao, tương đương với các
bệnh liên quan đến nghề nghiệp khác như bệnh
rối loạn cơ xương, giảm thính lực, ngộ độc hóa
chất, và các bệnh tâm thần do các yếu tố xã hội
gây ra(20). Kết quả một số nghiên cứu ghi nhận, tỉ
lệ stress nghề nghiệp của nhân viên y tế ghi
nhận dao động từ 26,9% đến 53,1%(4,9).
Tình trạng stress, trầm cảm kéo dài và
những hậu quả của vấn đề này là vô cùng
nặng nề, tuy nhiên tác động của những việc
này lên nhân viên y tế lại diễn biến thầm lặng.
Viêc tìm hiểu các vấn đề liên quan đến sức
khỏe tâm thần, đặc biệt là stress, trầm cảm, lo
âu là một vấn đề quan trọng, cần phải được
xác định một cách đầy đủ. Từ đó, có những
can thiệp thích hợp để làm giảm bớt tình trạng
này cũng như có những kế hoạch làm tăng hài
lòng nhân viên y tế, là cơ sở để nhân viên y tế
có thể thực hiện công việc tốt hơn và làm tăng
chất lượng khám, chữa bệnh của cơ sở y tế
đang tiến hành nghiên cứu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nhân viên y tế tại Bệnh viện Trưng Vương.
Tiêu chí chọn mẫu
Nhân viên hiện đang công tác từ 6 tháng trở
lên tại Bệnh viện Trưng Vương trong khoảng
thời gian từ 01/2018-06/2018.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
73
Tiêu chí loại ra
Nhân viên nghỉ phép trên 3 ngày tại thời
điểm khảo sát.
Nhân viên nghỉ hậu sản.
Nhân viên đang điều trị nội trú tại BV.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Phương pháp thu thập số liệu
Bộ công cụ đánh giá Stress-Trầm cảm-Lo âu
DASS-21.
Thang đo Stress, trầm cảm, lo âu được xây
dựng và phát triển bởi Hội Tâm thần Úc
(Psychology Foundation of Australia). Thang
đo gồm 42 câu hỏi khảo sát về 3 lĩnh vực chính
về các tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần
là Trầm cảm, Lo âu và Stress (Căng thẳng).
Thang đo đã được dịch ra 45 thứ tiếng, trong
đó có Việt Nam, và được áp dụng rộng rãi trên
toàn thế giới(16).
Tại Việt Nam, thang đo DASS-21 được đánh
giá tính tin cậy và tính giá trị với chỉ số
Cronbach’s Alpha từ 0,70 đến 0,88 cho các tiểu
mục và toàn bộ thang đo. Độ nhạy và độ chuyên
của thang đo là 79,1% và 77,0% với điểm cắt là
trên 33 điểm theo điểm của thang đo. Theo kết
quả nghiên cứu, thang đo có thể được sử dụng
như một công cụ sàng lọc các vấn đề sức khỏe
tâm thần thông thường trong chăm sóc sức khỏe
ban đầu, can thiệp cộng đồng hoặc trong bối
cảnh lâm sàng tại Việt Nam(18).
Bảng 1: Bảng điểm về các mức độ Stress-Trầm cảm-
lo âu theo DASS-21
Mức độ Stress Trầm cảm Lo âu
Bình thường 0-14 0-7 0-9
Nhẹ 15-18 8-9 10-13
Vừa 19-25 10-14 14-20
Nặng 26-33 15-19 21-27
Rất nặng ≥34 ≥20 ≥28
Phương pháp xử lý dữ liệu
Nhập dữ liệu: sử dụng phần mềm Epi Data 3.1.
Xử lý dữ liệu: phần mềm Stata 13.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu liên hệ và phát phiếu tự điền
cho toàn bộ 902 nhân viên y tế đáp ứng tiêu chí
chọn mẫu, ghi nhận có 650 nhân viên đồng ý
(72,1%) và điền thông tin vào phiếu điều tra
trong thời gian từ 01/2018 - 06/2018.
