Tài liệu So sánh sự phát triển tâm thần vận động của trẻ sinh ra từ chương trình thụ tinh trong ống nghiệm với mang thai tự nhiên: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 23
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN TÂM THẦN VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ SINH RA
TỪ CHƯƠNG TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
VỚI MANG THAI TỰ NHIÊN
Lê Thị Minh Châu*, Võ Minh Tuấn**, Nguyễn Tâm Hồng Thúy***, Ngô Minh Xuân****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cộng đồng gần đây rất cần biết thông tin sức khỏe của bé thụ tinh trong ống nghiệm (TTON).
Mục tiêu nghiên cứu nhằm so sánh sự phát triển tâm thần-vận động trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với
trẻ mang thai tự nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện so sánh 429 trẻ TTON (điều tại Bệnh viện Từ
Dũ) và 509 trẻ sinh tự nhiên. Đây là các trẻ đơn thai, đủ tháng bắt cặp nhau về độ tuổi. Thang đo Brunet-Lezíne
Revised và được sử dụng bởi chuyên gia để khảo sát sức khỏe tâm thần-vận động trẻ.
Kết quả: Không có sự khác biệt về trung bình về chỉ số QD (Quotientde Development) ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu So sánh sự phát triển tâm thần vận động của trẻ sinh ra từ chương trình thụ tinh trong ống nghiệm với mang thai tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 23
SO SÁNH SỰ PHÁT TRIỂN TÂM THẦN VẬN ĐỘNG CỦA TRẺ SINH RA
TỪ CHƯƠNG TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
VỚI MANG THAI TỰ NHIÊN
Lê Thị Minh Châu*, Võ Minh Tuấn**, Nguyễn Tâm Hồng Thúy***, Ngô Minh Xuân****
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Cộng đồng gần đây rất cần biết thông tin sức khỏe của bé thụ tinh trong ống nghiệm (TTON).
Mục tiêu nghiên cứu nhằm so sánh sự phát triển tâm thần-vận động trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON với
trẻ mang thai tự nhiên từ 5- 30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu được thực hiện so sánh 429 trẻ TTON (điều tại Bệnh viện Từ
Dũ) và 509 trẻ sinh tự nhiên. Đây là các trẻ đơn thai, đủ tháng bắt cặp nhau về độ tuổi. Thang đo Brunet-Lezíne
Revised và được sử dụng bởi chuyên gia để khảo sát sức khỏe tâm thần-vận động trẻ.
Kết quả: Không có sự khác biệt về trung bình về chỉ số QD (Quotientde Development) toàn thể giữa hai
nhóm TTON và nhóm chứng (103,18±7,7 so với 102,80±6,9) hay bất kỳ phân tích dưới nhóm về từng lĩnh vực
phát triển của thang đo Brunet-Lézine. Tại điểm cắt 85, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chỉ số phát triển
ngôn ngữ: nhóm TTON có tỉ lệ bé với chỉ số ngôn ngữ thấp (6,3%) nhiều hơn nhóm mang thai tự nhiên (2,8%)
(p=0,01). Tuy nhiên sự khác biệt này chỉ xảy ra ở giai đoạn 12-18 tháng tuổi (p=0,03), sau đó hồi phục ở các giai
đoạn tuổi lớn hơn về sau.
Kết luận: Nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tâm thần-vận động giữa trẻ sinh
ra bằng phương pháp TTTON so với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng tuổi.
Từ khóa: sức khỏe của trẻ, thụ tinh ống nghiệm, tâm thần vận động
ABSTRACT
COMPARE THE PSYCHOMOTOR DEVELOPMENT OF IN VITRO FERTILIZATION -CONCEIVED
(IVF) CHILDREN AND SPONTANEOUS CONCEIVED CHILDREN.
Le Thi Minh Chau, Vo Minh Tuan, Nguyen Tam Hong Thuy, Ngo Minh Xuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 23 - 30
Objective: To compare the psychomotor development of in vitro fertilization -conceived (IVF) children and
spontaneous conceived children at at the stage of 5 to 30 months in Tu Du hospital from 2016 to 2018.
Methods: This is a prospective, controlled, cohort study. A total of 429 in vitro fertilization -conceived
children were compared with 509 spontaneous conceived children. All children were full-term singletons. Control
group was selected to match study group for age. Assessments using the Revised Brunet-Lézine scale by a
professional group.
