Tài liệu So sánh sự phát triển thể chất của trẻ sinh ra từ chương trình thụ tinh trong ống nghiệm với mang thai tự nhiên: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 31
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CỦA TRẺ SINH RA
TỪ CHƯƠNG TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
VỚI MANG THAI TỰ NHIÊN
Lê Thị Minh Châu*, Võ Minh Tuấn**,Nguyễn Tâm Hồng Thúy***, Ngô Minh Xuân****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cộng đồng gần đây rất cần biết thông tin sức khỏe của trẻ thụ tinh ống nghiệm (TTON). Mục
tiêu nghiên cứu nhằm so sánh cân nặng, chiều cao của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ mang thai tự
nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện so sánh 429 trẻ TTON (điều tại Bệnh viện Từ
Dũ) và 509 trẻ sinh tự nhiên. Đây là các trẻ đơn thai, đủ tháng bắt cặp nhau về độ tuổi. Kết quả chính là cân
nặng, chiều cao của trẻ.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm TTON và nhóm chứng về cân nặng (9,7±2,3 so với 9,5±1,9)
và chiều cao (74,8±7,7 so với 75,0±6,9). Tỉ lệ dư cân-béo phì ở...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh sự phát triển thể chất của trẻ sinh ra từ chương trình thụ tinh trong ống nghiệm với mang thai tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 31
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT CỦA TRẺ SINH RA
TỪ CHƯƠNG TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
VỚI MANG THAI TỰ NHIÊN
Lê Thị Minh Châu*, Võ Minh Tuấn**,Nguyễn Tâm Hồng Thúy***, Ngô Minh Xuân****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cộng đồng gần đây rất cần biết thông tin sức khỏe của trẻ thụ tinh ống nghiệm (TTON). Mục
tiêu nghiên cứu nhằm so sánh cân nặng, chiều cao của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ mang thai tự
nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện so sánh 429 trẻ TTON (điều tại Bệnh viện Từ
Dũ) và 509 trẻ sinh tự nhiên. Đây là các trẻ đơn thai, đủ tháng bắt cặp nhau về độ tuổi. Kết quả chính là cân
nặng, chiều cao của trẻ.
Kết quả: Không có sự khác biệt giữa hai nhóm TTON và nhóm chứng về cân nặng (9,7±2,3 so với 9,5±1,9)
và chiều cao (74,8±7,7 so với 75,0±6,9). Tỉ lệ dư cân-béo phì ở bé TTON cao hơn bé tự nhiên có ý nghĩa thống kê
(11% so với 7,1%, p= 0,037). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ dư cân-béo phì giữa
các nhóm tuổi của hai nhóm TTON và bé tự nhiên.
Kết luận: Nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về cân nặng, chiều cao g giữa trẻ sinh
ra bằng phương pháp TTON so với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng tuổi.
Từ khóa: sự tăng trưởng, thụ tinh ống nghiệm, cân nặng trẻ, chiều cao trẻ
ABSTRACT
COMPARE WEIGHT AND HEIGHT OF IN VITRO FERTILIZATION (IVF) -CONCEIVED CHILDREN
AND SPONTANEOUS CONCEIVED CHILDREN
Le Thi Minh Chau, Vo Minh Tuan, Nguyen Tam Hong Thuy, Ngo Minh Xuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement Vol. 23 - No 2- 2019: 31 - 36
Objective: to compare weight and height of in vitro fertilization (IVF) -conceived children and spontaneous
conceived children at at the stage of 5 to 30 months in Tu Du hospital from 2016 to 2018.
Methods: This is a prospective, controlled, cohort study. A total of 429 in vitro fertilization -conceived
children were ompared with 509 spontaneous conceived children. All children were full-term singletons. Control
group was selected to match study group for age. Primary end-points were height and weight.
