Tài liệu Sỏi trong gan: Thách thức trong điều trị: Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 22
SỎI TRONG GAN: THÁCH THỨC TRONG ĐIỀU TRỊ
(INTRAHEPATIC STONE: A CHALLENGE IN MANAGEMENT)
Nguyễn Cao Cương*
Sỏi trong gan (STG) được định nghĩa là sỏi
đường mật ở trên hợp lưu 2 ống gan. STG là
bệnh có dịch tễ học, bệnh sinh và phương thức
điều trị riêng biệt. Bệnh này hiếm gặp ở các nước
phương Tây nhưng là dịch tễ ở một số nước
Châu Á. Hầu hết là sỏi tiên phát thành lập tại
đường mật (ĐM) trong gan, hiếm trường hợp là
sỏi thứ phát, từ sỏi túi mật (STM) lên gan? Điều
trị STG là một thách thức cho BS phẫu thuật vì tỉ
lệ sót sỏi sau mổ cao và sỏi tái phát rất thường
gặp, làm cho bệnh nhân (BN) phải mổ lại hay
can thiệp ngoại khoa nhiều lần.
DỊCH TỄ
STG được mô tả khởi đầu như là bệnh
viêm gan-đường mật phương Đông do có tần
suất cao ở một số nước Châu Á hay một số
vùng dịch tễ bệnh do bệnh sinh khác biệt và
thường là ở cá...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sỏi trong gan: Thách thức trong điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 22
SỎI TRONG GAN: THÁCH THỨC TRONG ĐIỀU TRỊ
(INTRAHEPATIC STONE: A CHALLENGE IN MANAGEMENT)
Nguyễn Cao Cương*
Sỏi trong gan (STG) được định nghĩa là sỏi
đường mật ở trên hợp lưu 2 ống gan. STG là
bệnh có dịch tễ học, bệnh sinh và phương thức
điều trị riêng biệt. Bệnh này hiếm gặp ở các nước
phương Tây nhưng là dịch tễ ở một số nước
Châu Á. Hầu hết là sỏi tiên phát thành lập tại
đường mật (ĐM) trong gan, hiếm trường hợp là
sỏi thứ phát, từ sỏi túi mật (STM) lên gan? Điều
trị STG là một thách thức cho BS phẫu thuật vì tỉ
lệ sót sỏi sau mổ cao và sỏi tái phát rất thường
gặp, làm cho bệnh nhân (BN) phải mổ lại hay
can thiệp ngoại khoa nhiều lần.
DỊCH TỄ
STG được mô tả khởi đầu như là bệnh
viêm gan-đường mật phương Đông do có tần
suất cao ở một số nước Châu Á hay một số
vùng dịch tễ bệnh do bệnh sinh khác biệt và
thường là ở các nước có điều kiện vệ sinh và
dinh dưỡng kém nên có liên quan nhiễm
trùng và nhiễm ký sinh trùng. Gần đây sự cải
thiện đời sống kinh tế-xã hội ở các nước làm
giảm tỉ lệ STG và tăng STM. Bệnh thường gặp
ở độ tuổi 50-70; tỉ lệ Nam/Nữ: 1/1,2.
Ở Việt Nam cũng như một số nước ở Nam
Á Châu là vùng dịch tễ của STG với tỉ lệ thay
đổi khoảng 20-50% các trường hợp sỏi mật. Ở
các nước phương Tây tần suất từ 0,6-1,3%)
Nhật (2,2% sỏi mật) có thể do tỉ lệ cắt túi
mật/PTNS tăng(4).
BỆNH SINH
Bệnh sinh STG phức tạp và hiểu biết chưa
hoàn toàn. STG liên quan nhiều yếu tố như ứ
đọng mật, nhiễm trùng ĐM, suy dinh dưỡng,
nhiễm ký sinh trùng.
Hẹp ĐM gây nên ứ đọng mật và nhiễm
trùng do vi trùng di chuyển từ ruột. Nhiễm
khuẩn liên quan chặt chẻ STG và vi trùng (VT)
thấy trong mật của 90% trường hợp (TH) STG.
STG tăng sự ứ đọng mật, giúp VT phát triển, tạo
vòng lẩn quẩn(16).
BỆNH SINH NGUYÊN NHÂN
STG TIÊN PHÁT
Hẹp ĐM
Nhiễm trùng
Rối loạn di truyền
STG THỨ PHÁT
Sỏi di chuyển lên gan (hiếm)
Sau mổ, do y căn
Viêm xơ hẹp ĐM tiên phát
Bệnh Caroli
Ung thư ĐM
Nhiễm KST
Viêm ĐM tái diễn
Bệnh tán huyết
Sỏi TM hay sỏi OMC.
Vi trùng đến ĐM qua tĩnh mạch cửa (TMC),
đa số là Gr (-) hiếu khí nhiều nhất là E. coli,
Klebsiella. Men β-glucoronidase do vi trùng tiết
ra, thủy giải bilirubine trực tiếp thành gián tiếp,
kết tủa với Calcium thành Calcium bilirubinate
là sỏi sắc tố mật.