Results: No difference between the IVF children and controls was found in mean psychomotor development
sores (103.18±7.7 versus 102.80±6.9) or any subscales on Brunet-Lézine scales. At 85 cut-off point, the
percentage of IVF children with low QD language were significantly higher than that of natural children (6.3%
versus 2.8%, p= 0.01). However, this recovered at the later stage of older months.
Conclusion: The study was not found a significant difference between children conceived after IVF
*Bệnh viện Từ Dũ **BM Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Bệnh viện Tâm Thần Tp.Hồ Chí Minh ****Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: vominhtuan@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 24
treatment and naturally conceived children in terms of psychomotor development from 5 to 30 months.
Key word: health of children, in vitro fertilization, psychomotor
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thụ tinh trong ống nghiệm (TTON) là giải
pháp hữu hiệu cho các cặp vợ chồng hiếm muộn
và cho đến nay đã có hơn 4 triệu em bé ra đời
bằng phương pháp này(7). Tuy nhiên, TTON là
giải pháp can thiệp vào sự sống. Sau TTON có
nhiều vấn đề cần quan tâm như: bất thường di
truyền, sanh non, các vấn đề tiền sản, chậm phát
triển,(12). Về sự phát triển tâm thần vận động,
năm 1998, kết quả một nghiên cứu được công
bố, trong đó chỉ số phát triển tâm thần ở nhóm
trẻ tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI)
thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm mang
thai thụ thai tự nhiên (ICSI 95,9 [SD 10,7], tự
nhiên 102,5 [SD 7,5], p<0,0001), 17% bé điều trị
bằng ICSI chậm phát triển tâm thần nặng hoặc
nhẹ so với tỉ lệ này là 2% bé điều trị bằng TTON
cổ điển (IVF) và 1% bé thụ thai tự nhiên và sự
khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (p<0,0001)(2).
Knoester và cộng sự cũng báo cáo kết quả xấu
tương tự(6). Ngược lại, Place và cộng sự báo cáo
kết quả tâm vận động và phát triển trí tuệ của bé
thụ thai bằng phương pháp ICSI tương tự với bé
IVF và bé mang thai tự nhiên(9).
Tại Việt Nam, chương trình TTON bắt đầu
từ năm 1997, đến nay có hơn 23 trung tâm
TTON ra đời. Về việc theo dõi sức khỏe các bé ra
đời từ TTON, năm 2005, Bệnh viện Từ Dũ đã
thực hiện một khảo sát với 221 bé từ 12 tháng
tuổi đến 6 tuổi. Đây là một khảo sát không tính
cỡ mẫu, không nhóm chứng. Kết quả cho thấy tỷ
lệ chậm phát triển tâm lý và vận động ở trẻ sinh
1 và sinh 2 ở mức bình thường, có vẻ cao hơn ở
trẻ sinh 3, sinh 4. Kết quả này chưa có sự so sánh
với trẻ em cùng lứa tuổi Việt Nam do sự chênh
lệch độ tuổi của các bé trong nghiên cứu.
Hơn 20 năm đã trôi qua, hiện nay chúng ta
đã có thể làm được hầu hết tất cả các kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới trong lãnh vực Hỗ trợ sinh
sản. Tuy tỉ lệ thành công ngày càng gia tăng,
nhưng một câu hỏi vẫn thường được bệnh nhân
đặt ra trên thực tế là “có sự khác biệt nào không
giữa thai tự nhiên và thai TTON? Hay em bé
TTON có phát triển bình thường không?”. Thực
hiện một nghiên cứu với cỡ mẫu lớn, thiết kế
chặt chẽ để có thể trả lời câu hỏi này trong một
nền HTSS hiện đại tại Việt Nam là rất cần thiết.
Trẻ có nhiều thời điểm để nghiên cứu
nhưng ba năm đầu đời là khoảng thời gian rất
quan trọng vì não phát triển rất nhanh, mang
đến khả năng học tập sớm của trẻ, nếu trẻ
được chăm sóc hỗ trợ tốt sẽ có phát triển nhận
thức tốt khi trở thành người lớn. Bên cạnh đó,
với sự phát triển y học hiện đại, phát hiện và
can thiệp sớm có thể sữa chữa hoặc cải thiện
khả năng phát triển của trẻ(1,5).