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Tỷ lệ nữ giới cao hơn so với nam giới, 73,2%
và 26,8%. Nhóm tuổi dưới 30 tuổi chiếm 28,8%
mẫu nghiên cứu. Trình độ chuyên môn từ cao
đẳng, đại học trở lên chiếm 44,4%. Có 74% mẫu
nghiên cứu có tổng thu nhập bình quân hàng
tháng từ 5 đến dưới 10 triệu. Điều dưỡng/Nữ hộ
sinh chiếm 49,5%. Có 6% mẫu nghiên cứu có
kiêm nhiệm quản lý.
Các yếu tố về công việc
Bảng 2: Tính chất công việc (n=650)
Tính chất công việc Tần số Tỉ lệ (%)
Cảm thấy công việc nhàm chám đơn
điệu
Không bao giờ 142 21,8
Hầu như không 156 24,0
Thỉnh thoảng 301 46,3
Khá thường xuyên 33 5,1
Thường xuyên 18 2,8
Cảm thấy công việc có mức độ nguy
hiểm cao
Không bao giờ 53 8,1
Hầu như không 81 12,5
Thỉnh thoảng 279 42,9
Khá thường xuyên 122 18,8
Thường xuyên 115 17,7
Cảm thấy công việc có áp lực phải hoàn
thành cao
Không bao giờ 35 5,4
Hầu như không 81 12,5
Thỉnh thoảng 294 45,2
Khá thường xuyên 123 18,9
Thường xuyên 117 18,0
Cảm thấy không hài lòng với không khí
làm việc hiện tại
Không bao giờ 95 14,6
Hầu như không 173 26,6
Thỉnh thoảng 297 45,7
Khá thường xuyên 51 7,9
Thường xuyên 34 5,2
Ghi nhận có 7,9% nhân viên cho rằng công
việc của họ nhàm chán và đơn điệu.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
74
Về cảm nhận công việc có mức độ nguy
hiểm cao, có 42,9% nhân viên thỉnh thoảng có
cảm nhận này, tỉ lệ cảm thấy vấn đề này thường
xuyên và khá thường xuyên là 36,5%.
Về áp lực công việc phải hoàn thành cao, ghi
nhận có 17,9% mẫu nghiên cứu không có hoặc ít
có cảm nhận này, tỉ lệ thường xuyên cảm thấy áp
lực chiếm 18,0% mẫu nghiên cứu.
Ghi nhận có khoảng 13,1% mẫu nghiên cứu
không hài lòng với không khí làm việc hiện tại,
khoảng 6,2% mẫu nghiên cứu cảm thấy không
có thời gian nghỉ giải lao khi đang làm việc.
Bảng 3: Các yếu tố về nơi làm việc (n=650)
Các yếu tố về nơi làm việc Tần số Tỉ lệ (%)
Ồn ào, lộn xộn 113 17,4
Thiếu ánh sáng 90 13,9
Chật chội 223 34,3
Nóng 252 38,8
Cảm giác không an toàn 182 28,0
Không đủ trang, thiết bị để thực
hiện công việc
159 24,5
Số lượng vấn đề không hài lòng
Từ 3 vấn đề trở lên 138 21,2
Dưới 3 vấn đề 512 78,8
Đánh giá về nơi làm việc, hầu hết nhân viên
cho rẳng nơi làm việc nóng (38,8%), chật chội
(34,4%), cảm giác không an toàn (28,0%) và
không đủ trang, thiết bị để thực hiện công việc
(24,5%).
Số lượng vấn đề không hài lòng từ 3 vấn đề
trở lên chiếm 21,2% mẫu nghiên cứu.
Stress, trầm cảm, lo âu
Bảng 4: Tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu (n=650)
Stress, trầm cảm, lo âu Tần số Tỉ lệ (%)
Mức độ Stress
Bình thường 513 78,9
Nhẹ 69 10,6
Vừa 45 6,9
Nặng 22 3,4
Rất nặng 1 0,2
Mức độ Trầm cảm
Bình thường 417 64,1
Nhẹ 98 15,1
Vừa 100 15,4
Nặng 23 3,5
Rất nặng 12 1,9
Mức độ Lo âu
Stress, trầm cảm, lo âu Tần số Tỉ lệ (%)
Bình thường 378 58,2
Nhẹ 67 10,3
Vừa 142 21,8
Nặng 33 5,1
Rất nặng 30 4,6
Stress (Có) 68 10,5
Trầm cảm (Có) 135 20,8
Lo âu (Có) 205 31,5
Tỉ lệ stress ghi nhận là 10,5%, trong đó, có
6,9% có mức độ vừa, 3,4% mức độ nặng và 0,2%
có mức độ stress rất nặng. Ghi nhận có 20,8%
mẫu nghiên cứu có trầm cảm, mức độ vừa chiếm
tỉ lệ 15,4%, có 1,9% mẫu nghiên cứu có trầm cảm
mức độ rất nặng. Tỉ lệ lo âu ở nhân viên ghi
nhận trong nghiên cứu là 31,5% chủ yếu là lo âu
mức độ vừa với 21,8%, có khoảng 4,6% mẫu
nghiên cứu có tình trạng lo âu mức độ rất nặng.
