Tài liệu Sốc sốt xuất huyết dengue tại bệnh viện nhi đồng Đồng Nai: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 93
SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG ĐỒNG NAI
Phạm Thị Kiều Trang*, Nguyễn Trọng Nghĩa*, Trần Diệp Tuấn*, Phùng Nguyễn Thế Nguyên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sốt xuất huyết Dengue là 1 gánh nặng toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, trong
đó sốc là biến chứng nguy hiểm thường gặp nhất. Uớc tính, có khoảng 390 triệu ca nhiễm mới và 20.000 ca tử
vong do Dengue mỗi năm, chủ yếu ở trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của trẻ sốc Sốt xuất
huyết Dengue (SXHD) được điều trị tại bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả 800 trường hợp sốc SXHD được điều trị tại bệnh
viện Nhi đồng Đồng Nai trong từ 01/01/2015 đến 30/6/2017.
Kết quả: 800 trường hợp sốc SXHD được đưa vào nghiên cứu có tỷ lệ tử vong là 0,3%. Tuổi trung bình là
9,3 tuổi. Các đặc điểm lâm...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sốc sốt xuất huyết dengue tại bệnh viện nhi đồng Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 93
SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG ĐỒNG NAI
Phạm Thị Kiều Trang*, Nguyễn Trọng Nghĩa*, Trần Diệp Tuấn*, Phùng Nguyễn Thế Nguyên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sốt xuất huyết Dengue là 1 gánh nặng toàn cầu với tỷ lệ mắc bệnh ngày càng gia tăng, trong
đó sốc là biến chứng nguy hiểm thường gặp nhất. Uớc tính, có khoảng 390 triệu ca nhiễm mới và 20.000 ca tử
vong do Dengue mỗi năm, chủ yếu ở trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của trẻ sốc Sốt xuất
huyết Dengue (SXHD) được điều trị tại bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả 800 trường hợp sốc SXHD được điều trị tại bệnh
viện Nhi đồng Đồng Nai trong từ 01/01/2015 đến 30/6/2017.
Kết quả: 800 trường hợp sốc SXHD được đưa vào nghiên cứu có tỷ lệ tử vong là 0,3%. Tuổi trung bình là
9,3 tuổi. Các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng phù hợp với mô tả của SXHD theo WHO, 20,2 % bệnh nhân
vẫn còn sốt sau khi đã sốc. Ngày vào sốc trung bình là ngày thứ 5. Có 3% bệnh nhân có HCT lúc ngưng dịch lớn
hơn HCT lúc vào sốc. Số bệnh nhân có biểu hiện xuất huyết niêm trên lâm sàng chiếm tỷ lệ 4%. 11,3% bệnh
nhân có CRP >10 mg/l ở thời điểm sốc. 3,6% bệnh nhân có albumin máu <25 g/l, 40,2% bệnh nhân có tăng lactat
máu >2 mmol/l. Hầu hết các bệnh nhân đều hồi phục tốt với dung dịch điện giải hoặc kết hợp với dung dịch cao
phân tử.
Kết luận: Can thiệp điều trị một cách nhanh chóng, thích hợp đã góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong của bệnh.
Từ khoá: sốc sốt xuất huyết Dengue
ABSTRACT
DENGUE HEMORRHAGIC SHOCK AT ĐONG NAI CHILDREN HOSPITAL, VIET NAM
Pham Thi Kieu Trang, Nguyen Trong Nghia, Tran Diep Tuan, Phung Nguyen The Nguyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 93 - 98
Background: Dengue Hemorrhagic Fever (DHF) is a global health burden with geographical spread and
increased incidence of disease. Dengue shock syndrome (DSS) is the serious complication that can lead to death in
24-48 hours. Data for many recent years, it is estimated that 390 million Dengue infections occur each year, at
least 20,000 deaths, mainly among children. However only a small proportion of cases are reported to World
Health Organization(WHO).
Objectives: To describe epidemiological, clinical characteristics, investigational parameters and treatment of
the patients with DSS at Dong Nai Children Hospital.