Để trả lời cho câu hỏi: “có sự khác biệt nào
không về sự phát triển tâm thần vận động của
trẻ TTON so với trẻ mang thai tự nhiên giai đoạn
5- 30 tháng tuổi?”. Chúng tôi tiến hành nghiên
cứu so sánh sự phát triển tâm thần, vận động
của trẻ sinh ra bằng phương pháp TTON so với
trẻ mang thai tự nhiên tại Bệnh viện Từ Dũ từ
năm 2016 đến năm 2018.
Mục tiêu nghiên cứu
So sánh sự phát triển tâm thần-vận động trẻ
sinh ra bằng phương pháp TTON với trẻ mang
thai tự nhiên từ 5-30 tháng tuổi tại Bệnh viện Từ
Dũ từ năm 2016 đến năm 2018.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu.
Dân số mục tiêu
Trẻ sinh ra từ phương pháp thụ tinh trong
ống nghiệm Việt Nam.
Dân số nghiên cứu
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh
trong ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ, TP. Hồ
Chí Minh.
Dân số chọn mẫu
Trẻ sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 25
ống nghiệm 5-30 tháng tuổi được khám 2015-
2018 tại Bệnh viện Từ Dũ, không phân biệt giới
tính, ở TP. Hồ Chí Minh.
Tiêu chuẩn nhận mẫu
Nằm trong độ tuổi 5-30 tháng,
Tuổi thai lúc sinh ≥ 37 tuần,
Đơn thai,
Không nhẹ cân,
Trẻ được mang thai bằng phương pháp
TTON tại Bệnh viện Từ Dũ, sanh từ 2015 tại
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm TTON),
Trẻ thụ thai tự nhiên (không dùng bất kỳ
biện pháp hỗ trợ sinh sản nào), sanh từ 2015
Bệnh viện Từ Dũ (nếu là nhóm tự nhiên).
Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ
Bệnh lý trong thai kỳ,
Biến chứng trong khi sinh,
Mắc bệnh truyền nhiễm,
Bị chấn thương sau sinh.
Mẹ
Tiền căn bệnh lý nội ngoại khoa,
Mắc bệnh do thai kỳ,
Có rượu, thuốc lá, chất gây nghiện,
Sức khỏe tâm thần.
Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
2
12
2
2/11
2
2
2
1
)(
))((
zz
n
Kết cục chính là điểm Quotion de Development, theo
bảng phân loại sự phát triển tâm thần vận động trên là
biến số liên tục từ 1 đến 10. Cỡ mẫu tối thiểu đủ năng
lực mẫu xác định được khác biệt trung bình nhỏ nhất
giữa 2 nhóm = 1 đơn vị với độ lệch chuẩn sd=(Max-
Min)/4 = 2,5; xác suất sai lầm loại I: α = 0,05; lực của
nghiên cứu 1-β = 0,90. Ta có n = 400 cho mỗi nhóm. Vậy
với hai nhóm, cỡ mẫu chúng tôi có là 800.
Phương pháp tiến hành
Chuẩn bị danh sách các trẻ TTON cần khám
Lập danh sách tất cả các trường hợp TTON
thành công và đã sinh em bé từ năm 2015 từ sổ
ghi nhận và theo dõi thai tại đơn vị TTON Bệnh
viện Từ Dũ. Chia các bé thành 5 nhóm tuổi (dưới
8 tháng, 8-12 tháng, 12-18 tháng, 18-24 tháng, từ
24 tháng trở lên).
Thông báo và chọn đối tượng nghiên cứu
Nhóm TTON
Gọi điện theo danh sách đã lọc, tư vấn qua
điện thoại về chương trình khám và mời đến
khám. Nếu gia đình đồng ý sẽ được gửi thư mời
khám. Khám vào hai buổi sáng thứ hai và thứ
tư.
Nhóm tự nhiên
Tư vấn tại đơn vị phòng khám trẻ lành mạnh
Bệnh viện Từ Dũ mời khám bắt cặp theo nhóm
tuổi của nhóm TTON trong tuần khám. Khám 2
buổi sáng thứ 3 và thứ 5.
Phỏng vấn và khám thử
Tổ chức thu thập số liệu thử 30 trẻ (mỗi
nhóm TTON và tự nhiên là 15 trẻ).