Results: No significant differences were observed between the IVF children and controls regarding weight
(9.7±2.3 vs 9.5±1.9) and height (74.8±7.7 vs 75.0±6.9). The percentage of overweight and obese of IVF conceived
children were significantly higher than that of natural children (11% vs 7.1%, p= 0.037). However, no significant
difference was found in the percentage of overweight and obese between group of age in the study
Conclusion: the study was not found a significant difference between children conceived after IVF treatment
and naturally conceived children in terms of weight and height from 5 to 30 months.
Key word: growth, in vitro fertilization, weight of children, height of children
*Bệnh viện Từ Dũ **BM Sản, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
***Bệnh viện Tâm Thần Tp. Hồ Chí Minh ****Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: vominhtuan@ump.edu.vn.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 32
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thụ tinh trong ống nghiệm (TTON) là giải
pháp hữu hiệu cho các cặp vợ chồng hiếm muộn
và cho đến nay đã có hơn 4 triệu em bé ra đời
bằng phương pháp này(10). Tuy nhiên, TTON là
giải pháp can thiệp vào sự sống. Sau TTON có
nhiều vấn đề cần quan tâm như: bất thường di
truyền, sanh non, các vấn đề tiền sản, chậm phát
triển(12). Về sự phát triển thể chất sự tăng trưởng
của trẻ liên quan đến chiều cao, cân nặng, Miles
và cộng sự năm 2007 ghi nhận trong một đoàn
hệ gồm 69 trẻ TTON tuổi từ 4-10 tuổi có chiều
cao và nồng độ IGF-I, IGF-II cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với 71 trẻ sinh tự nhiên sau khi hiệu
chỉnh về tuổi và chiều cao của cha mẹ. Bài báo
cho rằng sự khác biệt này có thể do sự thay đổi
nhỏ trong những dạng methyl hóa DNA của các
dấu ấn gen trong quá trình TTON(9). Theo
Koivurova và cộng sự trong một nghiên cứu
đoàn hệ vào năm 2003 cho thấy 299 trẻ TTON có
cân nặng nhẹ hơn có ý nghĩa thống kê so với 588
trẻ sinh tự nhiên ở giai đoạn cho đến 3 tuổi(6).
Một số nghiên cứu khác không tìm thấy sự khác
biệt về chiều cao và cân nặng giữa hai nhóm trẻ
sanh sau điều trị hỗ trợ sinh sản (HTSS) và sinh
tự nhiên(3,13).
Tại Việt Nam, chương trình TTON bắt đầu
từ năm 1997, đến nay có hơn 23 trung tâm
TTON ra đời. Chúng ta đã thực hiện nhiều kỹ
thuật hiện đại, mang về tỉ lệ thành công cao,
tuy nhiên hiện vẫn chưa có nghiên cứu có
nhóm chứng đánh giá về sự phát triển thể chất
của trẻ TTON.
Để trả lời cho câu hỏi: “có sự khác biệt nào
không về sự phát triển thể chất của trẻ TTON so
với trẻ mang thai tự nhiên?” Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu so sánh sự phát triển cân nặng, chiều
cao của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON so
với trẻ mang thai tự nhiên tại Bệnh viện Từ Dũ
từ năm 2016 đến năm 2018.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh sự phát triển cân nặng, chiều cao của
trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ
mang thai tự nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh
viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
Dân số mục tiêu
Trẻ sinh ra từ phương pháp thụ tinh trong
ống nghiệm Việt Nam.
Dân số nghiên cứu
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh
trong ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ, TP. Hồ
Chí Minh.
Dân số chọn mẫu
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong
ống nghiệm 5-30 tháng tuổi được khám 2015-
2018 tại Bệnh viện Từ Dũ, không phân biệt giới
tính, ở TP. Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn nhận mẫu
Nằm trong độ tuổi 5-30 tháng,
Tuổi thai lúc sinh ≥ 37 tuần,
Đơn thai,
Không nhẹ cân,
Trẻ được mang thai bằng phương pháp
TTON tại Bệnh viện Từ Dũ, sanh từ 2015 tại
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm TTON),
Trẻ thụ thai tự nhiên (không dùng bất kỳ
biện pháp hỗ trợ sinh sản nào), sanh từ 2015
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm tự nhiên).
Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ
Bệnh lý trong thai kỳ,
Biến chứng trong khi sinh,
Mắc bệnh truyền nhiễm,
Bị chấn thương sau sinh.
Mẹ
Tiền căn bệnh lý nội ngoại khoa,
Mắc bệnh do thai kỳ,
Có rượu, thuốc lá, chất gây nghiện,
Sức khỏe tâm thần.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 33
Cỡ mẫu
Lấy mẫu toàn bộ cho nhóm TTON trong
khoảng thời gian nghiên cứu khoảng 400
trường hợp. Lấy mẫu ngẫu nhiên đơn cho
nhóm thụ thai thường với số lượng gần tương
ứng với nhóm TTON.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị danh sách các trẻ TTON cần khám
Lập danh sách tất cả các trường hợp TTON
thành công và đã sinh em bé từ năm 2015 từ sổ
ghi nhận và theo dõi thai tại đơn vị TTON Bệnh
viện Từ Dũ. Chia các bé thành 5 nhóm tuổi (dưới
8 tháng, 8-12 tháng, 12-18 tháng, 18-24 tháng, từ
24 tháng trở lên).
Thông báo và chọn đối tượng nghiên cứu
Nhóm TTON
Gọi điện theo danh sách đã lọc, tư vấn qua
điện thoại về chương trình khám và mời đến
khám. Nếu gia đình đồng ý sẽ được gửi thư mời
khám. Khám vào hai buổi sáng thứ hai và thứ
tư.
Nhóm tự nhiên
Tư vấn tại đơn vị phòng khám trẻ lành mạnh
Bệnh viện Từ Dũ mời khám bắt cặp theo nhóm
tuổi của nhóm TTON trong tuần khám. Khám 2
buổi sáng thứ 3 và thứ 5.
Phỏng vấn và khám thử
Tổ chức thu thập số liệu thử 30 trẻ (mỗi
nhóm TTON và tự nhiên là 15 trẻ).
Triển khai khám và thu thập số liệu: gồm 2
bước tư vấn-hỏi và khám
Tư vấn-hỏi
Thông tin giới thiệu nghiên cứu, hướng dẫn
cha mẹ đọc, giải đáp các thắc mắc và ký tên vào
phiếu đồng thuận tham gia nghiên cứu. Hỏi cha
mẹ về các kiện kinh tế-văn hóa-xã hội, sản khoa,
bệnh sử TTON theo bảng câu hỏi soạn sẵn.
Khám
Cân, đo trực tiếp cho từng trẻ một
Tổng hợp số liệu
Số liệu sẽ được nhập theo từng ngày khám
để xử lý kịp thời các trường hợp thông tin bị
thiếu, sai, đảm bảo có số liệu đủ và đúng.
Công cụ thu thập số liệu
Bảng câu hỏi soạn sẵn về thông tin sản khoa
và đặc điểm kinh tế-văn hóa-xã hội.
Dữ liệu cân, đo trực tiếp mỗi trẻ.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 8/2016 đến tháng
9/2018, theo danh sách thai TTON của khoa
hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi đã gửi
480 thư mời (400 thư mời chính thức và 80 thư
mời dự bị). Kết quả có 441 bé đến theo lịch hẹn,
12 bé không đạt tiêu chuẩn nhận. Tổng cộng
chúng tôi khám 429 bé nhóm TTON và 509 bé
nhóm tự nhiên.