Methods: We retrospectively, cases series who underwent treatment at PICU- Dong Nai Children Hospital
from 01/01/2015 to 30/06/2017.
Results: Eight hundred children were enrolled (Mean age was 9.3 years). Clinical and laboratory features
were similar to the description about DSS in the publication by WHO. Shock occured after 3-7 days of fever
(mean was 5 days) and 20.2% cases with DSS was still fever. The children whose hematocrit levels at the end of
infusion was larger than at the onset of shock were 3%. We found 4% cases with severe bleeding. 11.3% children
*Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh **Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Phùng Nguyễn Thế Nguyên ĐT: 0989043858 Email: nguyenphung@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 94
with CRP levels >10 mg/L, 40.2% cases with blood lactate concentration >2 mmol/L and only 3.6% cases with
albumin levels <25 g/L in duration of shock. Almost patients had improved outcome after infusion of crystalloid
and colloid solution. The overall mortality rate was 0.3%.
Conclusion: Appropriate intervention and optimal infusion can decrease mortality rate of the patients
with DSS.
Key words: dengue shock syndrome
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là 1 bệnh sốt
cấp tính do vi rút Dengue gây ra. Ước tính, có 3
tỷ người trên toàn cầu sống trong khu vực nguy
cơ nhiễm Dengue, 390 triệu ca nhiễm (96 triệu ca
có triệu chứng) và 20.000 ca tử vong do Dengue
mỗi năm(3).
Sốc là biến chứng phổ biến nhất của bệnh sốt
xuất huyết Dengue, là tình trạng tăng tính thấm
thành mạch tạm thời dẫn tới thất thoát huyết
tương ra ngoài lòng mạch(15). Không có điều trị
đặc hiệu, theo dõi sát lâm sàng, điều trị dịch
truyền hợp lý là yếu tố chính quyết định điều trị
thành công. Nhiều bệnh nhân đáp ứng tốt với
dịch tinh thể đơn thuần, nhưng có những bệnh
nhân sốc sâu hoặc sốc kéo dài thường đòi hỏi kết
hợp với dịch cao phân tử và có nguy cơ suy hô
hấp do rò rỉ huyết tương nhiều. Tỷ lệ tử vong
của bệnh thay đổi tùy theo mức độ nghiêm
trọng của bệnh, phương tiện theo dõi điều trị và
kinh nghiệm điều trị của bác sĩ lâm sàng(1,4,9,17).
Mặc dù gánh nặng sốt xuất huyết ngày càng
gia tăng trên toàn cầu nhưng chỉ có ít báo cáo hồi
cứu nhỏ đã mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận
lâm sàng và kết quả điều trị của sốc sốt xuất
huyết Dengue. Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai,
nằm trong địa phận tỉnh Đồng Nai, là khu vực
có tỷ lệ mắc SXHD khá cao, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu hồi cứu trong thời gian 2,5 năm với
số lượng 800 bệnh nhi sốc SXHD để có một mô
tả toàn diện về các đặc điểm lâm sàng, cận lâm
sàng, diễn tiến điều trị, kết quả điều trị của sốc
SXHD ở trẻ em.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ và trung bình các đặc điểm
dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị của trẻ
sốc sốt xuất huyết Dengue điều trị tại bệnh viện
Nhi đồng Đồng Nai.
Xác định tỷ lệ các đặc điểm của 2 nhóm bệnh
nhân sốc SXHD nặng và nhóm bệnh nhân sốc SXHD.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn vào
Tất cả trẻ sốc SXHD được điều trị tại bệnh
viện Nhi đồng Đồng Nai (NĐĐN) từ 01/01/2015
đến 30/6/2017, thỏa 3 điều kiện:
Tuổi <16 tuổi,
Được điều trị chống sốc ban đầu tại bệnh
viện Nhi đồng Đồng Nai,
Chẩn đoán SXHD theo tiêu chuẩn lâm sàng
và cận lâm sàng của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2009.