Kiểm định độ tin cậy của test revised Brunet-
Lezine
Bằng hệ số Cronbach’s và hệ số tin cậy test-
retest (>0,90 đạt yêu cầu), gồm 30 trẻ hoàn tất bộ
trắc nghiệm Brunet-Lézine lần thứ nhất và thực
hiện lại lần thứ hai (cách 3 tháng).
Triển khai khám và thu thập số liệu: gồm 2
bước tư vấn-hỏi và khám
Tư vấn-hỏi
Thông tin giới thiệu nghiên cứu, hướng dẫn
cha mẹ đọc, giải đáp các thắc mắc và ký tên vào
phiếu đồng thuận tham gia nghiên cứu. Hỏi cha
mẹ về các kiện kinh tế-văn hóa-xã hội, sản khoa,
bệnh sử TTON theo bảng câu hỏi soạn sẵn.
Khám
Khám trực tiếp bằng bộ trắc nghiệm Brunet-Lézine.
Tổng hợp số liệu
Số liệu sẽ được nhập theo từng ngày khám
để xử lý kịp thời các trường hợp thông tin bị
thiếu, sai, đảm bảo có số liệu đủ và đúng.
Công cụ thu thập số liệu
Bộ công cụ trắc nghiệm Brunet-Lézine
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 26
Revised.
Bảng câu hỏi soạn sẵn về thông tin sản khoa
và đặc điểm kinh tế-văn hóa-xã hội.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 8/2016 đến tháng
9/2018, theo danh sách thai TTON của khoa
hiếm muộn Bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi đã gửi
480 thư mời (400 thư mời chính thức và 80 thư
mời dự bị). Kết quả có 441 bé đến theo lịch hẹn,
12 bé không đạt tiêu chuẩn nhận. Tổng cộng
chúng tôi khám 429 bé nhóm TTON và 509 bé
nhóm tự nhiên.
Bảng 1. Đặc điểm của bố mẹ các bé trong mẫu nghiên cứu (N=938)
Đặc điểm TTON(n=429) Thường(n=509) Chung(n=938) P
Tuổi mẹ 0,001
≤ 25 10(2,3%) 52(10,2%) 62(6,6%)
26-30 90(21,0%) 228(44,8%) 318(33,9%)
31-35 193(45,0%) 153(30,1%) 346(36,9%)
36-40 110(25,6%) 59(11,6%) 169(18,0%)
>41 26(6,1%) 17(3,3%) 43(4,6%)
Nghề mẹ 0,001
Công nhân viên 164(38,2%) 247(48,5%) 411(43,8%)
Nội trợ 144(33,6%) 161(31,6%) 305(32,5%)
Công nhân 55(12,8%) 21(4,1%) 76(8,1%)
Buôn bán – Dịch vụ 66(15,4%) 80(15,7%) 146(15,6%)
Kinh tế gia đình 0,258
Khó khăn 63(14,7%) 59(11,6%) 122(13,0%)
Đủ sống 232(54,1%) 272(53,4%) 504(53,7%)
Dư dã 134(31,2%) 178(35,0%) 312(33,3%)
Tuổi cha
≤ 25 8(1,9%) 45(8,8%) 53(5,7%) 0,001
26-30 89(20,7%) 216(42,4%) 305(32,5%)
31-35 191(44,5%) 165(32,4%) 356(38,0%)
36-40 112(26,1%) 60(11,8%) 172(18,3%)
≥ 41 29(6,8%) 23(4,5%) 52(5,5%)
Nghề cha 0,001
Công Nhân Viên 214(49,9%) 299(58,7%) 513(54,7%)
Công nhân – Lao Động 85(19,8%) 58(11,4%) 143(15,2%)
Buôn bán – Dịch vụ 130(30,3%) 152(29,9%) 282(30,1%)
Bố uống rượu 0,001
Có 306(71,3%) 289(56,8%) 595(63,4%)
Không 123(28,7%) 220(43,2%) 343(36,6%)
Tuổi bé (tháng) 0,139
<8 173(40,3%) 192(37,7%) 365(38,9%)
8-12 71(16,6%) 94(18,5%) 165(17,6%)
13-18 113(26,3%) 151(29,7%) 264(28,1%)
19-24 26(6,1%) 38(7,5%) 64(6,8%)
>24 46(10,7%) 34(6,7%) 80(8,5%)
Tuổi mẹ và tuổi cha ở nhóm TTON đều lớn
tuổi hơn so với nhóm thai tự nhiên có ý nghĩa
thống kê, đặc biệt là ở mức trên 35 tuổi. Các bà
mẹ mang thai thường là cán bộ công nhân viên
nhà nước chiếm tỉ lệ 48,5% trong khi nhóm
TTON chỉ là 38,2%. Ngược lại nghề nghiệp lao
động nặng ở nhóm TTON lại cao hơn (12,8% vs
4,1%). Sự khác biệt về nghề nghiệp của bố giữa 2
nhóm TTON và thường cũng có ý nghĩa thống
kế và chiều hướng tương tự với khác biệt của bà
mẹ. Đặc biệt tỉ lệ bố uống rượu nhiều trong
nhóm TTON cao hơn hẳn nhóm thường (71,3%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 27
vs 56,8%), p<0,05. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống về nhóm tuổi giữa hai nhóm TTON
và thường.