Nhiễm ký sinh trùng như Clonorchis sinensis
hay Ascaris lumbricoides gây nên viêm ĐM mạn,
kích thích bài tiết mucin và tạo nhân cho sự
thành lập sỏi mật; thành phần KST và trứng là
điểm khởi phát cho calcium bilirubinate kết tủa
tạo sỏi(4).
STG có 2 loại, sỏi sắc tố chiếm # 90% và sỏi
cholesterol ít khi thấy trong gan thường thấy
trong túi mật và OMC.
Sự phân bố STG: STG đơn thuần tỉ lệ từ 18-
51%. STG trái (T) nhiều (45-55%), STG (P) (11-
26%) và 2 bên (26-31%). STG (T) nhiều có thể do
đường cong của ống gan (T) dài hơn qua khảo
sát động học mật bằng 99m Tc –EDTA(4).
TRIỆU CHỨNG STG
Lâm sàng STG có đặc điểm là đau bụng tái
diễn và sốt. Đau ở thượng vị và HSP và kéo
*Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch - Bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Cao Cương ĐT: 0909275806 Email: ngcaocuong@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 23
dài vài giờ đến vài ngày trước khi mất đi tự
nhiên. Vàng da thoáng qua có thể xảy ra sau
khi đau. Tắc mật giúp vi trùng tăng trưởng và
làm nhiễm trùng đường mật (NTĐM) xảy ra
với tam chứng Charcot thường gặp là đau 1/4
bụng trên P ở 70%, vàng da và sốt chỉ chiếm
khoảng 10-30% TH.
STG không triệu chứng phát hiện ngày càng
nhiều # 16,1% nhờ sự phát triển của hình ảnh
học. Có những thay đổi trên xét nghiệm (XN)
như tăng GGT, bilirubin, phosphatase kiềm. Tiền
căn mổ sỏi mật chiếm đến 42% và hơn 22% BN
đã có mổ mật hơn 2 lần(15).
Về mặt lâm sàng Nhóm nghiên cứu STG ở
Nhật chia triệu chứng STG thành 4 độ:
Độ 1: không có triệu chứng (20%).
Độ 2: có đau bụng (25%).
Độ 3: có vàng da thoáng qua hay nhiễm
trùng ĐM (NTĐM).
Độ 4: vàng da liên tục, nhiễm trùng hay ung
thư đường mật (UTĐM). Độ 3 và 4 (55%)(22).
STG gây tắc mật mạn với NTĐM tái diễn có
thể dẫn đến áp xe gan, hẹp ĐM, xơ gan thứ phát;
tăng áp lực TMC và dãn TM thực quản biểu hiện
giai đoạn trễ của bệnh và UTĐM kết hợp STG có
tỉ lệ 5,7-17,5% UTĐM được nghi ngờ ở BN có
STG lâu trên 10 năm(16).
CHẨN ĐOÁN
Với sự phát triển của hình ảnh học (HAH),
nên STG hiện nay được chẩn đoán trước mổ
chính xác hơn. BS HAH, BS nội soi và BS phẫu
thuật cần có hiểu biết về giải phẫu đường mật
phân thùy (PT) và hạ phân thùy (HPT) gan.
Chẩn đoán hình ảnh không xâm hại cho STG
như siêu âm (SÂ), điện toán cắt lớp (CT), và cộng
hưởng từ mật tụy (MRCP) ngoài chẩn đoán STG
còn khảo sát bất thường ở ĐM.
Mức độ tổn thương ĐM ở STG có thể xếp
thành 4 độ theo phân loại Tsunoda(22):
Độ I: không có dãn rõ hay hẹp ĐM trong gan.
Độ II: dãn lớn ĐM trong gan nhưng không
có hẹp ĐM.
Độ III: dãn dạng nang đơn độc hay lan rộng
đi kèm hẹp ĐM trong gan ở 1 bên gan.
Độ IV: như loại III và ở 2 bên gan.
Siêu âm: HAH đáng tin cậy, rẻ tiền, là bước
đầu chẩn đoán STG, mô tả GPH ĐM và chổ dãn
ĐM trong 85-90% TH. SÂ giúp xác định sỏi và
dãn ĐM trong gan với áp xe gan. Sỏi trên SÂ có
hình điểm sáng và có bóng lưng; hơi ĐM có thể
khó phân biệt với sỏi, thay đổi tư thế BN giúp
phân biệt.
Chụp Điện toán cắt lớp (CT): CT mô tả chính
xác GPH ĐM dãn và chỗ hẹp. Hiếm khi xác định
trực tiếp hẹp ĐM trên CT. Tỉ lệ phát hiện STG
không tốt như SÂ vì nhìn thấy sỏi tùy thuộc
lượng calcium. CT có lợi trong chẩn đoán huyết
khối TMC ở HPT, cho biết vị trí sỏi, mức độ teo
của phần gan bị ảnh hưởng, đường mật PT và
HPT, áp xe gan, tăng áp lực tĩnh mạch cửa do xơ
gan, chẩn đoán UTĐM khó khăn.
Chụp Cộng hưởng từ mật-tụy (MRCP): HAH
chọn lựa chẩn đoán STG; cho thấy hình ảnh
GPH ĐM, dãn ĐM, STG, xác định cấu trúc mạch
máu, hẹp ĐM và những biến chứng. MRCP thay
thế ERCP và PTC xâm hại, hiện nay chỉ sử dụng
trong điều trị. Độ nhạy và đặc hiệu của MRCP
trong phát hiện STG là 90%.
