Tài liệu So sánh ương hậu ấu trùng tôm sú (penaeus monodon) từ potslarvae-2 trong hệ thống có và không có biofloc ở các mật độ khác nhau: 87
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(77)/2017
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm sú là đối tượng nuôi phổ biến ở Việt Nam, 
năm 2016 sản lượng đạt 251.700 tấn trên diện tích 
nuôi 571.000 ha (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2016). 
Theo sự phát triển của nghề nuôi tôm thương phẩm 
thì nhu cầu con giống liên tục tăng cao. Năm 2016 
cả nước có 1.861 cơ sở sản xuất giống tôm sú với 
sản lượng là 40 tỷ tôm giống (Cục thú y, 2016). Tuy 
nhiên, trong những năm qua, nghề nuôi tôm sú gặp 
rất nhiều trở ngại về dịch bệnh, giống chất lượng 
kém do trại sản xuất sử dụng thuốc kháng sinh quá 
nhiều trong suốt quá trình ương. Do đó tìm giải pháp 
cho nghề sản xuất giống tôm sú theo hướng an toàn 
sinh học thì việc ứng dụng công nghệ biofloc trong 
ương ấu trùng tôm sú để tạo ra con giống tốt, an 
toàn sinh học phục vụ cho nghề nuôi là rất cần thiết. 
Theo Avnimelech Y (2006); Ray A and Avnimelech Y. 
(2012) thì trong hệ thống nuôi trồng thủy sản thâm 
canh khi có bổ sung n...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh ương hậu ấu trùng tôm sú (penaeus monodon) từ potslarvae-2 trong hệ thống có và không có biofloc ở các mật độ khác nhau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
87
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(77)/2017
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm sú là đối tượng nuôi phổ biến ở Việt Nam, 
năm 2016 sản lượng đạt 251.700 tấn trên diện tích 
nuôi 571.000 ha (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2016). 
Theo sự phát triển của nghề nuôi tôm thương phẩm 
thì nhu cầu con giống liên tục tăng cao. Năm 2016 
cả nước có 1.861 cơ sở sản xuất giống tôm sú với 
sản lượng là 40 tỷ tôm giống (Cục thú y, 2016). Tuy 
nhiên, trong những năm qua, nghề nuôi tôm sú gặp 
rất nhiều trở ngại về dịch bệnh, giống chất lượng 
kém do trại sản xuất sử dụng thuốc kháng sinh quá 
nhiều trong suốt quá trình ương. Do đó tìm giải pháp 
cho nghề sản xuất giống tôm sú theo hướng an toàn 
sinh học thì việc ứng dụng công nghệ biofloc trong 
ương ấu trùng tôm sú để tạo ra con giống tốt, an 
toàn sinh học phục vụ cho nghề nuôi là rất cần thiết. 
Theo Avnimelech Y (2006); Ray A and Avnimelech Y. 
(2012) thì trong hệ thống nuôi trồng thủy sản thâm 
canh khi có bổ sung nguồn carbohydrate cho thấy 
nhiều lợi ích (i) cải thiện chất lượng nước, giảm áp lực 
của nghề nuôi đến môi trường, (ii) do vậy có thể tăng 
mật độ nuôi và cho năng suất cao (iii) ít bùng phát 
dịch bệnh do vi khuẩn có khả năng tạo chất kháng 
khuẩn poly-β-hydroxybutyrate (PHB), (iv) nhờ đó 
giúp tôm tiêu hóa tốt và lớn nhanh điều này giúp tiết 
kiệm thức ăn cũng như giảm chi phí thuốc hóa chất 
phòng trị bệnh. Do đó nghiên cứu được thực hiện 
nhằm tạo ra con giống tốt cung cấp cho nghề nuôi.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Nguồn nước thí nghiệm: Nước dùng trong thí 
nghiệm có độ mặn 30‰ được pha từ nước ót có độ 
mặn 100‰ với nước ngọt (nước máy thành phố). 