Bảng 5: Rối loạn kết hợp (n=650)
Rối loạn kết hợp Tần số Tỉ lệ (%)
Stress + trầm cảm 55 8,5
Stress + lo âu 54 8,3
Trầm cảm + lo âu 117 18,0
Stress + trầm cảm + lo âu 47 7,2
Stress, trầm cảm, lo âu và một số yếu tố liên
quan
Sau khi kiểm soát bằng mô hình hồi quy đa
biến, không tìm thấy mối liên quan giữa stress
theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng và các vấn đề tại nơi
làm việc.
Những người có kiêm nhiệm quản lý có tỉ lệ
stress bằng 1,95 lần (KTC 95%: 1,06 – 3,61) so với
những người không có kiêm nhiệm quản lý (p =
0,033). Những nhân viên cảm thấy công việc có
áp lực hoàn thành cao có tỉ lệ stress bằng 3,39 lần
(KTC 95%: 1,97 – 5,83) so với những người
không cảm thấy áp lực (p < 0,001) (Bảng 6).
Sau khi kiểm soát bằng mô hình hồi quy đa
biến, không tìm thấy mối liên quan giữa stress
theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng và một số yếu tố về
công việc.
Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có từ 3 vấn đề không
hài lòng trở lên gấp 1,36 lần (KTC 95%: 1,08 –
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
75
1,72) so với những người ít hơn 3 vấn đề không
hài lòng (p=0,008). Những nhân viên cảm thấy
công việc có áp lực hoàn thành cao có tỉ lệ trầm
cảm bằng 1,54 lần (KTC 95%: 1,20 – 1,98) so với
những người không cảm thấy áp lực (p < 0,001)
(Bảng 7).
Bảng 6: Mô hình hồi quy đa biến giữa stress và các
yếu tố liên quan (n=650)
Stress
PR hiệu chỉnh
(KTC 95%)
p
Trầm cảm (Có)
6,56
(3,00 – 14,32)
<0,001
Lo âu (Có)
2,12
(1,05 – 4,25)
0,036
Kiêm nhiệm quản lý (Có)
1,95
(1,06 – 3,61)
0,033
Công việc nhàm chán,
đơn điệu (Có)
2,03
(1,31 – 3,16)
0,002
Công việc có áp lực
hoàn thành cao (Có)
3,39
(1,97 – 5,83)
<0,001
*Kiểm soát theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng, các yếu tố công việc và các yếu
tố về nơi làm việc
Bảng 7: Mô hình hồi quy đa biến giữa trầm cảm và
các yếu tố liên quan (n=650)
Trầm cảm
PR hiệu chỉnh
(KTC 95%)
p
Stress (Có)
1,91
(1,47 – 2,48)
<0,001
Lo âu (Có)
10,43
(6,29 – 17,28)
<0,001
Trên 3 vấn đề không hài
lòng tại nơi làm việc (Có)
1,36
(1,08 – 1,72)
0,008
Công việc có áp lực
hoàn thành cao (Có)
1,54
(1,20 – 1,98)
0,001
*Kiểm soát theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng, các yếu tố công việc và các yếu
tố về nơi làm việc
Sau khi kiểm soát bằng mô hình hồi quy đa
biến, không tìm thấy mối liên quan giữa stress
theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng.
Nhân viên cảm thấy khối lượng công việc
nhiều và áp lực hoàn thành cao có tỉ lệ lo âu cao
hơn so với những nhân viên không cảm thấy có
vấn đề này (1,41 lần và 1,61 lần). Tỉ lệ lo âu ở
những người không hài lòng với không làm việc
hiện tại gấp 1,47 lần (KTC 95%: 1,16 – 1,85) so với
những người không có vấn đề này, p = 0,001.