Chụp mật-tụy ngược dòng (ERCP) và Chụp
đường mật qua da (PTC): là những kỹ thuật chụp
ĐM trực tiếp cho thấy GPH tốt nhất và có độ
nhạy cao nhất trong xác định hẹp ĐM, hiện nay
được thay bằng MRCP không xâm hại. Độ nhạy
và đặc hiệu của ERCP thấp hơn MRCP trong
phát hiện STG vì ĐM ngoại biên sau chỗ tắc
thường khó thấy được và có tỉ lệ biến chứng như
NTĐM, viêm tụy, xuất huyết và thủng tá tràng.
PTC có độ nhạy cao hơn để phát hiện ĐM ngoại
biên, tuy nhiên xâm hại và có biến chứng. PTC
có chỉ định điều trị như dẫn lưu mật, lấy sỏi, sinh
thiết ống mật
Theo N.Đ.Hối(16) độ nhạy của SÂ, CT-scan,
MRCP trong chẩn đoán STG lần lượt là 95,7%;
87,8-94,4% và 96,15%. Độ đặc hiệu lần lượt là
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 24
97,3%; 94-97,1%; 90,9%. Độ chính xác lần lượt là
96,9% - 91,9% - 95,9%.
ĐIỀU TRỊ
STG là một thách thức thực sự trong điều trị
STG, là bệnh lý phức tạp vì khó lấy hết STG, với
tỉ lệ sót sỏi (10-60%) và sỏi tái phát cao sau nhiều
năm là (40-63,3%) (4,16,23), đặc biệt nếu có hẹp hay
dãn ĐM trong gan. Do đó BN phải can thiệp lại
nhiều lần.
Các tác giả đồng thuận sỏi sót khi còn STG
trên SÂ, NSĐM, chụp ĐM qua Kehr và sỏi tái
phát là sỏi mật có lại sau khi sạch sỏi > 6 tháng.
Nguyên tắc của phẫu thuật triệt để STG là
lấy sạch STG-NG, ĐM bị hẹp, và dẫn lưu tốt
ĐM phần gan bị tổn thương(3) để loại trừ các
đợt NTĐM và chận đứng sự tiến triển đưa đến
xơ gan.
Không có một phương thức điều trị tuyệt đối
nào, phản ảnh sự phức tạp của STG và tình trạng
của BN, mà cần thiết điều trị đa mô thức.
Hiện nay, có nhiều phương pháp ĐT: ERCP,
nội soi tán sỏi xuyên gan qua da (PTCSL), phẫu
thuật nội soi và phẫu thuật mở rất hiệu quả. Kế
hoạch điều trị STG khởi đầu là chẩn đoán chính
xác; cố gắng thực hiện (PTCSL) trước những thủ
thuật khác trên BN có STG phức tạp như STG (P)
và (P) (T) để xác định tình trạng ĐM trong gan,
vị trí sỏi, vị trí và mức độ hẹp hay dãn ĐM tiếp
đến là ĐT đa mô thức.
Các phương pháp điều trị không phẫu thuật
Nội soi mật-tụy ngược dòng (ERCP) lấy STG
ERCP là phương pháp ĐT hiệu quả sỏi ống
mật chủ. Tuy nhiên, ERCP có giới hạn đối với
các tổn thương phía trên rốn gan, BN có phẫu
thuật dạ dày trước đó, hẹp ống mật chủ và túi
thừa tá tràng...
Với hệ thống nội soi mẹ-con (mother-baby
scope) kết hợp với các phương pháp tán sỏi, điều
trị STG với tỉ lệ sạch sỏi 64%. Tuy nhiên, phương
pháp này không được ứng dụng rộng rãi trong
điều trị STG do kỹ thuật phức tạp, chi phí cao và
hiệu quả thấp(5,14).
ERCP và cắt cơ vòng Oddi (ES) lấy sỏi không
bảo tồn chức năng cơ vòng Oddi. Nhiều tác giả
dùng phương pháp (PP) nong cơ vòng để lấy sỏi
nhưng làm tăng tỉ lệ viêm tụy cấp(14).
Nội soi tán sỏi xuyên gan qua da (PTCSL)
PP được Takada đề xuất năm 1974 để xử lý
các bệnh lý đường mật. Nimura áp dụng lấy sỏi
xuyên gan qua da đầu tiên năm 1981. Hiện nay,
PTCSL là PP ĐT STG không phẫu thuật phổ biến
nhất(3), áp dụng cho những trường hợp:
Bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật.
Bệnh nhân có STG với ống mật chủ không dãn.
Bệnh nhân đã được nối mật-ruột.
Bệnh nhân không đồng ý mổ.
Thất bại với các phương pháp khác.
Có một số chống chỉ định như rối loạn đông
máu, báng bụng, suy gan.
Việc lấy sỏi qua nội soi có thể thực hiện
nhiều lần đến khi hết sỏi. Tỉ lệ sạch sỏi 78,0 -
85,3% Tỉ lệ biến chứng lớn 1,6%: rách gan, áp xe
gan, áp xe trong bụng, rách đường hầm Theo dõi
sau nhiều năm, tỉ lệ sỏi tái phát 59%(3,6,14).