Nước sau khi pha được xử lý bằng chlorine 50 g/
m3và sục khí mạnh đến khi hết chlorine trong nước, 
dùng NaHCO3 nâng độ kiềm lên 120 mg CaCO3/lít 
(Châu Tài Tảo, 2015), sau đó lọc nước qua ống vi lọc 
1 µm trước khi bố trí thí nghiệm.
- Nguồn ấu trùng: Nguồn ấu trùng tôm sú được 
thu từ tôm mẹ cho đẻ tại trại thực nghiệm nước lợ 
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ và được 
ương trong bể 4 m3 đến giai đoạn Postlarvae-2 
rồi đem bố trí ở các mật độ khác nhau cho từng 
nghiệm thức.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Tạo biofloc: Biofloc được tạo bằng nguồn bột 
gạo có 73,4 % carbohydrate. Pha bột gạo vào nước, 
khuấy đều sau đó ủ 24 giờ rồi cho vào bể ương. 
Lượng bột gạo được bổ sung 3 ngày một lần được 
tính theo tỷ lệ C/N trong thức ăn, tùy vào lượng thức 
ăn sử dụng cho tôm ăn trong 3 ngày mà thêm lượng 
bột gạo để đạt được tỷ lệ C/N =12. Lượng bột gạo 
cần bổ sung vào bể để tạo biofloc được tính dựa theo 
công thức (Lục Minh Diệp, 2012).
- Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm hai nhân tố gồm 
6 nghiệm thức, ở các mật độ 100, 150, 200 con/lít 
ương trong hệ thống có và không có biofloc, mỗi 
nghiệm thức được lặp lại 3 lần, cách bố trí hoàn toàn 
ngẫu nhiên, bể ương có thể tích 120 lít, độ mặn 30‰, 
nguồn Postlarvae-2 được lấy từ 1 bể ương chung.
- Chăm sóc hậu ấu trùng: Giai đoạn tôm từ 
Postlarvae-2 đến Postlarvae-6 cho ăn thức ăn 
Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ
SO SÁNH ƯƠNG HẬU ẤU TRÙNG TÔM SÚ (Penaeus monodon) 
TỪ POTSLARVAE-2 TRONG HỆ THỐNG CÓ VÀ KHÔNG CÓ BIOFLOC 
Ở CÁC MẬT ĐỘ KHÁC NHAU
Châu Tài Tảo
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định tăng trưởng và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng tôm sú ở các mật độ khác nhau trong hệ 
thống có và không có biofloc. Nghiên cứu gồm 6 nghiệm thức với các mật độ ương 100, 150, 200 Postlarvae-2/lít 
trong hệ thống có và không có biofloc, bể ương có thể tích 120 lít, độ mặn 30‰, sử dụng bột gạo để tạo biofloc với 
tỷ lệ C/N=12. Kết quả nghiên cứu cho thấy chiều dài trung bình ở giai đoạn PL-15 của các nghiệm thức có biofloc 
(12,2 ± 0,4 mm) lớn hơn khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức không có biofloc (11,5 ± 0,5 
mm). Tỷ lệ sống và năng suất ở PL-15 lần lược là 67,6 ± 14,1 % và 96,1±10,4 con/L và khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05) so với các nghiệm thức không có biofloc. Vì vậy có thể kết luận hậu ấu trùng tôm sú từ PL-2 ương trong 
hệ thống có biofloc tăng trưởng và tỷ lệ sống tốt hơn các nghiệm thức không có biofloc, trong đó nghiệm thức 100 
con/L có biofloc là tốt nhất.
Từ khóa: Tôm sú, hậu ấu trùng, biofloc, mật độ
88
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(77)/2017
Frippak-150 từ 2-3 g/m3/lần, giai đoạn Postlarvae-7 
đến Postlarvae-15 cho ăn Lansy PL từ 3-4 g/m3/lần, 
Artemia mới nở từ 1-2 con/L (Châu Tài Tảo, 2013). 