Tiêu chuẩn loại trừ
Sốc SXHD đã điều trị dịch truyền từ tuyến trước,
Bệnh nhi được cchuyển viện lên tuyến trên
trong quá trình điều trị,
Có bệnh lý nền tim bẩm sinh có suy tim, cao
áp phổi, suy gan, suy thận, hội chứng thận hư.
Định nghĩa các biến số chính
Sốc sốt xuất huyết dengue
Khi huyếp áp tâm thu giảm theo tuổi hay
không đo được hay hiệu áp kẹp ≤20 mmHg và
có các biểu hiện của giảm tưới máu như vật vã,
bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch
nhẹ, tiểu ít.
Sốc sốt xuất huyết dengue
Sốc với huyết áp giảm hay kẹp.
Sốc sốt xuất huyết dengue nặng
Sốc nặng, huyết áp không đo được, mạch
không bắt được.
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 95
Thu thập và xử lý dữ liệu
Tất cả dữ liệu lâm sàng, cận lâm sàng và
điều trị được thu thập vào phiếu thu thập dữ
liệu thống nhất.
Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm
Stata12.0. Dùng các phép toán thống kê để so
sánh các trị số trung bình, các tỷ lệ phần trăm,
mức ý nghĩa p <0,05.
KẾT QUẢ
Qua nghiên cứu (NC) 800 bệnh nhi sốc
SXHD từ 01/01/2015 đến 30/6/2017 được điều trị
tại bệnh viện NĐĐN, chúng tôi có những kết
quả sau:
Đặc điểm của dân số khảo sát
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ và lâm sàng (n= 800)
Các đặc điểm dịch tễ
Trung bình
± độ lệch
chuẩn
N (%)
Tuổi trung bình (năm) 9,3 ± 3,3
Giới nam 413 (52%)
Ngày vào sốc (ngày) 5 ± 0,8
(3–7)
Phân lập siêu vi
5/44 (11%) DENV 1
7/44 (16%) DENV 2
32/44 (73%) Âm tính
Đặc điểm lâm sàng (LS)
Huyết áp lúc vào sốc=0
(mmHg)
25 (3,1%)
Thời gian phục hồi màu
da/sốc ≥ 3 giây
681 (89,2%)
Sốt sau sốc 161 (20,2%)
Gan to 403 (50,4%)
Xuất huyết niêm/LS 32 (4%)
Đặc điểm cận lâm sàng
n/số bệnh nhân được
xét nghiệm (%)
Hct/ sốc 48,9 ± 4
Hct/ ngưng dịch 42 ± 3,5
Hct ngưng dịch >hct sốc 24 (3%)
CRP> 10 mg/l/ sốc 68/ 600 (11,3%)
SGOT ≥ 1000 (UI/l)/ sốc 31/ 785 (3,9%)
SGPT ≥ 1000 (UI/l)/ sốc 17/ 785 (2,1%)
DIC/sốc 52/ 659 (7,9%)
Albumin <25 (g/l)/sốc 17/ 470 (3,6%)
Lactat máu >2 (mmol/l)/
sốc
251/624 (40,2%)
Bảng 2. Đặc điểm điều trị (n-800)
Đặc điểm điều trị TB ± SD N (%)
Tổng dịch (ml/kg) 135,9 ± 17,6
Tổng CPT (ml/kg) 54,4 ± 28,5
Đặc điểm điều trị TB ± SD N (%)
Thời gian truyền dịch (giờ) 27,4 ± 4,9
Tỉ lệ dùng CPT 405 (50,6%)
Tỉ lệ tái sốc 61 (7,6%)
Tỉ lệ sốc kéo dài 1 (0,1%)
Tỉ lệ suy hô hấp và hỗ trợ hô
hấp