Bảng 2. So sánh trung bình của các chỉ số phát triển về tâm thần vận động của bé
Brunet-Lézine Revised TTON (n=429) Thường (n=509) Khác biệt P*
Tư thế vận động: (40 đề mục) 106,51±9,9 105,03±9,6 1,48 0,02
Phối hợp: (54 đề mục) 100,37±9,7 101,08±9,1 -0,71 0,78
Ngôn ngữ: (30 đề mục) 103,21±10,5 101,96±9,2 1,25 0,052
Thích ứng xã hội: (26 đề mục) 102,70±11,7 102,81 ±10,5 -0,11 0,88
Chung 103,18±7,7 102,80±6,9 0,38 0,43
(*) Independent samples TTest, phân phối chuẩn
Khi so sánh chỉ số QD toàn thể hay từng
lĩnh vực phát triển (Phối hợp vận động, ngôn
ngữ, thích ứng xã hội) chúng tôi không tìm
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
các trung bình của hai nhóm đoàn hệ. Kết quả
này tương tự với nhiều nghiên cứu(9,10,13).
Ngoài ra, Chỉ số về Tư thế vận động của bé
TTON tốt hơn của bé thường, với khác biệt là
1,48 điểm có ý nghĩa thống kê với P<0,05.
Bảng 3. So sánh mức độ khác biệt về phát triển tâm
thần vận động của bé TTON
Brunet-Lézine
Revised
TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
P*
Tư thế vận động: (40
đề mục)
0,644
Thấp 10(2,3%) 9(1,8%)
Bình thường 419(97,7%) 500(98,2%)
Phối hợp: (54 đề mục) 0,163
Thấp 25(5,8%) 19(3,7%)
Bình thường 404(94,2%) 490(96,3%)
Ngôn ngữ: (30 đề mục) 0,01
Thấp 27(6,3%) 14(2,8%)
Bình thường 402(93,7%) 495(97,2%)
Thích ứng xã hội: (26
đề mục)
0,187
Brunet-Lézine
Revised
TTON
(n=429)
Thường
(n=509)
P*
Thấp 27(6,3%) 22(4,3%)
Bình thường 402(93,7%) 487(95,7%)
Chung 0,709
Thấp 4(0,9%) 3(0,6%)
Bình thường 425(99,1%) 506(99,4%)
(*) Kiểm định ᵡ2
Theo thang đo Brunet-Lézine Revised, sự thể
hiện sức khỏe tâm thần vận động của trẻ trên các
lĩnh vực vận động thô, vận động tinh, ngôn ngữ,
tiếp xúc xã hội và trên mặt tổng thể xác định chỉ
số phát triển QD ở từng lĩnh vực và QD chung.
QD có điểm số trung bình là 100. Điểm cắt QD
từ 85 trở lên được đánh giá là bình thường và
<85 được đánh giá là chậm phát triển(4,9 ). Tại
điểm cắt 85, khi so sánh giữa hai nhóm đoàn hệ
chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt giữa
các chỉ số phát triển tâm thần vận động đơn lẻ
như: tư thế vận động, tư thế phối hợp, thích ứng
xã hội; tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về chỉ số phát triển ngôn ngữ: nhóm
TTON có tỉ lệ bé với chỉ số ngôn ngữ thấp nhều
hơn nhóm mang thai tự nhiên.