Nội soi xuyên gan qua da còn được dùng
trong xử lý hẹp đường mật, chỗ hẹp có thể được
nong bằng rọ, bằng ống, bằng bóng áp lực.
Tán sỏi qua đường hầm Kehr
Đây là PP an toàn và hiệu quả điều trị sỏi sót
sau PT mở ống mật chủ (OMC) lấy sỏi và dẫn
lưu Kehr. Lấy sỏi bằng ống nội soi mềm. PP này
thường không có biến chứng nặng và tử vong.
Tỉ lệ sỏi tái phát sau tán sỏi và nong đường
mật qua đường hầm Kehr 15%(3). Khuyết điểm
của kỹ thuật này là không điều trị được sỏi ĐM
tái phát.
Các phương pháp tán sỏi(6)
Tán sỏi cơ học
Sử dụng nhiều trong ERCP, tỉ lệ sạch sỏi 80%.
Tán sỏi thủy điện lực: được Koch sử dụng
cho sỏi đường mật năm 1977. Tỉ lệ tán sỏi thành
công 99%. Hiện nay được áp dụng nhiều nhất.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 25
Tán sỏi laser
Tỉ lệ sạch sỏi 80 - 94%.
Tán sỏi ngoài cơ thể
Để xác định vị trí sỏi, cần phối hợp với siêu
âm, ERCP có thông mũi mật, chụp hình đường
mật qua da. Hiệu quả chỉ 80%.
Thuốc tan sỏi: truyền thuốc tan sỏi Mono-
octanoin Methyl tert-butyl ether qua ống Kehr
hoặc ống mũi-mật, hiệu quả không rõ rệt(2).
Các phương pháp phẫu thuật nội soi (PTNS)
Là khuynh hướng ĐT STG hiện nay; các NC
so sánh đa trung tâm cho thấy hiệu qủa PTNS
tương đương mổ mở và ít đau, nằm viện ngắn
hơn(2,13,18).
PTNS mở ống chủ lấy sỏi
PTNS mở ống mật chủ có thể lấy được sỏi
OMC và STG nhưng cần có những phương tiện
kỹ thuật cao như nội soi đường mật, tán sỏi, siêu
âm trong khi mổ và BSPT nhiều kinh nghiệm.
Phương pháp này đã được ứng dụng tại nhiều
trung tâm trong nước.
Kết quả PTNS điều trị STG có tỉ lệ biến
chứng và tai biến tương đương mổ hở, tỉ lệ sỏi
tồn lưu 70,7% cao hơn mổ mở nên BN phải lấy
sỏi qua đường hầm Kehr nhiều lần. Tang CN mở
OMC PTNS lấy sỏi trong viêm mủ đường mật
tái diễn(19).
Phẫu thuật nội soi cắt gan điều trị sỏi trong gan
PTNS lấy STG dựa trên kinh nghiệm PTNS
mở OMC sử dụng ống nội soi (NS) lấy sỏi. Cắt
gan nếu có hẹp ĐM; mặc dù có CĐ trước mổ,
50% cắt gan được quyết định trong mổ.
Cắt gan PTNS cho STG kỹ thuật khó vẫn còn
nhiều hạn chế. PTNS cho STG có kết quả tương
tự mổ mở(7). Liu thực hiện PTNS cho STG: tỉ lệ
sạch sỏi 92,8%: lấy STG là 84% và cắt gan là
97,7%. Chuyển mổ hở: 8%(13).
Các phẫu thuật mở
PT mở ống mật chủ lấy sỏi, dẫn lưu Kehr
Đây là PT kinh điển của bệnh lý sỏi ĐM. Cắt
túi mật khi TM bị hoại tử, có sỏi. Nhiều tác giả
vẫn giữ quan điểm bảo tồn túi mật là một chỉ
dẫn cần thiết khi mổ sỏi ĐM tái phát(23,24) hơn
nữa, cắt TM không ngăn ngừa được viêm đường
mật do sỏi trên BN Châu Á. Mổ mở OMC lấy sỏi
mật trong ngoài gan hiệu quả, tỉ lệ sót sỏi thấp,
số lần lấy sỏi sót qua đường hầm Kehr ít hơn
PTNS(23).
Cắt gan
Cắt gan là một chỉ định thích hợp cho bệnh
nhân bị sỏi gan một thùy ở vùng Đông Á, đặc
biệt là thùy trái. Cắt gan không chỉ loại bỏ sỏi,
các tổn thương gan mãn tính, mà ngăn ngừa ung
thư ĐM(9,15). Cắt gan còn chỉ định trong hẹp ĐM,
áp xe, xơ teo gan. Nói chung, khoảng 15 - 20%
STG phù hợp với cắt gan. Tỉ lệ sạch sỏi cao nhất
92,7%. Tỉ lệ biến chứng khá cao 16,0 - 33,3%, tử
vong 1,6%, sỏi tái phát thấp 5,7%(9,15,23).
Hiện nay, cắt thùy (T) hoặc gan (T) được chỉ
định tại nhiều trung tâm phẫu thuật châu Á và
một số nước châu Âu vì tỉ lệ hết sỏi cao hơn các
phương pháp khác nhưng không làm tăng tỉ lệ
biến chứng và tử vong (15,10).