137 (17,1%)
Tỉ lệ thở máy 9 (1,1%)
Tỉ lệ điều trị lợi tiểu 127 (15,9%)
Tỉ lệ chọc dò màng bụng 2 (0,3%)
Tỉ lệ chọc dò màng phổi 0
Tỉ lệ điều trị chế phẩm máu 68 (8,5%)
Tỉ lệ tổn thương đa cơ quan 2 (0,25%)
Lọc máu 2 (0,25%)
Tỉ lệ tử vong 2 (0,3%)
Bảng 3. So sánh các đặc điểm của nhóm bệnh nhi sốc
SXHD nặng và nhóm bệnh nhi sốc SXHD (n=800)
Các đặc điểm
Sốc nặng
(n = 25)
Sốc
(n = 775)
P
Đặc điểm dịch tễ
Tuổi trung bình (năm) 8,8 ± 2,8 9,9 ± 3,3 0,45
Giới nam 15 (60%) 398 (51,4%) 0,4
Đặc điểm cận lâm sàng
Hct/ sốc 52,8 ± 5,1 48,8 ± 3,9 <0,001
Hct/ ngưng dịch 42,3± 4,8 42,1 ± 3,5 0,69
Crp > 10 mg/l/sốc 2 (8%) 66 (8,5%) 0,55
SGOT ≥1000
(UI/l)/sốc
1 (4%) 44 (5,7%) 0,72
SGPT ≥ 1000
(UI/l)/sốc
0 17 (2,1%) 0,45
Albumin < 25 (g/l)/sốc 4 (33,3%) 15 (3,3%) <0,001
Lactat máu >2
(mmol/l)/ sốc
13 (68,4%) 120 (19,8%) <0,001
Đặc điểm điều trị
Tổng dịch ngưng dịch 148,1 ± 18,3 135,5 ± 17,5 <0,001
Tổng cao phân tử
ngưng dịch
70,5 ± 23,5 53,4 ± 28,5 0,004
Thời gian truyền dịch 27,3 ± 2,4 27,4 ± 4,9 0,87
Tái sốc 2 (8%) 59 (7,6%) 0,94
Hỗ trợ hô hấp 13 (52%) 123 (15,9%) <0,001
Truyền máu, chế
phẩm máu
6 (24%) 62 (8%) 0,005
BÀN LUẬN
Qua 800 bệnh nhân sốc SXHD được điều trị
tại bệnh viện Nhi Đồng Đồng Nai từ thời điểm
bắt đầu truyền dịch cho tới khi xuất viện, chúng
tôi thấy lứa tuổi mắc bệnh trung bình là 9,3 tuổi,
tỉ lệ nam giới là 52%, ngày vào sốc thường là
ngày thứ 5 của bệnh cũng tương tự như các báo
cáo khác(2,7,8).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 96
Chúng tôi nhận thấy trong 44 trường hợp
được định týp virus thì kiểu huyết thanh là
DENV 1 và DENV - 2, kiểu huyết thanh có sự
khác biệt giữa các năm theo như nghiên cứu của
các tác giả tại bệnh viện Bệnh nhiệt đới thành
phố Hồ Chí Minh, năm 1999 kiểu huyết thanh
phổ biến là DENV- 3, 2001 là DENV- 4, 2004
DENV-2, từ 2005 – 2009 kiểu huyết thanh
DENV- 1 chiếm ưu thế(16). Như vậy vi rút liên
quan tới sốc SXHD dường như là đại diện cho
quần thể vi rút ảnh hưởng tới cộng đồng, cho tới
nay không có bằng chứng nào cho thấy kiểu
huyết thanh cụ thể nào gây bệnh nặng hơn.
Các triệu chứng lâm sàng thu thập được đều
phù hợp với mô tả thực nghiệm của SXHD. Tuy
nhiên có 20,2% bệnh nhân vẫn còn sốt sau khi
sốc, trong quá trình truyền dịch, điều này cho
thấy sốc có thể xảy ra sớm hơn, trong giai đoạn
bệnh nhi còn sốt.