Bảng 4. So sánh mức độ khác biệt về phát triển tâm thần vận động của bé TTON theo nhóm tuổi về ngôn ngữ
Nhóm tháng tuổi Brunet-Lézine Revised-Ngôn ngữ TTON (n=429) Thường (n=509) P*
< 8 tháng 0,671
Thấp 3 (1,7%) 2 (1%)
Bình thường 170 (98,3%) 190 (99%)
8-12 tháng 0,166
Thấp 4 (5,6%) 1 (1,1%)
Bình thường 67 (94,4%) 93 (98,9%)
12-18 tháng 0,030
Thấp 11 (9,7%) 5 (3,3%)
Bình thường 102 (90.3%) 146 (96,7%)
18-24 tháng 0,149
Thấp 4 (15,4%) 1 (2,6%)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 28
Nhóm tháng tuổi Brunet-Lézine Revised-Ngôn ngữ TTON (n=429) Thường (n=509) P*
Bình thường 22 (84,6% 37 (97,4%)
>24 tháng 0,736
Thấp 5 (10,9%) 5 (1,7%)
Bình thường 41 (89,1%) 29 (85,3%)
(*) Kiểm định ᵡ2
BÀN LUẬN
Kết quả này khác với hai nghiên cứu, cỡ mẫu
lớn có sự phối hợp quốc tế của Ponjaert-
Kristoffersen và công sự năm 2004, 2005. Nghiên
cứu năm 2004 theo dõi sự phát triển trí tuệ, vận
động của trẻ 5 tuổi TTON ở ba quốc gia Bỉ, Thụy
Sĩ và Mỹ. 300 trẻ đơn thai ICSI bắt cặp với 266 trẻ
tự nhiên về tuổi mẹ, tuổi bé và giới tính. Nghiên
cứu đã sử dụng thang đo WPPSI-R để khảo sát
sự phát triển nhận thức. Kết quả phân tích dưới
nhóm điểm cắt <85 về các lĩnh vực nhận thức,
vận động, trong đó đặc biệt là ngôn ngữ thì
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
hai nhóm(11). Tương tự cho nhiên cứu Ponjaert-
Kristoffersen 2005 với thiết kế và khảo sát tương
tự nhưng cho dân số 5 nước Châu Âu(10). Vậy lý
do có thể là gì đã mang đến sự khác biệt so với
nghiên cứu chúng tôi?
Trẻ trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi ở
giai đoạn 5-30 tháng tuổi, đây là giai đọan bắt
đầu tập nói đến khi nói tốt, theo sinh lý về sự
phát triển, có thể sẽ là rất khác biệt giữa các trẻ
chỉ cách nhau vài tháng tuổi(8). Như vậy, sự khác
biệt về chỉ số ngôn ngữ với điểm cắt 85 so với
thai tự nhiên xảy ra trên toàn bộ nhóm tuổi hay
chỉ một nhóm hoặc vài nhóm nào đó? Để trả lời
cho câu hỏi này, chúng tôi đã phân tích điểm cắt
ngôn ngữ theo từng nhóm tuổi. Kết quả cho thấy
không có sự khác biệt về chỉ số phát triển ngôn
ngữ ở các nhóm tuổi <8 tháng, 8-12 tháng. Ở
nhóm tuổi 12-18 tháng thì có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) về ngôn ngữ. Tuy nhiên,
sự khác biệt này không còn ở các nhóm tuổi lớn
hơn: nhóm 18-24 tháng, nhóm > 24 tháng
(p>0,05). Vậy, trẻ TTON không chậm hơn trẻ tự
nhiên ở thời điểm bắt đầu biết nói, chỉ chậm hơn
ở giai đoạn nói câu ngắn, nhưng sau đó khi bắt
đầu nói câu nhiều và đặt nhiều câu hỏi thì không
còn khác biệt ở hai nhóm trẻ. Với kết quả tìm
thấy này nghiên cứu của chúng tôi so với các
nghiên cứu của Ponjaert-Kristoffersen không còn
sự khác biệt mà là sự tương đồng với bé TTON
trong nghiên cứu của Ponjaert-Kristoffersen ở
giai đoạn 5 tuổi đây là giai đoạn bé đã nói rất tốt.
Ngoài ra, các nghiên cứu của Ponjaert-
Kristoffersen còn có thể góp phần gia tăng độ tin
cậy trong nghiên cứu của chúng tôi vì đây là các
nghiên cứu có thiết kế tốt, cỡ mẫu lớn, đa quốc
gia, khảo sát trên trẻ lớn, có giá trị tiên lượng tốt.