Bảng 1. Đặc điểm của bố mẹ và bé trong mẫu nghiên cứu (N=938)
Đặc điểm TTON(n=429) Thường(n=509) Chung(n=938) P
Tuổi mẹ 0,001
≤ 25 10(2,3%) 52(10,2%) 62(6,6%)
26-30 90(21,0%) 228(44,8%) 318(33,9%)
31-35 193(45,0%) 153(30,1%) 346(36,9%)
36-40 110(25,6%) 59(11,6%) 169(18,0%)
>41 26(6,1%) 17(3,3%) 43(4,6%)
Học vấn mẹ 0,001
≤ Cấp 1 21(4,9%) 13(2,6%) 34(3,6%)
Cấp 2 95(22,1%) 54(10,6%) 149(15,9%)
Cấp 3 107(24,9%) 123(24,2%) 230(24,5%)
Cao đẳng – Đại học 206(48,0%) 319(62,7%) 525(56,0%)
Kinh tế gia đình 0,258
Khó khăn 63(1,7%) 59(11,6%) 122(13,0%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 34
Đặc điểm TTON(n=429) Thường(n=509) Chung(n=938) P
Đủ sống 232(54,1%) 272(53,4%) 504(53,7%)
Dư dã 134(31,2%) 178(35,0%) 312(33,3%)
Tuổi cha
≤ 25 8(1,9%) 45(8,8%) 53(5,7%) 0,001
26-30 89(20,7%) 216(42,4%) 305(32,5%)
31-35 191(44,5%) 165(32,4%) 356(38,0%)
36-40 112(26,1%) 60(11,8%) 172(18,3%)
≥ 41 29(6,8%) 23(4,5%) 52(5,5%)
Học vấn cha 0,002
≤ Cấp 1 14 (3,3%) 11 (2,2%) 25 (2,7%)
Cấp 2 75 (17,5%) 52 (10,2%) 127 (13,5%)
Cấp 3 109 (25,4%) 116 (22,8%) 225 (24%)
Cao đẳng – Đại học 231 (53,9%) 330 (64,8%) 561 (59,9%)
Tuổi bé (tháng) 0,139
<8 173(40,3%) 192(37,7%) 365(38,9%)
8-12 71(16,6%) 94(18,5%) 165(17,6%)
13-18 113(26,3%) 151(29,7%) 264(28,1%)
19-24 26(6,1%) 38(7,5%) 64(6,8%)
>24 46(10,7%) 34(6,7%) 80(8,5%)
Thứ tự bé
1 356(83,0%) 356(69,9%) 712(75,9%) 0,001
2 68(15,9%) 130(25,5%) 198(21,1%)
3 4(0,9%) 21(4,1%) 25(2,7%)
4 1(0,2%) 2(0,4%) 3(0,3%)
Tuổi mẹ và tuổi cha ở nhóm TTON đều lớn
tuổi hơn so với nhóm thai tự nhiên có ý nghĩa
thống kê, đặc biệt là ở mức trên 35 tuổi. Ngoài
ra, trong nhóm TTON, tỉ lệ đây là lần mang
thai đầu tiên khá cao (83%) so với nhóm sinh
thường (69,9%) và sự khác biệt về thứ tự bé
mang thai lần này có ý nghĩa thống kê. Các bà
mẹ mang thai do TTON có học vấn thấp hơn
có ý nghĩa thông kê so với nhóm bà mẹ thụ
thai thường, kết quả này tương tự cho bố.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống về
nhóm tuổi giữa hai nhóm TTON và thường
(Bảng 2).
Bảng 2. So sánh trung bình của các chỉ số tăng
trưởng của bé TTON và bé tự nhiên
Chỉ số phát triển TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
Khác
biệt
P*
Cân nặng (kg) 9,7±2,3 9,5±1,9 0,19 0,177
Chiều cao (cm) 74,8±7,7 75,0±6,9 -0,26 0,592
(*) Independent samples TTest phân phối chuẩn
Chúng tôi tìm thấy không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về cân nặng trung bình, chiều
cao trung bình giữa hai nhóm trẻ TTON và trẻ tự
nhiên. Kết quả này đồng thuận với nhiều nghiên
cứu thiết kế tốt trên thế giới khảo sát về sự tăng
trưởng của các bé TTON(1,2,5,7,14) (Bảng 3).