Giống như các nghiên cứu khác, hầu hết các
bệnh nhân sốt xuất huyết không có tình trạng
xuất huyết niêm trong quá trình điều trị. Rất
hiếm trường hợp xuất huyết nghiêm trọng,
thường chủ yếu từ đường tiêu hóa. Trong
nghiên cứu ghi nhận 32 (4%) trường hợp có xuất
huyết niêm, trong đó có tính cả các trường hợp
ói dịch lợn cợn nâu, lượng không nhiều. Kết quả
này không đồng nhất với các nghiên cứu(10) có
thể do tiêu chuẩn chọp lựa mẫu của các nghiên
cứu khác nhau. Tuy nhiên số bệnh nhân truyền
chế phẩm máu trong nghiên cứu của chúng tôi
là 68 (8,5%) bệnh nhân, cao hơn số bệnh nhân có
biểu hiện xuất huyết niêm trong nghiên cứu là
do có những bệnh nhân có diễn tiến không
thuận lợi nên được truyền chế phẩm máu theo
các rối loạn trên cận lâm sàng.
Bệnh nhân có biểu hiện cô đặc máu ở thời
điểm sốc với dung tích hồng cầu trung bình thời
điểm này là 48,9 %, tương tự như nghiên cứu(7),
thời điểm ngưng dịch có dung tích hồng cầu
trung bình là 42%, tuy nhiên có 24 bệnh nhân
(3%) có dung tích hồng cầu tại thời điểm ngưng
dịch cao hơn dung tích hồng cầu tại thời điểm
bệnh nhân sốc. Cho đến nay chưa có bằng chứng
giải thích thỏa đáng cho hiện tượng này, nhưng
điều này cho thấy không phải cứ dung tích hồng
cầu tăng là còn tiếp tục thất thoát huyết tương.
Có 11,3% bệnh nhân có CRP> 10 mg/l và tất
cả các bệnh nhân này đều không phải dùng
kháng sinh trong quá trình điều trị và đều hết
sốt ở thời điểm xuất viện. Chưa có nghiên cứu về
tiên lượng điều trị của CRP ở những bệnh nhân
sốc, nhưng trong kết quả nghiên cứu của chúng
tôi thấy sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
với p tương ứng là 0,25 và 0,19 về tỷ lệ số bệnh
nhân suy hô hấp, số bệnh nhân truyền máu, chế
phẩm máu giữa nhóm có crp >10 mg/l và nhóm
crp <10 mg/l. Nghiên cứu của Chien-Chih Chen
trên bệnh nhân người lớn, có ngưỡng dự báo sốc
dựa trên CRP khá cao: 30 mg/l với độ nhạy
100%, độ đặc hiệu 76,3%(5).
Lactat máu thường tăng trong các trường
hợp có suy tim, sốc và tổn thương gan. Trong
bệnh nhân SXHD lactat có thể dùng làm dấu
hiệu tiên đoán sốc nếu tăng >2 mmol/l(12). Tăng
lactat máu trong quá trình điều trị chống sốc
cũng được coi là 1 chỉ điểm của điều trị sốc
không thích hợp(11). Nghiên cứu của chúng tôi
đánh giá lactat máu ở thời điểm sốc chỉ có 40,2%
bệnh nhân có tăng lactat máu >2 mmol/l.
Theo 1 vài nghiên cứu về albumin máu trên
bệnh nhân SXHD, albumin máu giảm có thể coi
là là dấu hiệu để xác định tràn dịch màng phổi,
màng bụng và nguy cơ SXHD nặng(13), albumin
máu cũng có thể dùng để tiên đoán sốc nhưng
không dùng để tiên đoán tái sốc(14). Tuy nhiên
trong nghiên cứu của chúng tôi có 3,6% bệnh
nhân có albumin máu <25 g/l ở thời điểm sốc.
Về kết quả điều trị
Tổng lượng dịch truyền trung bình trong
nghiên cứu của chúng tôi là 135,9 ml với thời
gian truyền dịch trung bình là 27,4 giờ. Tương
tự như trong nghiên cứu Nhan NT có thể do 2
nghiên cứu làm trong cùng 1 bệnh viện nên
dân số giống nhau, cách truyền dịch cũng
giống nhau, nhưng lại nhiều hơn nghiên cứu
của Lam PK và cộng sự (7). Có 405 (50,6%) bệnh
nhân trong NC cần chuyển sang dung dịch
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 97
keo trong quá trình điều trị, tương tự như NC
của Phung Khanh Lam nhưng tổng CPT trong
NC của chúng tôi là 54,4 ml, cao hơn khá
nhiều so với NC của Phung Khanh Lam: 25 ml.