Lượng thức ăn cho từng nghiệm thức khác nhau tùy 
theo mật độ ương, cho tôm ăn 8 lần mỗi ngày (cách 
3 giờ cho ăn 1 lần) trong đó 4 lần thức ăn nhân tạo 
và 4 lần thức ăn là Artemia.
- Các chỉ tiêu theo dõi: Các chỉ tiêu môi trường 
theo dõi gồm: nhiệt độ và pH được đo 2 lần/ngày 
vào lúc 8 giờ và 14 giờ bằng máy đo pH; TAN và 
NO2-, được đo 4 ngày một lần bằng test sera của 
Đức. Các chỉ tiêu theo dõi biofloc: Thể tích biofloc 
được xác định theo phương pháp đong thể tích bằng 
phễu lắng Imhoff, kích cỡ hạt biofloc được đo bằng 
kính hiển vi có trắc vi thị kính. Các chỉ tiêu theo dõi 
tôm: thu ngẫu nhiên 30 mẫu tôm đo chiều dài tổng 
ở giai đoạn PL-6, PL-10 và PL-15 bằng kính hiển vi 
có trắc vi thị kính. Tỷ lệ sống và năng suất được xác 
định khi tôm đạt giai đoạn PL-15 bằng phương pháp 
định lượng.
- Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu thập 
được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, 
phần trăm, so sánh khác biệt giữa các nghiệm thức 
áp dụng phương pháp ANOVA hai nhân tố bằng 
phép thử DUNCAN (p<0,05) sử dụng phần mềm 
Excel và SPSS phiên bản 22.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tháng 01/2017 tại 
Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường của các nghiệm thức 
Nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm rất ổn định, 
buổi sáng nhiệt độ từ 28,2 - 28,5 ºC và buổi chiều 
dao động từ 29,4 - 29,6 ºC (Bảng 1). Nhiệt độ tốt 
nhất cho tăng trưởng của tôm dao động trong 
khoảng 25 - 30 oC (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh 
Phương, 2009). Vậy nhiệt độ của các nghiệm thức 
nằm trong khoảng thích hợp cho hậu ấu trùng tôm 
sú phát triển tốt.
pH trung bình của các nghiệm thức dao động từ 
7,5 đến 8,0 vào buổi sáng và từ 7,9 đến 8,2 vào buổi 
chiều. Theo Boyd et al., (2002), Trần Ngọc Hải và 
Nguyễn Thanh Phương (2009) pH dao động từ 7,5 – 
8,5 nằm trong khoảng thích hợp cho ương tôm. Như 
vậy giá trị pH của thí nghiệm nằm trong giới hạn 
thích hợp cho hậu ấu trùng tôm.
Hàm lượng TAN ở các nghiệm thức trong thời 
gian thí nghiệm dao động từ 0,47 đến 1,53 mg/L. Các 
nghiệm thức có biofloc luôn thấp hơn các nghiệm 
thức không có biofloc. Theo Boyd (1998) thì hàm 
lượng TAN thích hợp cho tôm là nhỏ hơn 2 mg/L. 
Hàm lượng NO2- ở các nghiệm thức biến động từ 
0,39 mg/L đến 1,95 mg/L, thấp nhất ở nghiệm thức 
mật độ 100 con/L có biofloc, cao nhất ở nghiệm 
thức mật độ 250 con/L không có biofloc. Hàm lượng 
NO2- thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng tôm là 
<1mg/L (Phạm Văn Tình, 2004). Như vậy 3 nghiệm 
thức có biofloc đều nằm trong phạm vi cho phép 
để hậu ấu trùng tôm phát triển tốt, tuy nhiên ở các 
nghiệm thức không có biofloc hàm lượng NO2- vượt 
mức cho phép nhưng chưa thấy ảnh hưởng đến tôm.