Bảng 8: Mô hình hồi quy đa biến giữa lo âu và các
yếu tố liên quan (n=650)
Lo âu
PR hiệu chỉnh
(KTC 95%)
p
Trầm cảm (Có)
4,07
(3,79 – 5,84)
<0,001
Giới tính (Nữ)
1,28
(1,02 – 1,62)
0,036
Khối lượng công việc nhiều
(Có)
1,41
(1,11 – 1,80)
0,005
Áp lực hoàn thành cao (Có)
1,31
(1,08 – 1,59)
0,005
Không hài lòng với không khí
làm việc (Có)
1,47
(1,16 – 1,85)
0,001
*Kiểm soát theo tuổi, giới, trình độ chuyên môn, tổng thu
nhập bình quân hàng tháng, các yếu tố công việc và các yếu
tố về nơi làm việc
BÀN LUẬN
Tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu
Tỉ lệ stress
Theo ghi nhận của thang đo DASS-21 có
6,9% nhân viên có stress mức độ vừa, 3,4% mức
độ nặng và 0,2% có mức độ rất nặng. Tỉ lệ stress
chung của nhân viên tại Bệnh viện Trưng Vương
năm 2018 là 10,5% (Bảng 4).
Tỉ lệ stress trong nghiên cứu của chúng tôi
thấp hơn so với tác giả Dương Thành Hiệp
(2014) với tỉ lệ stress là 56,9% khi sử dụng cùng
thang đo DASS-21(5). Một nghiên cứu khác của
Creedy D.K. và cộng sự (2017) ghi nhận tỉ lệ
stress là 22% trên cùng thang đo(3). Tuy nhiên
các tác giả thực hiện trên đối tượng là điều
dưỡng/nữ hộ sinh trên các khoa lâm sàng. Điều
này có thể lý giải về việc tỉ lệ stress cao hơn so
với nghiên cứu của chúng tôi.
Một nghiên cứu khác của tác giả Đỗ Nguyễn
Nhựt Trần và cộng sự ghi nhận tỉ lệ stress của
nhân viên y tế tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai (2008) là 27,0%(4). Nghiên cứu của Nguyễn
Trung Tần (2012) tại bệnh viện tâm thần Tiền
Giang có tỉ lệ stress trên nhân viên y tế là 14,7%(12).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
76
Tỉ lệ stress của nhân viên y tế thay đổi khác
nhau ở các địa điểm khác nhau, điều này có thể
lý giải do sự khác nhau về văn hóa tổ chức, cách
vận hành cũng như sự khác biệt về đời sống xã
hội của đối tượng tại các địa điểm khác nhau.
Tỉ lệ trầm cảm
Tỉ lệ trầm cảm ghi nhận trong nghiên cứu là
20,8%. Trong đó, có khoảng 5,4% mẫu nghiên
cứu có tình trạng trầm cảm nặng và rất nặng
(Bảng 4).
Nghiên cứu của Ahmed I. và cộng sự (2009)
ghi nhận tỉ lệ trầm cảm trên nhân viên y tế là
7,88%(1), tỉ lệ này trong nghiên cứu của Atif K. và
cộng sự (2016) là 6,1%(2). Tỉ lệ trầm cảm trong các
nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của
chúng tôi có thể là do sự khác biệt về thang đo
đánh giá trầm cảm. Ngoài ra, tỉ lệ trầm cảm
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với
nghiên cứu của Creedy D.K. và cộng sự (2017)
với tỉ lệ là 17,3%(3). Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu của Creedy D.K. chủ yếu là trên nữ hộ sinh,
còn trong nghiên cứu của chúng tôi là nhân viên
y tế chung trong bệnh viện.
Có thể thấy rằng, tỉ lệ trầm cảm đánh giá có
sự thay đổi theo thời gian, theo đặc tính của đối
tượng và theo thang đo đánh giá vấn đề đang
nghiên cứu.
Tỉ lệ lo âu
Nghiên cứu ghi nhận có khoảng 31,5% mẫu
nghiên cứu có tình trạng lo âu (Bảng 4).
Theo kết quả nghiên cứu của Ahmed I.