Có sự khác biệt này có thể do sự khác biệt
trong cách sử dụng dung dịch cao phân tử của
2 NC khác nhau. Với NC của chúng tôi, khi
chuyển đổi sang dung dịch cao phân tử sẽ
giảm dần liều nhưng sẽ duy trì 2-3 giờ ở mỗi
liều, còn trong NC của Đông Thị Hoài Tâm(6)
thì sử dụng cao phân tử không kéo dài. Điều
này cho thấy việc dùng cao phân tử vẫn còn
những ý kiến khác nhau.
Khi so sánh về các đặc điểm của nhóm sốc
nặng (sốc với hiệu áp = 0 mmHg) và nhóm sốc
(hiệu áp > mmHg) chúng tôi thấy giữa 2 nhóm
có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê về đặc
điểm tuổi trung bình và giới tính, với mức ý
nghĩa thống kê tương ứng là 0,45 và 0,4. Các đặc
điểm cận lâm sàng thời điểm vào sốc như HCT
trung bình, tỷ lệ tăng lactat máu, albumin máu ở
nhóm sốc nặng cao hơn ở nhóm sốc, điều này
cũng phù hợp với cơ chế sốc là do thất thoát
huyết tương, khi huyết tương thất thoát càng
nhiều thì dung tích hồng cầu càng cao, dịch
trong lòng mạch mất nhiều hơn nên tỷ lệ lactat
máu tăng nhiều hơn ở nhóm sốc nặng, dịch thất
thoát kéo theo albumin nên tỷ lệ albumin giảm
nhiều hơn ở nhóm sốc nặng. Các đặc điểm điều
trị như tổng dịch ngưng dịch, tổng cao phân tử
ngưng dịch, tỷ lệ hỗ trợ hô hấp, tỷ lệ truyền chế
phẩm máu ở nhóm bệnh nhân sốc nặng đều cao
hơn nhóm sốc. Điều này cũng dễ hiểu, do nhóm
sốc nặng có thất thoát huyết tương nhiều hơn
nên cần lượng dịch nhất là cao phân tử nhiều
hơn để bù đủ thể tích lòng mạch. Dịch thất thoát
ra khỏi lòng mạch sẽ vào khoang màng bụng,
màng phổi dẫn đến suy hô hấp nhiều hơn. Tuy
nhiên, thời gian truyền dịch và tỷ lệ tái sốc giữa
2 nhóm có sự khác biệt không có ý nghĩa thống
kê, cho thấy việc điều trị chống sốc nhanh chóng
ban đầu là cần thiết, nhất là đối với những
trường hợp sốc nặng.
KẾT LUẬN
Qua 800 trường hợp sốc SXHD điều trị tại
bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai từ tháng 01/2015
đến tháng 6/2017 chúng tôi kết luận:
Các bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 9,3
tuổi. Ngày vào sốc trung bình là ngày thứ 5. Các
đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng phù hợp với
mô tả của SXHD theo WHO, mặc dù có 20,2%
bệnh nhân vẫn còn sốt sau khi đã sốc. Số bệnh
nhân có biểu hiện xuất huyết niêm trên lâm sàng
chiếm tỷ lệ 4%. Có 3% bệnh nhân có HCT lúc
ngưng dịch lớn hơn HCT lúc vào sốc. có 11,3%
bệnh nhân có CRP >10 mg/l ở thời điểm sốc.
3,6% bệnh nhân có albumin máu <25 g/l, 40,2%
bệnh nhân có tăng lactat máu >2 mmol/l. Hầu
hết các bệnh nhân đều hồi phục tốt với dung
dịch điện giải hoặc kết hợp với dung dịch cao
phân tử. Tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu là 0,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Almas A, Parkash O, Akhter J (2010). "Clinical factors associated
with mortality in Dengue infection at a tertiary care center".