Độ kiềm của các nghiệm thức dao động từ 107,4 
mg CaCO3/L đến 117,1 mg CaCO3/L. Theo Châu Tài 
Tảo (2015), độ kiềm thích hợp cho hậu ấu trung tôm 
sú phát triển là từ 100 – 120 mg CaCO3/L. Vậy trong 
thời gian thí nghiệm, độ kiềm có giảm hơn so với 
lúc bố trí thí nghiệm nhưng luôn nằm trong phạm 
vi cho phép.
3.2. Các chỉ tiêu theo dõi biofloc của các nghiệm thức 
Các chỉ tiêu biofloc được thu ở giai đoạn PL-15. 
Thể tích biofloc luôn tăng trong suốt thời gian thí 
Bảng 1. Các yếu tố môi trường của các nghiệm thức
Chỉ tiêu
100 con/L
Có biofloc Không có biofloc
150 con/L 200 con/L 100 con/L 150 con/L 200 con/L
Nhiệt độ
Sáng 28,2±0,3 28,5±0,1 28,4±0,9 28,5±0,5 28,3±0,3 28,3±0,5
Chiều 29,5±0,6 29,6±0,3 29,4±0,6 29,6±0,9 29,4±0,1 29,6±0,5
pH
Sáng 7,8±0,5 7,5± 0,2 7,9±0,3 7,7±0,3 7,9±0,1 8,0±0,3
Chiều 8,1±0,6 7,9±0,3 8,1±0,4 8,0±0,3 8,2±0,1 8,2±0,4
TAN (mg/L) 0,52±0,35 0,63±0,33 0,47±0,23 0,84±0,23 1,37±0,29 1,53±0,43
NO2- (mg/L) 0,39±0,31 0,43±0,23 0,53±0,22 0,98±0,32 1,36±0,43 1,95±0,34
Độ Kiềm 
(mg CaCO3/L)
111,6±5,7 109,9±4,2 107,4±4,7 115,1±5,1 117,1±2,5 114,4±2,3
89
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(77)/2017
nghiệm, thể tích biofloc ở mật độ 200 con/L cao nhất 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các 
nghiệm thức còn lại, và thấp nhất ở nghiệm thức 
mật độ 100 con/L. Qua đó cho thấy thể tích biofloc 
tăng dần theo mật độ do sự bổ sung bột gạo trong 
quá trình ương. Thể tích biofloc ở thí nghiệm này 
thấp hơn ở thí nghiệm của Châu Tài Tảo và ctv., 
(2016) ương ấu trùng tôm sú bắt đầu từ Mysis-3 do 
thời gian ương tôm ngắn hơn. Theo Châu Tài Tảo và 
Trần Ngọc Hải (2016), ương ấu trùng tôm sú theo 
công nghệ biofloc thì thể tích biofloc dao động từ 
3,7 - 7,5 mL/L thích hợp cho ấu trùng tôm sú phát 
triển tốt. Như vậy, thể tích biofloc ở các nghiệm thức 
nằm trong khoảng thích hợp cho ương tôm giống.
Chiều dài và chiều rộng hạt biofloc trung bình ở 
giai đoạn PL-15 của nghiệm thức mật độ 200 con/L 
cao nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so 
với các nghiệm thức còn lại. Nhìn chung, trong cùng 
một nghiệm thức, biến động kích thước hạt biofloc 
tương đối thấp.
Bảng 2. Các chỉ tiêu biofloc của các nghiệm thức có biofloc
Ghi chú: Các số liệu trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<005)
3.3. Chiều dài (mm) của hậu ấu trùng tôm sú của 
các nghiệm thức
Qua bảng 3 cho thấy chiều dài trung bình của PL-
6, PL-10 và PL-15 của các nghiệm thức có biofloc 
luôn cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05) so với các nghiệm thức không có biofloc. 
Các nghiệm thức mật độ càng cao thì tăng trưởng 
của tôm càng giảm và khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p<0,05). Theo Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải 
(2016) chiều dài của PL-15 ương theo công nghệ 
biofloc ở mật độ 200 con/L là 12,5 mm. Chiều dài 
của PL-15 của tôm biển ở lần đẻ thứ nhất là 12,4 
mm và nguồn tôm đầm là 11,8 mm (Châu Tài Tảo, 
2013). Qua đó cho thấy các nghiệm thức có biofloc 
tôm tăng trưởng tốt hơn các nghiên cứu trên.