Nếu thật sự có sự chậm phát triển về ngôn ngữ
thì kết quả này sẽ rõ ràng hơn ở trẻ lớn. Ngoài
ra, một điều thú vị nữa liên quan đến góc độ này
chúng ta có thể thấy khi xem xét nghiên cứu của
Fernanda Guimarães Campos Cardoso và cộng
sự(3). Đây là một nghiên cứu xác định mối tương
quan giữa các lĩnh vữc được đánh giá của thang
Brunet-Lézine và thang Bayley III ở những trẻ
sinh non đến khi 2 tuổi. Nghiên cứu bao gồm 88
trẻ được phân thành 3 nhóm: nhóm 1 (1 tháng-5
tháng 29 ngày) gồm 32 trẻ, nhóm 2 (6 tháng - 11
tháng 29 ngày) gồm 36 trẻ, và nhóm 3 (18 tháng-
23 tháng 23 ngày) gồm 20 trẻ. Sự tương đồng giá
trị của thang Brunet-Lézine và thang Bayley III
được đo bằng hệ số tương quan Pearson hay
Spearman. Kết quả cho thấy có sự tương quan
mạnh về chỉ số phát triển ngôn ngữ giữa hai
thang đo ở giai đoạn 18-24 tháng (r=0,890;
p<0,001). Thang đo Bayley cũng là một trong
những thang đo chuẩn, phổ biến quốc tế, một số
nơi còn xem thang đo này như tiêu chuẩn vàng
trong lượng giá sự phát triển của trẻ. Kết quả
nghiên cứu của Fernanda Guimarães Campos
Cardoso và cộng sự cho thấy sự đo đạc về ngôn
ngữ của thang Brunet-Lézine giai đoạn từ 18
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 29
tháng trở lên có giá trị tin tưởng cao không chỉ
do bản thân trắc nghiệm là trắc nghiệm chuẩn
mà còn có sự tương đồng với trắc nghiệm có giá
trị khác. Trên cơ sở này, chúng tôi tin rằng kết
quả của chúng tôi đáng tin cậy, trẻ TTON có
chậm phát triển ngôn ngữ nhưng chỉ ở giai đoạn
tập nói câu ngắn, sau khoảng thời gian này trẻ
TTON đã bắt kịp sự phát triển so với trẻ tự
nhiên, và kết quả này cũng đồng thuận với các
nghiên cứu có giá trị khác khi tìm thấy không có
sự khác biệt về phát triển ngôn ngữ giữa trẻ lớn
TTON và trẻ tự nhiên. Về lý do để giải thích cho
sự khác biệt này, dựa trên kết quả nghiên cứu
chúng tôi, có thể là do bố mẹ của trẻ TTON có ít
thời gian để nói chuyện với bé hơn do có khung
giờ ít ổn định hơn, việc nói chuyện với bé là sự
kích thích rất lớn cho trẻ đặc biệt giai đoạn nói
“bi bô” câu ngắn. Bằng chứng là, phân bố nghề
nghiệp mẹ khác nhau có ý nghĩa giữa 2 nhóm
TTON và thường, p<0,05. Các bà mẹ mang thai
thường là cán bộ công nhân viên nhà nước
chiếm tỉ lệ 48,5% trong khi nhóm TTON chỉ là
38,2%. Ngược lại nghề nghiệp lao động nặng ở
nhóm TTON lại cao hơn (12,8% vs 4,1%). Sự
khác biệt về nghề nghiệp của bố giữa 2 nhóm
TTON và thường cũng có ý nghĩa thống kê; hơn
nữa chiều hướng tương tự với khác biệt của bà
mẹ. Đặc biệt khảo sát tình trạng uống rượu của
bố cho thấy tỉ lệ bố uống rượu nhiều trong nhóm
TTON cao hơn hẳn nhóm thường (71,3% vs
56,8%), p<0,05. Như vậy, một cách gián tiếp, thời
gian ổn định ở với con cũng như bố mẹ có đầy
đủ sức khỏe, tươi tỉnh để tiếp xúc với con ở
nhóm TTON là ít hơn nhóm thường.