Southeast Asian J Trop Med Public Health, 41(2):333-340.
2. Anders KL, Nguyet NM, Chau NV, et al (2011).
"Epidemiological Factors Associated with Dengue Shock
Syndrome and Mortality in Hospitalized Dengue Patients in Ho
Chi Minh City, Vietnam". Am J Trop Med Hyg, 84(1):127-134.
3. Bhatt S, Gething PW, Brady OJ, et al (2013). "The global
distribution and burden of Dengue", Nature, 496(7446):504-507.
4. Bunnag T, Kalayanarooj S (2011). "Dengue shock syndrome at
the emergency room of Queen Sirikit National Institute of Child
Health, Bangkok, Thailand". J Med Assoc Thai, 94(3):S57-63.
5. Chen CC, Lee IK, Liu JW, et al (2015). "Utility of C-reactive
protein levels for early prediction of Dengue severity in adults".
BioMed Research International, pp.e1-6.
6. Đông Thị Hoài Tâm NQT, Nguyễn Thị Cẩm Hường, Nguyễn
Minh Dũng, Nguyễn Thị Ngọc Nga, Trần Vĩnh Điệt, Cao Thị
Tâm, Phạm Thị Hải Mến (2008). "Sử dụng dung dịch đại phân
tử trong điều trị sốc Sốt xuất huyết Dengue ở trẻ em tại bệnh
viện Nhiệt Đới". Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 12:125-130.
7. Lam PK, Tam DT, Diet TV, et al (2013). "Clinical characteristics
of Dengue shock syndrome in Vietnamese children: a 10-year
prospective study in a single hospital". Clin Infect Dis,
57(11):1577-1586.
8. L'Azou M, Moureau A, Sarti E, et al (2016). "Symptomatic
Dengue in Children in 10 Asian and Latin American Countries".
N Engl J Med, 374(12):1155-1166.
9. Liew SM, Khoo EM, Ho BK, et al (2016). "Dengue in Malaysia:
Factors Associated with Dengue Mortality from a National
Registry". PLoS One, 11(6):e0157631.
10. Phuong CX, Nhan NT, Kneen R, et al (2004). "Clinical diagnosis
and assessment of severity of confirmed Dengue infections in
Vietnamese children: is the world health organization
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 98
classification system helpful?". Am J Trop Med Hyg, 70(2):172-
179.
11. Puspanjono MT, Latief A, Tumbelaka AR, et al (2007).
"Comparison of serial blood lactate level between Dengue shock
syndrome and Dengue hemorrhagic fever (evaluation of
prognostic value)". Paediatrica Indonesiana, 47(4):150-155.
12. Sirikutt P, Kalayanarooj S (2014). "Serum lactate and lactate
dehydrogenase as parameters for the prediction of Dengue
severity". J Med Assoc Thai, 97(6):S220-231.
13. Suwarto S, Nainggolan L, Sinto R, et al (2016). "Dengue score: a
proposed diagnostic predictor for pleural effusion and/or ascites
in adults with Dengue infection". BMC Infect Dis, 16:322.
14. Tatura SNN, Kalensang P, Mandei JM, et al (2017). "Albumin
level as a predictor of shock and recurrent shock in chil-dren
with Dengue hemorrhagic fever". Crit Care, 20(2):24-29.
15. Usman H, Safitri I, Lum L, et al (2012). "Evidence for the use of
intravenous rehydration for treating severe Dengue with
plasma leakage in children and adults: a systematic review".
Dengue, 36:149.
16. Vu TT, Holmes EC, Duong V, et al (2010). "Emergence of the
Asian 1 genotype of Dengue virus serotype 2 in viet nam: in
vivo fitness advantage and lineage replacement in South-East
Asia". PLoS Negl Trop Dis, 4(7):e757.
17. Wills BA, Dung NM, Loan HT, et al (2005). "Comparison of
three fluid solutions for resuscitation in Dengue shock
syndrome". New England Journal of Medicine, 353(9):877-889.
Ngày nhận bài báo: 20/07/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019
Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 93_586_2213292.pdf