Nghiệm thức Thể tích biofloc (mm)
Kích thước hạt biofloc (mm)
Dài Rộng
Mật độ 100 con/L có biofloc 2,25±0,25a 0,15±0,04a 0,10±0,04a
Mật độ 150 con/L có biofloc 3,43±0,32b 0,18±0,06a 0,15±0,06a
Mật độ 200 con/L có biofloc 4,38±0,19c 0,25±0,05b 0,29±0,07b
Chiều dài PL-6 Có biofloc Không biofloc TB Tổng
100 con/L 9,3±0,1 9,2±0,1 9,3±0,1C
150 con/L 9,2±0,1 9,1±0,1 9,1±0,1B
200 con/L 9,0±0,3 8,8±0,2 8,9±0,1A
TB tổng 9,2±0,2b 9,0±0,1a
Chiều dài PL-10 Có biofloc Không biofloc TB Tổng
100 con/L 11,0±0,1 10,8±0,1 10,9±0,1C
150 con/L 10,9±0,1 10,7±0,1 10,8±0,1B
200 con/L 10,4±0,1 10,0±0,1 10,2±0,1A
TB tổng 10,8±0,2b 10,5±0,1a
Chiều dài PL-15 Có biofloc Không biofloc TB Tổng
100 con/L 12,6±0,1 11,9±0,2 12,3±0,4C
150 con/L 12,4±0,1 11,6±0,1 12,0±0,4B
200 con/L 11,7±0,3 10,8±0,4 11,2±0,6A
TB tổng 12,2±0,4b 11,5±0,5a
 Bảng 3. Chiều dài (mm) của hậu ấu trùng tôm sú 
(Nhân tố mật độ không tương tác với nhân tố có biofloc và không có biofloc p>0,05)
Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng a,b hoặc một cột A, B khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
90
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(77)/2017
3.4. Tỷ lệ sống của PL-15 ở các nghiệm thức
Kết quả phân tích thống kê ở Bảng 4 cho thấy 
trong cùng 1 mật độ thì các nghiệm thức có biofloc 
luôn cao hơn so với các nghiệm thức không có 
biofloc. Trung bình tỷ lệ sống PL-15 của các nghiệm 
thức có biofloc (67,6±14,1%) cao hơn khác biệt có 
ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức 
không có biofloc (61,3±11,9%). Tỷ lệ sống trung 
bình ở mật độ 100 con/L cao nhất và giảm dần khi 
mật độ càng tăng và các nghiệm thức mật độ khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Vì khi mật độ 
ương càng tăng thì tôm ăn nhau làm giảm tỷ lệ sống. 
Theo Châu Tài Tảo và Trần Ngọc Hải (2016) ương 
ấu trùng tôm sú theo công nghệ biofloc ở các mật độ 
150, 200, 250 và 300 con/L bắt đầu bổ sung rỉ đường 
từ giai đoạn Mysis-1 thì tỷ lệ sống của PL-15 dao 
động từ 25,9-57,2%. Kết quả nghiên cứu này cao hơn 
do thí nghiệm bố trí bắt đầu từ PL-2.
Bảng 4. Tỷ lệ sống (%) của PL-15 
(Nhân tố mật độ không tương tác với nhân tố 
có biofloc và không có biofloc p>0,05)
Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng a,b hoặc một 
cột A, B khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
3.5. Năng suất PL-15 của các nghiệm thức
Năng suất PL-15 của các nghiệm thức có biofloc 
(96,1±10,4 con/L) cao hơn khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức không có 
biofloc (87,5±10,7 con/L). Năng suất trung bình của 
mật độ 200 con/L (100,1±5,9 con/L) lớn nhất khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với mật độ 100 
con/L (79,3±5,4 con/L) nhưng khác biệt không có 
ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với mật độ 150 con/L 
(96,0±8,2 con/L).