Bảng 2. So sánh tỉ lệ bé suy dinh dưỡng vừa-nặng và
dư cân-béophì giữa bé TTON và bé tự nhiên theo
phân loại cân nặng theo chiều cao (weight-for-length)
của WHO
Phân loại theo hệ thống
weight-for-length
TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
P*
Suy dinh dưỡng
vừa-nặng
Có 14 (3,3%) 22 (4,3%) 0,4
Không 415 (96,7%) 487(95,7%)
Dư cân-béo phì Có 47(11%) 36 (7,1%) 0,037
Không 382(89%) 473(92,93%)
(*) Kiểm định ᵡ2
Bảng 3. So sánh tỉ lệ dư cân-béophì theo nhóm tháng
tuổi giữa bé TTON và bé tự nhiên
Dư cân-béo
phì
TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
P*
8 tháng Có 12 (6,9%) 5 (2,6%) 0,05
Không 161 (93,1%) 187(97,4%)
8-12 tháng Có 7(9,9%) 6 (6,4%) 0,412
Không 64(90,1%) 88(93,6%)
12-18 tháng Có 11 (9,7%) 14 (9,3%) 0,899
Không 102 (90,3%) 137 (90,7)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 35
Dư cân-béo
phì
TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
P*
18-24 tháng Có 3 (11,5%) 6(15,8%) 0,728
Không 23 (88,5%) 32 (84,2%)
>24 tháng Có 14 (30,4%) 5 (14,7%) 0,102
Không 32(69,6%) 29(85,3%)
(*) Kiểm định ᵡ2 hay Fisher’s exact
Khi so sánh tỉ lệ dư cân-béo phì theo nhóm
tháng tuổi giữa hai nhóm, nhận thấy: chỉ có
nhóm <8 tháng có thể có nguy cơ béo phì ở
nhóm bé TTON cao hơn bé tự nhiên, còn lại ở tất
cả nhóm tuổi khác không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa bé TTON và bé tự nhiên
(p>0,05) (Bảng 4).
BÀN LUẬN
Với phân loại dinh dưỡng theo z-scores,
phân tích cân nặng theo chiều cao bé (weight-
for-length) theo tiêu chuẩn của WHO, chúng tôi
so sánh ở tỉ lệ bất thường về dinh dưỡng. Kết
quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về mức độ suy dinh dưỡng vừa-nặng
giữa hai nhóm trẻ. Tuy nhiên tỉ lệ dư cân-béo phì
ở bé TTON cao hơn bé tự nhiên có ý nghĩa thống
kê (p< 0,05). Nghiên cứu chúng tôi khác với kết
quả một số nghiên cứu. Ludwig năm 2009
(nghiên cứu mô tả bên trên) đã tìm thấy trẻ ICSI
có chỉ số BMI thấp hơn trẻ tự nhiên có ý nghĩa
thống, tuy nhiên sự khác biệt này khá nhỏ và
không có liên quan đến phương diện lâm
sàng(7). Nghiên cứu tiến cứu của Belva khảo sát
tình trạng sức khỏe 150 trẻ 8 tuổi đơn thai ICSI
(sanh từ tuần 32 trở lên) so với 147 trẻ tự nhiên,
ông không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về chỉ số BMI giữa hai nhóm(1). Gần
đây hơn năm 2017, Meddeb và cộng sự đã công
bố kết quả một nghiên cứu dọc theo dõi sự tăng
trưởng của 118 trẻ TTON (IVF và ICSI) sinh đơn
thai từ lúc mới sinh đến 5 tuổi tại Pháp so với
320 trẻ tự nhiên, trong đó BMI là kết quả đo đạc
chính. Kết quả tìm thấy không có sự khác biệt về
trung bình BMI giữa các nhóm bất chấp thời
điểm, kể cả khi kiểm soát các yếu tố gây nhiễu
liên quan đến cha mẹ, thai kỳ, đặc điểm của trẻ
và lối sống(8). Như vậy, đa số nghiên cứu có ghi