Uchiyama K điều trị phẫu thuật 97 bệnh
nhân sỏi trong gan, tỉ lệ sỏi tồn lưu sau cắt gan
0%, sau nối mật ruột 48,6%, sau mở ống mật
chủ dẫn lưu Kehr 25%, sau lấy sỏi xuyên gan
qua da 10%(21).
Lee KF đã điều trị phẫu thuật 85 bệnh nhân
viêm ĐM mủ tái phát do sỏi từ 1995-2008, cắt
gan đơn thuần 65,9%, cắt gan kết hợp nối mật-
ruột hoặc tạo hình cơ vòng Oddi 9,4%. Tỉ lệ biến
chứng 40%, không có tử vong. Tác giả nhận thấy
cắt gan an toàn và hiệu quả, nên là một điều trị
chọn lựa cho những bệnh nhân phù hợp(8).
Cắt gan không chỉ được áp dụng cho STG (T)
mà còn trong STG 2 bên. Có thể cắt gan bên tổn
thương và kết hợp với các PP khác như lấy
PTCSL, nối mật-ruột quai dưới da để xử lý STG
bên còn lại.
Có một số nghiên cứu cắt gan 2 bên cho STG,
Li S.Q. báo cáo 101 BN có STG 2 bên được cắt
gan 2 bên trong 10 năm. Đa số cắt thùy T hoặc
gan T và 1 đến 2 hạ phân thùy gan P, 1 TH cắt
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 26
các HPT 2-5-7-8. Không có tử vong do PT, tỉ lệ
biến chứng 28,7%, tỉ lệ hết sỏi 84,2%, tỉ lệ hết sỏi
sau tán sỏi sau mổ 95,0%. Tỉ lệ sỏi tái phát 7,9%,
viêm ĐM tái phát 6,5% sau theo dõi 54 tháng(10).
Tác giả đề nghị các chỉ định cắt gan
Xơ teo nhu mô phân thùy gan 2 bên do sỏi.
Đường mật có sỏi bị hẹp.
Phần gan còn đủ sau cắt gan, tổng trạng
bệnh nhân tốt, chức năng gan Child-Pugh A.
STG là một bệnh lý phức tạp, khó điều trị,
VĐM tái phát và thường mổ nhiều lần. Sau
nhiều năm dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch cửa
và suy gan. Khi đó ghép gan được đặt ra, Pan
GD(17) ghép gan cho 4 BN xơ gan do STG với
kết quả tốt.
Mở chủ mô gan lấy sỏi
Chỉ định lấy sỏi qua chủ mô gan trong các TH:
Sỏi to sát bao Glisson, không lấy được bằng
dụng cụ qua đường OMC.
Sỏi nằm ở các nhánh nhỏ ĐM trong gan,
các HPT, OMC không dãn, ĐM phía dưới sỏi
bị hẹp(23).
Cần phải nắm vững giải phẫu mạch máu
gan. PP chỉ lấy sỏi, không ngừa sỏi tái phát.
Tạo hình cơ vòng Oddi
Chỉ định khi có nhiều sỏi nhỏ trong gan, sỏi
kẹt Oddi, hoặc có hẹp cơ vòng Oddi.
Phương pháp này không bảo tồn chức
năng cơ vòng Oddi, ký sinh trùng (KST) có thể
lên đường mật gây sỏi tái phát(23) hoặc viêm
đường mật (VĐM) ngược dòng.
Có biến chứng như viêm tụy cấp, dò tá
tràng, chảy máu.
Các phương pháp nối mật-ruột
Các phương pháp nối mật-ruột nhằm mục
đích điều trị STG, giải quyết ứ mật và ngăn ngừa
sỏi tái phát. Khi có sỏi tái phát, sỏi có thể qua
miệng nối xuống ruột.
Chỉ định chung của các phương pháp nối
mật-ruột:
Sỏi trong gan hai bên hay sỏi vùng của gan.
Sỏi ở các ống mật ngoại vi không lấy hết
được khi mổ.
Sỏi đường mật sót và tái phát nhiều lần, nhất
là ở bệnh nhân lớn tuổi.
Đoạn ống mật trít hẹp (hay dãn to dạng nang
bẩm sinh) cần được cắt bỏ hoặc tạo hình chỗ hẹp.
Nối ống mật chủ-tá tràng
PP này đã có từ rất lâu, tuy vậy vẫn còn một
số tác giả thực hiện vì dễ, ít biến chứng sớm sau
mổ. BC lâu dài hay gặp là hội chứng túi cùng
(sump syndrome) gây viêm mủ ĐM; để tránh
hội chứng này, Funabiki nối ống mật chủ-tá
tràng tận-bên, nhưng về lâu dài không ngăn
được BC viêm ĐM ngược dòng, hẹp miệng nối,
giun sán lên ĐM(2,23).
Nối ống mật chủ hoặc ống gan-hỗng tràng
Roux-en-Y
Nối mật-ruột Roux-en-Y tránh được viêm
ĐM trào ngược, nhưng có nhiều BC hơn nối
OMC-tá tràng như rò miệng nối, hẹp miệng nối,
bệnh dạ dày tá tràng
Sỏi ĐM tái phát đặc biệt là STG thường kèm
theo hẹp ĐM, vì vậy sỏi không dễ dàng rơi
xuống ruột qua miệng nối. Sỏi tại phân thùy (P)
sau, phân thùy bên (T) và đặc biệt là sỏi đóng
khuôn ở ống mật dính chặt vào thành ống mật bị
viêm rất khó xuống(16,23).