(2009) ghi nhận có 2,2% bác sĩ có tình trạng lo âu,
28,7% trên sinh viên y khoa(1), tỉ lệ này trong
nghiên cứu của Atif K. (2016) là 20,6%(2). Tỉ lệ
trầm cảm trong các nghiên cứu này thấp hơn so
với nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể là
do sự khác biệt về thang đo đánh giá và đối
tượng nghiên cứu.
Stress, trầm cảm lo âu và các yếu tố liên quan
Giới tính
Đối với tình trạng stress, kết quả nghiên cứu
của chúng tôi khác với các kết quả nghiên cứu
trước đó khi các nghiên cứu ghi nhận có sự khác
biệt về tỉ lệ stress ở nam giới so với nữ giới(13)(14).
Tại địa điểm tiến hành nghiên cứu hiện tại, vấn
đề về stress ở nam giới và nữ giới là như nhau.
Ngoài khối lượng và áp lực công việc, các yếu tố
khác về đời sống ở nam và nữ là khác nhau, mỗi
giới tính có những vấn đề cần xử lý riêng biệt,
tách rời nhau. Do đó khả năng có tình trạng
stress và trầm cảm trong nghiên cứu của chúng
tôi ở nam và nữ là tương đương nhau.
Nghiên cứu của Atif K (2016) ghi nhận
không có sự khác biệt về tỉ lệ trầm cảm giữa nam
giới và nữ giới(2). Mặc dù có sự khác biệt về
thang đo đánh giá, và đối tượng nghiên cứu
cũng như các đặc tính dân số, xã hội nhưng các
nghiên cứu đều cho thấy việc giới tính không là
một yếu tố liên quan đến tỉ lệ trầm cảm ở nhân
viên y tế.
Về vấn đề lo âu, kết quả nghiên cứu tương
đồng với nghiên cứu trước đó của Atif K và
cộng sự (2016) khi nữ giới có tình trạng lo âu
cao hơn so với nam giới(2), nhưng lại khác biệt
so với nghiên cứu của Pourmovahed Z và
cộng sự (2014) khi không ghi nhận mối liên
quan giữa giới tính và tình trạng lo âu(15). Sự
khác biệt về các kết quả nghiên cứu có thể do
sự khác nhau về thang đo đánh giá tình trạng
lo âu, thời gian tiến hành nghiên cứu, địa điểm
nghiên cứu cũng như các yếu tố về dân số, xã
hội. Về lĩnh vực tâm lý xã hội, nữ giới thường
có nhiều vấn đề về tâm lý hơn so với nam giới,
bên cạnh đó, trong thời đại hiện nay, khi tình
trạng bạo hành nhân viên y tế gia tăng, cùng
với môi trường làm việc không được đảm bảo
khiến nữ giới cảm nhận công việc có mức độ
nguy hiểm cao hơn. Ngoài trách nhiệm công
việc, xã hội nữ giới còn thêm trách nhiệm gia
đình cao hơn so với nam giới. Ngoài ra, trong
nghiên cứu đang tiến hành, tỉ lệ nữ giới là cao
hơn so với nam giới, do dó khả năng ghi nhận
tỉ lệ lo âu ở đối tượng này là cao hơn.
Tuổi
Đối với stress, theo nghiên cứu của Sharma
P (2014) ghi nhận, có sự khác biệt về tỉ lệ stress
của nhân viên điều dưỡng theo các nhóm tuổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
77
khác nhau(16). Nghiên cứu của Mosadeghrad
A.M. (2014) cũng cho kết quả tương tự khi ghi
nhận có mối liên quan giữa độ tuổi về tình
trạng stress(11). Trong nghiên cứu của chúng
tôi, sự khác biệt chủ yếu là ở nhóm không khai
báo/không ghi nhận được về độ tuổi so với các
nhóm tuổi còn lại. Điều này có thể lý giải tại
thời điểm tiến hành khảo sát, những nhân viên
này có thể đã có vấn đề liên quan đến sức khỏe
tâm thần khiến họ không có hứng thú, hay
cảm thấy chán nản, mệt mỏi khi phải hoàn
thành tất cả các câu hỏi khảo sát.
Kết quả nghiên cứu về tỉ lệ trầm cảm tương
tự với các nghiên cứu trước đó khi không ghi
nhận về tỉ lệ trầm cảm theo độ tuổi(2,15).