nhận chỉ số tăng trưởng đều không có sự khác
biệt có ý nghĩa hoặc khác biệt không liên quan
đến phân loại lâm sàng trong khi bé TTON của
chúng tôi lại có tỉ lệ béo phì cao hơn. Nghiên cứu
của Foix-L’Hélias có kết quả tương tự với chúng
tôi khi theo dõi sự phát triển về tăng trưởng của
các bé trưởng thành trứng non trong ống
nghiệm (IVM) từ lúc mới sinh đến 2 tuổi, BMI ở
nhóm TTON cao hơn nhóm chứng (TTON
không IVM) có ý nghĩa thống kê(4). Tuy nhiên,
nghiên cứu này chỉ có 38 trẻ mỗi nhóm, chỉ
chuyên biệt so sánh cho trẻ TTON bằng kỹ thuật
IVM, nhóm chứng là nhóm TTON không IVM
và sự khác biệt BMI này là ổn định từ lúc 1 tuổi
đến 2 tuổi. Khác với Foix-L’Hélias, nghiên cứu
của chúng tôi là sự đa dạng về kỹ thuật, chỉ có 3
trường hợp thực hiện IVM (chiếm 0,7%) mặc dù
có tỉ lệ bé béo phì nhiều hơn nhưng khi phân
nhóm theo tháng tuổi, chỉ có nhóm <8 tháng có
thể có nguy cơ béo phì ở nhóm bé TTON cao
hơn bé tự nhiên, còn lại ở tất cả nhóm tuổi khác
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
bé TTON và bé tự nhiên (p>0,05), vì vậy khả
năng bé béo phì là do sự thay đổi kiểu hình
thông qua sự methyl hóa gen do thực hiện
TTON còn chưa rõ ràng, cần có sự theo dõi thêm
về sau. Một hạn chế trong nghiên cứu của chúng
tôi là chiều cao, cân nặng, BMI của cha mẹ chưa
được kiểm soát như là các yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả tăng trưởng của con. Hơn nữa 83% bé
TTON là con thứ nhất, cha mẹ ở nhóm này lớn
tuổi hơn cha mẹ nhóm bé tự nhiên có ý nghĩa
thống kế (p<0,05) nên trong gia đình có thể sẽ có
“môi trường con quý”(11), cha mẹ có thể sẽ có sự
quan tâm, chăm sóc trẻ ở mức độ cao. Mặt khác
trình độ học vấn của cha, mẹ bé TTON thấp hơn
ở nhóm thường có ý nghĩa thống kê. Điều này có
thể ảnh hưởng đến cách chăm sóc, hướng dẫn
chế độ ăn uống cho con có thể ảnh hưởng đến
chế độ dinh dưỡng của bé. Vì vậy, sự khác biệt
về phân độ dinh dưỡng của bé TTON, chúng tôi
suy nghĩ nghiêng về phương diện chăm sóc
trong chế độ dinh tưỡng của bé hơn là tình trạng
bệnh lý. Tuy nhiên, sự khác biệt được tìm thấy
về phân loại dinh dưỡng trong nghiên cứu của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 36
chúng tôi nên được tiếp tục theo dõi, khảo sát
chi tiết ở những nghiên cứu tiếp theo ở độ tuổi
trẻ lớn hơn.
KẾT LUẬN
Khảo sát 938 trường hợp, tất cả trẻ được cân,
đo trực tiếp. Không có trường hợp nào từ chối
tham gia nghiên cứu sau khi được tư vấn mời
tham gia nghiên cứu. Kết quả chúng tôi tìm thấy:
Không có sự khác biệt về chiều cao, cân nặng
giữa trẻ sinh ra bằng phương pháp TTTON so
với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng
tuổi. Phổ biến rộng rãi kết quả nghiên cứu đến
các trung tâm TTON trên cả nước. Đây là kết
quả hữu ích có thể sử dụng để thông tin, tư vấn
cho bệnh nhân trong điều trị hỗ trợ sinh sản.