Các phương pháp phẫu thuật tạo đường vào xử
lý sỏi đường mật tái phát
Sỏi tái phát là một vấn đề lớn. Ở vùng nhiệt
đới, sỏi sắc tố mật và muối mật dễ nát vụn, khó
lấy hết và dễ tái phát. Giun sán cũng là nguyên
nhân hình thành và tái phát sỏi(16).
Mặc dù có nhiều phương tiện chẩn đoán
trong khi mổ: nội soi, X quang, siêu âm và điều
trị STG bằng đa mô thức, tỉ lệ sỏi sót là 10 - 60%,
tỉ lệ sỏi tái phát (TP) sau nhiều năm 40-
63,3%(4,16,23). Thường phải PT lại những TH sỏi
sót, sỏi tái phát, hẹp ĐM, hẹp miệng nối mật-
ruột.. do đó cần thiết tạo đường vào ĐM để lấy
sỏi không phải mổ lại.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 27
Nối ống gan-hỗng tràng Roux-en-Y quai ruột
đặt dưới da
Dùng một quai ruột thẳng và ngắn từ chỗ
nối mật-ruột đến thành bụng. Có tác giả cố định
đầu tận vào phúc mạc dưới thành bụng, đánh
dấu bằng clip; hoặc chôn dưới da. PT này giúp
xử trí sỏi tồn lưu, sỏi tái phát, nong chỗ hẹp qua
đường hầm ruột-da(18).
Tỉ lệ vào lại đường mật 98%, lấy sỏi được
qua đường hầm 71,5 - 85%.
Phương pháp này có một số bất lợi
Cơ vòng Oddi bị mất chức năng tự nhiên,
giun lên được đường mật qua miệng nối.
Viêm ĐM trào ngược, nhiễm khuẩn dịch mật
làm tăng nguy cơ sỏi tái phát.
Loét dạ dày-tá tràng, biến chứng liên quan
đến miệng ruột dưới da # 15% như rò ruột,
nhiễm trùng, thoát vị vết mổ(16).
Nối ống mật chủ-túi mật-da
Phẫu thuật đã được thực hiện trên 20 bệnh
viện tại Trung Quốc. Tang L.J. thực hiện 21
trường hợp từ 1996-2001, Li X. thực hiện 46
trường hợp từ 1994-2003, Tian F.Z. thực hiện 190
trường hợp với kết quả rất tốt(11,20).
Kỹ thuật: sau khi mở OMC lấy sỏi mật hoặc
sau khi cắt phân thùy gan mà phần dưới OMC
và túi mật bình thường, nối phễu TM vào OMC,
miệng nối khoảng 2 cm; đáy TM khâu cố định
ngòai cơ thành bụng, chôn dưới da. Một ống
Kehr được đặt vào OMC, nhánh dọc đưa ra
ngòai qua đáy túi mật. Chú ý không làm tổn
thương động mạch TM và di động tốt TM để cố
định dễ dàng đáy TM vào thành bụng(24).
Ưu điểm
Bảo tồn được cơ vòng Oddi, tránh được viêm
đường mật trào ngược là một yếu tố quan trọng
gây sỏi tái phát.
Bảo tồn được giải phẫu bình thường của
đường mật.
Tránh được các biến chứng khâu nối ruột,
quai Roux-en-Y.
Bệnh nhân phục hồi nhanh vì đây là phẫu
thuật đơn giản, ít biến chứng.
Khi có sỏi sót, đặc biệt là sỏi tái phát, chỉ cần
mở lại đường hầm TM để nội soi lấy sỏi bằng tê
tại chỗ, không cần mổ lại.
Các nghiên cứu cho thấy chức năng TM
không thay đổi, vẫn giữ được chức năng cô đặc
mật của TM. Nồng độ acid mật cao có thể trào
ngược một phần vào đường mật trong gan, ức
chế tạo sỏi, làm giảm tỉ lệ tái phát sỏi.
Qua đường hầm có thể chụp X quang đường
mật, dẫn lưu mật trong những TH cấp cứu
nhiễm trùng đường mật.
Chỉ định
Bệnh nhân bị sỏi trong gan hai bên. Sỏi vùng
trong gan, trong khi mổ có thể được cắt một
phần gan có liên quan và đường mật phần còn
lại tương đối bình thường.
Chống chỉ định
Đọan thấp OMC bị hẹp, hẹp cơ vòng Oddi,
đã cắt cơ vòng Oddi.
TM viêm mãn teo hay viêm mủ, họai tử.
BN đã được nối mật-ruột.
Mở thông ống mật chủ qua một đọan hỗng
tràng biệt lập
Dùng một đọan hỗng tràng biệt lập dài 8-10
cm cách gốc Treitz khỏang 20 cm cắt rời cùng với
mạc treo đưa qua mạc treo đại tràng ngang, nối
đầu xa vào ống mật chủ, đầu gần cố định vào da
bụng, nối tận-tận lập lại lưu thông hỗng tràng.