Đối với tình trạng lo âu, ghi nhận tình trạng
này giảm dần theo độ tuổi, tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê. Bên
cạnh đó, có thể thấy rằng chủ yếu tỉ lệ lo âu cao ở
nhóm không khai báo về độ tuổi. Đối với những
người trong tình trạng lo âu, họ có xu hướng lo
sợ về mọi thứ đang diễn ra xung quanh. Điều
này có thể là lý do khiến nhân viên e dè trong
việc khai báo về độ tuổi.
Tổng thu nhập bình quân hàng tháng
Stress, trầm cảm, lo âu không bị ảnh hưởng
bởi tình trạng kinh tế xã hội trong nghiên cứu
của chúng tôi.
Các nghiên cứu trên thế giới ghi nhận có mối
liên quan giữa tình trạng kinh tế, xã hội đối với
tình trạng trầm cảm của người lao động, trong
đó có nhân viên y tế(6). Tuy nhiên, trong nghiên
cứu của chúng tôi, chưa tìm thấy mối liên quan.
Về mặt thống kê giữa tình trạng kinh tế, xã
hội với trầm cảm tại nhân viên y tế Bệnh viện
Trưng Vương. Sự khác biệt về kết quả nghiên
cứu có thể do khác nhau về nhiều đặc tính của
đổi tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, việc khai
báo về tinh trạng kinh tế, xã hội thông qua thu
nhập có thể mang tính ước lượng, do đó khó có
thể đánh giá chính xác yếu tố này.
Nghiên cứu của chúng tôi không ghi nhận có
mối liên quan giữa lo âu theo tình trạng kinh tế
xã hội và thời gian làm việc. Cũng như tình
trạng trầm cảm, vấn đề về lo âu có thể ảnh
hưởng của cùng yếu tố khối lượng và áp lực
công việc lớn là lý do chính tác động đến tỉ lệ lo
âu của đối tượng nghiên cứu.
Loại hình và tính chất công việc
Đối với tình trạng stress, nghiên cứu ghi
nhận có mối liên quan giữa stress với các yếu tố
như kiêm nhiệm quản lý, khối lượng công việc
nhiều. Ngoài ra, các yếu tố cảm nhận về công
việc như đơn điệu, nhàm chán, mức độ nguy
hiểm cao, áp lực hoàn thành cao, không thoải
mái về nơi làm việc ghi nhận là có liên quan và
làm tăng tình trạng stress ở nhân viên y tế. Có
thể thấy rằng, các yếu tố trong công việc hầu
như có thể phòng tránh được để giảm bớt tác
động đến tình trạng stress ở nhân viên y tế.
Ngoài ra, bệnh viện cần chú trọng phân bổ
nguồn nhân lực phù hợp hơn để đảm bảo công
việc, tránh tình trạng kiêm nhiệm nhiều việc
hoặc khối lượng công việc quá nhiều. Có thể tiến
hành bổ sung nguồn nhân lực về chất lượng và
số lượng nếu cần thiết để đảm bảo đáp ứng nhu
cầu khám chữa bệnh của người dân đang ngày
càng tăng.
Về tình trạng trầm cảm ở nhân viên y tế,
nghiên cứu ghi nhận việc cảm thấy khối lượng
công việc nhiều, đơn điệu, nhàm chán, mức độ
nguy hiểm cao, áo lực hoàn thành cao, không hài
lòng với không khí làm việc hiện tại là những
yếu tố làm gia tăng tỉ lệ trầm cảm. Cũng như
tình trạng stress, trầm cảm cũng chịu nhiều tác
động bởi các yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu đang tiến hành, các yếu tố về công
việc là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trầm cảm
ở đối tượng nghiên cứu. Các chính sách xây
dựng cần chú trọng đến các vấn đề này để đảm
bảo sức khỏe tâm thần cho nhân viên y tế.
Ghi nhận tình trạng lo âu có mối liên quan
đến khối lượng công việc nhiều, đơn điệu, nhàm
chán, mức độ nguy hiểm cao, áp lực hoàn thành
cao và không hài lòng với không khí làm việc.