Tiếp tục khảo sát sức khỏe thể chất bé ở các khía
cạnh khác ngoài cân nặng, chiều cao như các
bệnh lý tổng quát (tim mạch, thần kinh) hay cân
nặng, chiều cao độ tuổi lớn hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Belva F, Henriet S, Liebaers I et al (2007). "Medical outcome of 8-
year-old singleton ICSI children (born ≥32 weeks’ gestation) and
a spontaneously conceived comparison group". Human
Reproduction, 22 (2), 506-515.
2. Bonduelle M, Wennerholm UB, Loft A et al (2005). "A multi-
centre cohort study of the physical health of 5-year-old children
conceived after intracytoplasmic sperm injection, in vitro
fertilization and natural conception". Human Reproduction, 20 (2),
413-419.
3. Brandes JM, Itzkovits J, Scher A et al (1992). "Growth and
Development of Children Conceived by In Vitro Fertilization".
Pediatrics, 90 (3), 424-429.
4. Foix-L'Hélias L, Grynberg M, Ducot B et al (2014). "Growth
development of French children born after in vitro maturation".
PloS one, 9(2), e89713-e89713.
5. Knoester M, Helmerhorst FM, Vandenbroucke Jan P et al (2008).
"Perinatal outcome, health, growth, and medical care utilization
of 5- to 8-year-old intracytoplasmic sperm injection singletons".
Fertility and sterility, 89(5), 1133-1146.
6. Koivurova S, Hartikainen AL, Sovio U et al (2003). "Growth,
psychomotor development and morbidity up to 3 years of age
in children born after IVF". Human Reproduction, 18 (11), 2328-
2336.
7. Ludwig AK, Katalinic A, Thyen U et al (2009). "Physical health
at 5.5 years of age of term-born singletons after intracytoplasmic
sperm injection: results of a prospective, controlled, single-
blinded study". Fertility and Sterility, 9(1), 115-124.
8. Meddeb L, Pauly V, Boyer P et al (2017). "Longitudinal growth
of French singleton children born after in vitro fertilization and
intracytoplasmic sperm injection. Body mass index up to 5 years
of age". Revue d'Épidémiologie et de Santé Publique, 65 (3), 197-208.
9. Miles HL, Hofman PL, Peek J et al (2007). "In Vitro Fertilization
Improves Childhood Growth and Metabolism". The Journal of
Clinical Endocrinology & Metabolism, 92(9), 3441-3445.
10. Nobel Prize (2010). The Nobel Prize in Physiology or Medicine
2010 to Robert G. Edwards for the development of in vitro
fertilization. The Nobelprize.
https://www.nobelprize.org/nobel_prizes/medicine/laureates/20
10/press.html, 25/3/2017.
11. Punamäki RL, Tiitinen A, Lindblom J et al (2016). "Mental health
and developmental outcomes for children born after ART: a
comparative prospective study on child gender and treatment
type". Human Reproduction, 31 (1), 100-107.
12. Squires J, Kaplan P (2007). "Developmental Outcomes of
Children Born After Assisted Reproductive Technologies".
Infants & Young Children, 20 (1), 2-10.
13. Wennerholm U, Albertsson-Wikland K, Bergh C et al (1998).
"Postnatal growth and health in children born after
cryopreservation as embryos". The Lancet, 351 (9109), 1085-1090.
14. Woldringh GH, Hendriks JCM, van Klingeren J et al (2011).
"Weight of in vitro fertilization and intracytoplasmic sperm
injection singletons in early childhood". Fertility and sterility, 95
(8), 2775-2777.
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_su_phat_trien_the_chat_cua_tre_sinh_ra_tu_chuong_tri.pdf