Sỏi sót và sỏi tái phát được nội soi qua đọan ruột
biệt lập này. Nếu BN bị sỏi tái phát có viêm
đường mật cấp, không cần phải mổ cấp cứu, chỉ
đặt dẫn lưu qua quai ruột biệt lập, khi các triệu
chứng lâm sàng ổn định sẽ được nội soi qua
đường này lấy sỏi.
Phẫu thuật này bảo tồn được chức năng cơ
vòng Oddi, tránh được các biến chứng của nối
Roux-en-Y. Tỉ lệ sạch sỏi 97%, có các biến chứng
nhẹ khỏang 22% như đau bụng, sưng đau da
bụng, tiêu chảy, thóat vị, tiêu máu(2,12).
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 28
Kỹ thuật này tránh được biến chứng trào
ngược miệng nối và hẹp miệng nối mật ruột
Kết quả điều trị
Sỏi sót là vấn đề phức tạp sau điều trị STG.
Sỏi sót giảm nhiều nhờ vào ống soi mềm ĐM lấy
sỏi trong và sau mổ. Tỉ lệ sỏi sót đã giảm rõ rệt từ
19,8-62,3% không có ống soi ĐM xuống 10-30,2%
có ống soi ĐM trong và sau mổ. Theo
Uchiyama(21) tỉ lệ sót sỏi sau PTCSL STG là 14,3%.
Trước năm 1985 nối mật-ruột là một trong
những điều trị chính STG nhưng tỉ lệ sót sỏi là
56%. Tuy nhiên sau năm 1986 cắt gan và điều trị
không xâm hại như PTCSL được thực hiện
thường hơn và tỉ lệ sót sỏi giảm còn 3,1% (1/32).
Kết quả gần là sỏi sót, tỉ lệ sót sỏi là 22,7%.
Cắt gan là 0% so với nối mật-ruột 48,6%
(p<0.001) so với dẫn lưu Kehr 25% (p=0,015) và
PTCSL là 10%(3).
Kết quả xa là sỏi TP 15-45% sau 5-24 năm.
Trong đó cắt gan là 13,9%, nối mật-ruột 28,5%,
dẫn lưu Kehr 25% và PTCSL 50% (p=0,021 so với
cắt gan). Tỉ lệ tử vong của bệnh từ 2,1 - 4,2%(22).
PTCSL là PP có kết quả thuận lợi nếu lấy hết
sỏi tuy nhiên PTCSL lấy STG có tỉ lệ sạch sỏi và
sỏi tái phát (STP) có thể so với PT. Tỉ lệ sạch sỏi
từ 80-85,3%. Hẹp ĐMTG là yếu tố ảnh hưởng tức
thì kết quả sạch sỏi. Tỉ lệ sạch sỏi thấp hơn ở
nhóm có hẹp ĐM so với không hẹp ĐM từ 58-
75,4% so với 94,5-100%. Theo Uchiyama tỉ lệ sỏi
TP cao(22).
Cắt gan và PTCSL ngày càng áp dụng nhiều
và sót sỏi giảm < 1%. Đa số cắt gan T.
STG có tỉ lệ tái phát cao từ 3,1- 32,6%. Ở
Nhật từ 1989-1992 tái phát là 6,6% với 5,3% ở
nhóm cắt gan; 8,3% nhóm nối OMC-HT; 6,4%
nhóm mở OMC và NS tán sỏi; 9,6% nhóm lấy
sỏi qua PTCS. Tỉ lệ STP ở nhóm có hẹp ĐM
cao hơn nhóm không hẹp ĐM từ 56,2-100% so
với 28-44,4%.
Sỏi TP sau cắt gan từ 4,2-9,5% sau PTCSL là
36,4%. Sỏi TP cao sau PTCSL dù đã lấy sạch sỏi
vì cấu tạo của ĐM không đổi và sỏi TP cao hơn ở
nhóm có hẹp ĐM.
Để giảm tỉ lệ sót sỏi và sỏi tái phát cần chẩn
đoán chính xác hình ảnh bệnh học phức tạp của
STG và chọn lựa cách điều trị đa mô thức hiệu
quả nhất cho từng loại STG bằng PP xâm hại và
không xâm hại(16).
UTĐM kết hợp STG từ 3-10 % và dự hậu xấu
sống 1-2-4 năm là 30-12,7-3,6%. Ở Nhật tử vong
trong năm đầu là 48%(22).
Tóm lại điều trị STG cần phối hợp đa mô
thức nhằm lấy hết sỏi và dẫn lưu đường mật.
Tuy nhiên, STG cho đến hiện nay vẫn là một
bệnh khó điều trị triệt để, do đó cần phối hợp
nhiều phương pháp để giải quyết hai vấn đề lớn
là sỏi sót và sỏi tái phát. Các kỹ thuật tạo ngõ vào
đường mật ngày càng được thực hiện thường
xuyên để xử lý sỏi tái phát và hẹp đường
mật(2,16,23)..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cai X, Wang Y, Yu H, Peng S (2007). “Laparoscopic
hepatectomy for hepatolithiasis: a feasibity and safety study in
29 patients”. Surg Endosc, 21: 1074-1078.