Dựa vào kết quả nghiên cứu, các yếu tố chủ
yếu dẫn đến stress ở nhân viên y tế bao gồm áp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018
78
lực và khối lượng công việc lớn, mức độ nguy
hiểm của công việc cao, cũng như các yếu tố về
không khí làm việc tại nơi làm việc của nhân
viên y tế. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với các nghiên cứu trước đó khi
cùng ghi nhận về các vấn đề stress, trầm cảm, lo
âu liên quan đến áp lực và khối lượng công
việc(13,14).
Hồi quy đa biến
Sau khi hiệu chỉnh với hồi qui đa biến, các
yếu tố ảnh hưởng đến stress ghi nhận là việc
kiêm nhiệm quản lý, áp lực công việc và công
việc đơn điệu, nhàm chán. Đối với tình trạng
trầm cảm, áp lực công việc cao và việc cảm thấy
không hài lòng về nơi làm việc là 2 yếu tố tác
động chính làm tăng tỉ lệ trầm cảm sau khi phân
tích đa biến. Không hài lòng với môi trường làm
việc, áp lực công việc cao và không hài lòng về
nơi làm việc chính là những nguyên nhân chủ
yếu làm gia tăng tỉ lệ lo âu ở nhân viên y tế.
Stress, trầm cảm, lo âu là ba biến số có mối
liên quan hệ với nhau và là một vòng xoắn bệnh
lý. Sự hiện diện của một yếu tố sẽ làm gia tăng
thêm 2 yếu tố còn lại. Việc yếu tố nào tác động
trước và tác động ra sao thì khó có thể ghi nhận
đánh giá. Tuy nhiên, việc đánh giá đồng thời cả
ba yếu tố là cần thiết để có thể đưa ra những
chiến lược phòng ngừa, giảm thiểu tác động một
cách hợp lý và hiệu quả.
Có thể thấy rằng, áp lực công việc cũng như
khối lượng công việc nhiều là nguyên nhân hàng
đầu dẫn đến stress, trầm cảm, lo âu của nhân
viên y tế. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương đồng với kết quả ghi nhận của một số
nghiên cứu trong nước(13,14).
Trên thực tế, không ai có thể tránh khỏi được
sự tác động của stress, trầm cảm, lo âu, do đó,
việc cần thiết là phải luôn có sự chuẩn bị và có
phương cách thích hợp để đối phó và thoát khỏi
tình trạng stress. Tránh để các tình trạng này kéo
dài dẫn đến những hệ quả sức khỏe hay những
hành vi không tốt trong xã hội. Việc rèn luyện,
chuẩn bị đối phó với stress, trầm cảm, lo âu cần
được nâng cao từ phía cá nhân mỗi nhân viên,
đồng thời, bệnh viện và cơ quan sử dụng lao
động cũng cần có những can thiệp hỗ trợ, đảm
bảo giảm thiểu tối đa những điều kiện có thể
làm gia tăng các vấn đề này.
KẾT LUẬN
Việc xác định cần vấn đề về sức khỏe tâm
thần như stress, trầm cảm, lo âu ở nhân viên y tế
là cần thiết để giảm thiểu các tác động tiêu cực
của tình trạng này. Các nghiên cứu trong tương
lai cần chú trọng về yếu tố tình trạng kinh tế-xã
hội của đối tượng, cũng như tìm hiểu về các nhu
cầu của nhân viên y tế về việc làm giảm căng
thẳng sau thời gian làm việc.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu bước đầu sàng
lọc về tỉ lệ stress, trầm cảm, lo âu. Do đó, cần kết
hợp để phát triển các hướng nghiên cứu nhằm
chẩn đoán xác định và hỗ trợ làm giảm tình
trạng này ở nhân viên y tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmed I, Banu H, Al-Fageer R, Al-Suwaidi R (2009) "Cognitive
emotions: depression and anxiety in medical students and
staff". J Crit Care, 24 (3), pp. e1-7.
2. Atif K, Khan HU, Ullah MZ, Shah FS, Latif A (2016)
"Prevalence of anxiety and depression among doctors; the
unscreened and undiagnosed clientele in Lahore, Pakistan".
Pak J Med Sci, 32 (2), pp. 294-8.
3. Creedy DK, Sidebotham M, Gamble J, Pallant J, Fenwick J
(2017) "Prevalence of burnout, depression, anxiety and stress in
Australian midwives: a cross-sectional survey". BMC
Pregnancy Childbirth, doi: 10.1186/s12884-016-1212-5.