Bảng 5. Năng suất của PL-15 
(Nhân tố mật độ không tương tác với nhân tố 
có biofloc và không có biofloc, p>0,05)
Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng a,b hoặc một 
cột A, B khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
Ở các nghiệm thức có biofloc thì tăng trưởng về 
chiều dài (12,2±0,4 mm), tỷ lệ sống (67,6±14,1%)và 
năng suất (96,1±10,4 con/L) của PL-15 tôm sú luôn 
lớn hơn các nghiệm thức không có biofloc. Trong đó 
mật độ 100 con/L có biofloc là tốt nhất.
4.2. Kiến nghị
Có thể ứng dụng công nghệ biofloc để ương hậu 
ấu trùng tôm sú mật độ 100con/L bắt đầu từ PL-2 
vào thực tiển sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ nông nghiệp và PTNT, 2016. Báo cáo kết quả thực 
hiện kế hoạch 12 tháng năm 2016 ngành nông 
nghiệp và phát triển nông thôn.
Cục Thú y, 2016. Báo cáo chuyên đề công tác Thú y năm 
2016 và kế hoạch công tác Thú y năm 2017.
Lục Minh Diệp, 2012. Ứng dụng công nghệ biofloc, giải 
pháp kỹ thuật thay thế cho nghề nuôi tôm he thương 
phẩm hiện nay tại Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa 
học ứng dụng công nghệ mới trong nuôi trồng thủy 
sản, Trường Đại học Nha Trang.
Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009. Nguyên 
lý và kỹ thuật nuôi tôm sú (Penaeus monodon). Nhà 
xuất bản nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, 203 trang.
Châu Tài Tảo, 2013. So sánh đặc điểm sinh sản các 
nguồn tôm sú (Penaeus monodon Fabricius, 1798) 
bố mẹ và thực nghiệm nuôi tôm thành thục trong hệ 
thống bể tuần hoàn. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 
114 Trang.
Châu Tài Tảo, 2015. Ảnh hưởng của độ kiềm lên tăng 
trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng của ấu trùng và hậu 
ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon). Tạp chí Nông 
nghiệp và phát triển nông thôn, số 23 Trang 97- 102.
Châu Tài Tảo, Trần Ngọc Hải, 2016. Nghiên cứu ương 
ấu trùng tôm sú (penaeus monodon) theo công nghệ 
biofloc ở các mật độ khác nhau. Tạp chí khoa học 
công nghệ nông nghiệp Việt Nam, số 10/2016, trang 
59-63.
Châu Tài Tảo, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, 
2016. Ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) từ 
Mysis-3 ở các mật độ khác nhau trong hệ thống có 
và không có biofloc. Tạp chí khoa học công nghệ nông 
nghiệp Việt Nam, số 12/2016, trang 96-99.
Phạm Văn Tình, 2004. Kỹ thuật sản xuất giống tôm sú 
chất lượng cao. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 75 trang.
Avnimelech, Y, 2006. Bio filters: The need for an new 
comprehensive approach. Aquaculture Engineering 
34, 172-178.
Tỷ lệ sống Có biofloc Không biofloc TB tổng
100 con/L 83,0±4,1 75,6±3,9 79,3±5,4C
150 con/L 68,6±3,5 59,5±0,8 60,0±5,5B
200 con/L 51,2±1,4 48,9±3,9 50,1±2,9A
TB tổng 67,6±14,1b 61,3±11,9a
Năng suất Có biofloc Không biofloc TB tổng
100 con/L 83,0±4,1 75,6±3,9 79,3±5,4A
150 con/L 102,8±5,2 89,2±1,2 96,0±8,2B
200 con/L 102,3±2,8 97,9±7,9 100,1±5,9B
TB tổng 96,1±10,4b 87,5±10,7a
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 48_1807_2153739.pdf 48_1807_2153739.pdf