2. Cha SW (2018). “Management of Intrahepatic Duct Stone”.
Korean J Gastroenterol, 71(5):247-252.
3. Chen CH, Huang MH, Yang JC, Yang CC (2005). “Reappraisal
of percutaneous transhepatic cholangioscopic lithiomy for
primary hepatolithiasis”. Surg Endosc, 19:505-509.
4. Chen XG, Liu JQ, Peng MH, Wang WG (2003). “Clinical
epidemiological study on intrahepatic cholelithiasis: analysis of
8585 cases”. Hepatobiliary & Pancreatic diseases international, 2(2):
281-284.
5. Cunha JEM, Herman P, Machado CC, Penteado S (2002). “A
new biliary access technique for the long-term endoscopic
management of intrahepatic stones”. J Hepatobiliary Pan Surg, 9:
261-264.
6. Huang MH, Chen CH, Yang JC et al (2003). “Long-term
outcome of percutaneous transhepatic cholangioscopic
lithotomy for hepatolithiasis”. Am J Gastoenterology, 98(12):2655-
2662.
7. Kim YK1, Han HS, Yoon YS, Cho JY, Lee W (2015).
“Laparoscopic approach for right-sided intrahepatic duct stones:
a comparative study of laparoscopic versus open treatment”.
World J Surg; 39(5):1224-30.
8. Lee KF, Chong CN, Daniel Ng, Cheung YS, Wilson Ng (2008).
“Outcome of surgical treatment for recurrent pyogenic
cholangitis: a single-centre study”. HPB, 11(1): 75–80.
9. Lee TY, Chen YL, Chang HC et al (2007). “Outcomes of
hepatectomy for hepatolithiasis”. World J Surg, 31: 479-482.
10. Li SQ, Liang LJ, Hua YP, Peng BG, Chen D, Fu SJ (2009).
“Bilateral liver resection for bilateral intrahepatic stones”. World
J Gastroenterol; 15(29): 3660-3663
11. Li X, Shi L, Wang Y, Tian FZ (2005). “Middle and long-term
clinical outcomes of patients with regional hepatolithiasis after
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 29
subcutaneous tunnel and hepatocholangioplasty with utilization
of the gallbladder”. Hepa Pancr Dis Int, 4(4):597-599.
12. Li Y, Cai J, Wu AT, Wang ZJ (2005). “Long-term curative effects
of combined hepatocholangioplasty with choledochostomy
through an isolated jejunum passage on hepatolithiasis
complicated by stricture”. Hepa Pancr Dis Int, 4(1): 64-67.
13. Liu X, Min X, Ma Z, He X, Du Z (2018). “Laparoscopic
hepatectomy produces better outcomes for hepatolithiasis than
open hepatectomy: An updated systematic review and meta-
analysis”. Int J Surg, 51:151-163.
14. Neuhaus H (2003). “Endoscopic and percutaneous treament of
difficult bile duct stones”. Endoscopy, 35: 31-34.
15. Nguyễn Cao Cương, Phan Hiệp Lợi, Văn Tần (2002). “Chỉ định
và kết quả điều trị phẫu thuật cắt gan điều trị sỏi trong gan’’.
Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 6(2): 269-275.
16. Nguyễn Đình Hối (2000). “Bệnh sỏi đường mật ở Việt Nam:
những vấn đề đang đặt ra”. Ngọai khoa, 40: 1-14.
17. Pan GD, Yan LN, Li B, Lu SC, Zeng Y (2005). “Liver
transplantation for patients with hepatolithiasis”. Hepatobiliary
Pancreat Dis Int, 4:345-349.
18. Pu Q, Zhang C, Huang Z, Zeng Y (2017). “Reoperation for
recurrent hepato -lithiasis: laparotomy versus laparoscopy”.
Surg Endosc, 8: 3098-3105.
19. Tang C.N, Tai CK, Siu WT, et al (2005). “Laparoscopic treatment
of recurrent pyogenic cholangitis”. J Hepa Pancr Surg, 12: 243-
248.
20. Tang LJ, Tian FZ, Cai ZH (2003). “Cholecystocholedochostomy
plus contruction of subcutaneous cholecystic tunnel in treatment
of choledocholith”. Hepa Pancr Dis Int, 2: 114-116.
21. Uchiyama K, Kawai M,Ueno M, Ozawa S, Tani M, Yamaue H
(2007). “Reducing Residual and Recurrent Stones. Hepatectomy
for Hepatolithiasis”. J Gastrointest Surg, 11:626–630.
22. Uchiyama K, Onishi H, Tani M et al (2002). “Indication and
procedure for treatment hepatolithiasis”. Arch Surg, 137: 149-153.
23. Văn Tần, Nguyễn Cao Cương, Lưu Hữu Phước, Hòang Danh
Tấn (2002). “Sỏi trong gan: dịch tễ, chỉ định, kết quả phẫu
thuật”. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 6(2): 225-237.
24. Võ Văn Hùng, Nguyễn Cao Cương, Lê Hữu Phước, Lương
Thanh Tùng, (2010). “Nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật mở thông
ống mật chủ bằng túi mật điều trị sỏi đường mật trong gan”.
Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(1): 334-339.
Ngày nhận bài báo: 12/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- soi_trong_gan_thach_thuc_trong_dieu_tri.pdf