KẾT LUẬN
Thang đo Brunet-Lezine dùng để khảo sát
sức khỏe tâm thần-vận động trẻ đạt chuẩn quốc
tế, có giá trị tin cậy cao khi ứng dụng trong
nghiên cứu. Kết quả chúng tôi tìm thấy: Không
có sự khác biệt về tâm thần-vận động giữa trẻ
sinh ra bằng phương pháp TTTON so với trẻ
mang thai tự nhiên giai đoạn 5-30 tháng tuổi.
Cần phổ biến rộng rãi kết quả nghiên cứu đến
các trung tâm TTON trên cả nước. Đây là kết
quả hữu ích có thể sử dụng để thông tin, tư vấn
cho bệnh nhân trong điều trị hỗ trợ sinh sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abubakar A, Holding P, Van Baar A, Newton CRJC, Van De
Vijver FJR (2008). "Monitoring psychomotor development in a
resource-limited setting: an evaluation of the Kilifi
Developmental Inventory". Annals of tropical paediatrics, 28 (3),
217-226.
2. Bowen JR, Gibson FL, Leslie GI, Saunders DM (1998). "Medical
and developmental outcome at 1 year for children conceived by
intracytoplasmic sperm injection". The Lancet, 351 (9115), 1529-
1534.
3. Cardoso FGC, Formiga CKMR, Bizinotto T, Tessler RB, Rosa F
(2017). "Concurrent Validity of The Brunet -Lézine Scale with
The Bayley Sale for Assessment of The Development of Preterm
Infants Up To Two Years ". Revista Paulista de Pediatria, 35 (2),
144-150.
4. Charkaluk M L, Truffert P, Marchand-Martin L, Mur S,
Kaminski M, Ancel PY et al (2011). "Very preterm children free
of disability or delay at age 2: Predictors of schooling at age 8: A
population-based longitudinal study". Early Human
Development, 87 (4), 297-302.
5. Flamant C, Branger B, Nguyen TTS, de La Rochebrochard E,
Savagner C, Berlie I et al (2011). "Parent-Completed
Developmental Screening in Premature Children: A Valid Tool
for Follow-Up Programs". PLoS ONE, 6 (5), e20004.
6. Knoester M, Helmerhorst FM, Vandenbroucke JP, van der
Westerlaken LAJ, Walther FJ, Veen S (2008). "Cognitive
development of singletons born after intracytoplasmic sperm
injection compared with in vitro fertilization and natural
conception". Fertility and sterility, 90 (2), 289-296.
7. Nobelprize (2010). The Nobel Prize in Physiology or Medicine
2010 to Robert G. Edwards for the development of in vitro
fertilization. The Nobelprize,
https://www.nobelprize.org/nobel_prizes/medicine/laureates/20
10/press.html, 25/3/2017.
8. Pham An (2006). "Sự phát triển tâm thần và vận động". Nhi
Khoa_Chương trình Đại Học, 1(1), 62-73.
9. Place I, Englert Y (2003). "A prospective longitudinal study of
the physical, psychomotor, and intellectual development of
singleton children up to 5 years who were conceived by
intracytoplasmic sperm injection compared with children
conceived spontaneously and by in vitro fertilization". Fertility
and sterility, 80(6), 1388-1397.
10. Ponjaert-Kristoffersen I, Bonduelle M, Barnes J, Nekkebroeck J,
Loft A, Wennerholm UB et al (2005). "International
Collaborative Study of Intracytoplasmic Sperm Injection–
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 30
Conceived, In Vitro Fertilization–Conceived, and Naturally
Conceived 5-Year-Old Child Outcomes: Cognitive and Motor
Assessments". Pediatrics, 115 (3), e283-e289.
11. Ponjaert-Kristoffersen I, Tjus T, Nekkebroeck J, Squires J, Verté
D, Heimann M et al (2004). "Psychological follow-up study of 5-
year-old ICSI children". Human Reproduction, 19 (12), 2791-2797.
12. Squires J, Kaplan P (2007). "Developmental Outcomes of
Children Born After Assisted Reproductive Technologies".
Infants & Young Children, 20(1), 2-10.
13. Sutcliffe AG, Taylor B, Saunders K, Thornton S, Leiberman BA,
Grudzinskas JG (2001). "Outcome in the second year of life after
in-vitro fertilisation by intracytoplasmic sperm injection: a UK
case-control study". The Lancet, 357 (9274), 2080-2084
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 08/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so_sanh_su_phat_trien_tam_than_van_dong_cua_tre_sinh_ra_tu_c.pdf