4. Đỗ Nguyễn Nhựt Trần, Nguyễn Hồng Hoa, Trần Thiện Thuần
(2008) "Stress và các yếu tố liên quan ở nhân viên y tế huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai năm 2008". Tạp chí Y học Thành phố
Hồ Chí Minh, Tập 12 (Số 4), tr.1-7
5. Dương Thành Hiệp, Trần Thanh Hải, Tạ Văn Trầm (2014) "Tỷ
lệ điều dưỡng, hộ sinh bị stress nghề nghiệp tại Bệnh viện
Nguyễn Đình Chiểu, tỉnh Bến Tre năm 2014". Tạp chí Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 18(5): 190-196.
6. Freeman A, Tyrovolas S, Koyanagi A, Chatterji S, Leonardi M,
Ayuso-Mateos JL, Tobiasz-Adamczyk B, Koskinen S, Rummel-
Kluge C, Haro JM (2016) "The role of socio-economic status in
depression: results from the COURAGE (aging survey in
Europe)". BMC Public Health, 16 (1), pp. 1098.
7. Health and Safety Executive (2016) Work related Stress, Anxiety
and Depression Statistics in Great Britain 2016, pp: 1-11.
8. Interactive H (2011) Stress in the workplace: survey summary.
American Psychological Association,
https://www.apa.org/news/press/releases/phwa-survey-
summary.pdf.
9. Lê Thành Tài, Trần Ngọc Xuân, Trần Trúc Linh (2008) "Tình
hình stress nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng". Tạp chí Y
học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 12 (Số 4), tr.1-7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
79
10. Mosadeghrad A.M. (2014) "Occupational stress and its
consequences. Implications for health policy and
management". Leadership in Health Services,, 27 (3), pp.224-239.
11. Mosadeghrad A.M. (2014) "Occupational stress and its
consequences. Implications for health policy and
management". Leadership in Health Services,, 27 (3), pp.224-239.
12. Nguyễn Trung Tần (2012) Stress của nhân viên y tế tại Bệnh
viện Tâm thần Tiền Giang, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Khoa
Tâm lý-Giáo dục, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 65-108
13. Phạm Minh Khuê, Hoàng Thị Giang (2014) "Sự căng thẳng
nghề nghiệp ở nhân viên y tế của một bệnh viên đa khoa tuyến
tỉnh tại Hải Phòng năm 2011". Tạp chí Y học Dự phòng, Tập
XXIV, số 3 (152), tr. 85-93.
14. Phạm Văn Tài (2017) Tỉ lệ stress của nhân viên y tế tại Bệnh
viện Quận 11, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017, Luận văn
Thạc sĩ Y tế công cộng, Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
15. Pourmovahed Z, Yassini Ardekani SM, Khalili MA, Halvaei I,
Nabi A, Ghasemi M, Fesahat F (2014) "The comparison of
anxiety and depression rate between medical staff of infertility
centers and obstetrics and gynecology centers of Yazd, Shiraz,
Isfahan and Kerman hospitals.". Iran J Reprod Med, 12 (3), pp.
183-8
16. Psychology Foundation of Australia (2009). Depression
Anxiety Stress Scales (DASS),
17. Sharma P, Davey A, Davey S, Shukla A, Shrivastava K, Bansal
R (2014) "Occupational stress among staff nurses: Controlling
the risk to health". Indian J Occup Environ Med, 18 (2), pp. 52-56.
18. Tran TD, Tran T, Fisher J (2013) "Validation of the depression
anxiety stress scales (DASS) 21 as a screening instrument for
depression and anxiety in a rural community-based cohort of
northern Vietnamese women". BMC Psychiatry, 13, pp. 24.
19. World Health Organization (1948) "Preamble to the
constitution of the world health organization as adopted by the
international health conference. New York, 19-22 June, 1946;
signed on 22 July 1946 by the representatives of 61 States
(Official Records of the World Health Organization, no. 2, p.
100) and entered into force on 7 April 1948
20. World Health Organization (Western Pacific Region)
Occupational health (Fact Sheet),
et/en/, truy cập ngày 17/10/2017.
Ngày nhận bài báo: 14/08/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/10/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- stress_tram_cam_lo_au_cua_nhan_vien_y_te_benh_vien_trung_vuo.pdf